Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn Thạc sỹ về Thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã ở tỉnh hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.46 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã là một chủ trương quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta để giải quyết những vấn đề bức xúc liên quan đến
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở
vững mạnh. Xác định đúng đắn tầm quan trọng của thực hiện pháp luật dân
chủ ở cấp xã, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề này và có nhiều chủ
trương, chính sách, quy chế để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Mở
rộng và phát huy dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội, nhất là
hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội XI của Đảng
đã chỉ rõ:
….Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao
trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm
trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành
vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống
tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức… [19, tr. 239].
Việc thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã thời gian qua đã chứng tỏ đây
là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng nhu cầu bức thiết và lợi
ích to lớn trực tiếp của đông đảo nhân dân, được nhân dân phấn khởi đón
nhận, tích cực thực hiện, thể hiện tính ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Từ đó, người dân đã hiểu rõ hơn về quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình. Hệ thống chính trị cơ sở, nhất là Hội đồng nhân dân
(HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm ở cơ sở ý thức hơn về dân chủ và tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân.
Quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã không chỉ góp phần
củng cố, kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở,



2

không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước, mà còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của
quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân
dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tìm hiểu việc thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã có ý nghĩa quan
trọng trong việc đề ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả, nhằm nâng cao ý
thức thực hiện pháp luật của người dân trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ
sở. Thực hiện tốt phương châm "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật", phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở với quyền tham gia ngày một rộng
rãi, bình đẳng và thiết thực của nhân dân vào việc quản lý xã hội của Nhà
nước; là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cũng như tiến bộ công
bằng xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn
mới. Nhất là hiện nay cả nước đang quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục
tiêu của chương trình xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh những cố gắng và thành tựu đã đạt được, việc thực hiện
pháp luật về dân chủ cấp xã trên từng địa phương còn có những hạn chế, thiếu
sót, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có
lúc, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy một
cách tối đa. Các chủ thể thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã chưa thực làm
tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở. Thiếu những chế tài cụ thể đối với những hành vi cản trở hoặc
không thực hiện các nội dung của pháp luật dân chủ cấp xã. Thực tế cho thấy,
ở những địa phương thực hiện tốt pháp luật dân chủ cấp xã nhân dân hăng hái
tham gia vào các công việc của nhà nước và xã hội; kinh tế - xã hội phát triển,
phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tình hình an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh. Ngược lại, ở nơi nào không thực hiện tốt pháp luật dân chủ cấp xã thì

kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn, trật tự an toàn xã hội nảy sinh nhiều vấn đề
phức tạp, nhất là trong đền bù giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai, xây


3

dựng cơ bản, thực hiện chế độ chính sách, dẫn đến đơn thư khiếu kiện, tố cáo
vượt cấp kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ trở thành "điểm nóng".
Là một cán bộ công tác tại Ban Dân vận Tỉnh ủy Hà Nam, cơ quan
được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao là bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở của tỉnh, trong đó có nội dung theo dõi và chỉ đạo
việc thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã; trên cơ sở những lý luận và thực tiễn,
học viên xin chọn đề tài "Thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã ở tỉnh Hà
Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật, với mong muốn góp phần thực hiện pháp luật dân chủ cấp
xã ở Hà Nam ngày càng tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
* Pháp luật về dân chủ và dân chủ cơ sở
- "Thực hiện dân chủ trong thời kỳ đổi mới ở nước ta", của ThS Hoàng
Văn Nghĩa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, năm 2002.
- "Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính
quyền cơ sở nông thôn", của TS. Nguyễn Văn Sáu, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 11-2002.
- "Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới", của Tòng Thị Phóng, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/2003.
- "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam",
của Trần Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003.
- "Về dân chủ ở cơ sở", của PGS. Nguyễn Huy Quý, Tạp chí Cộng
sản, số 4, tháng 2/2004.
- GS.TS Hoàng Chí Bảo: "Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn

trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2010.
- PGS.TS Lê Minh Quân: "Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011.


4

Những tác phẩm này đã nêu rõ giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về dân chủ, dân chủ XHCN; tìm hiểu các
quan niệm và khái niệm, lý thuyết về mô hình dân chủ hóa, những yếu tố tác
động và quá trình dân chủ hóa trên thế giới; đánh giá khách quan những thành
quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra hạn chế do bản chất
giai cấp tư sản quy định. Đồng thời, nêu bật tầm quan trọng của dân chủ và
dân chủ cơ sở, chỉ rõ những thành công, hạn chế và giải pháp khắc phục trong
xây dựng và thực hiện nền dân chủ ở Việt Nam.
* Thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở và cấp xã
- "Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở lên một
bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn", của Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Nông Đức Mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng
10/2004.
- Trần Quốc Huy: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2005;
- Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước
ta hiện nay, của tác giả TS Nguyễn Văn Sáu- GS Hồ Văn Thông(2005) Nxb
Chính trị quốc gia, HN.
- Luận văn thạc sĩ (2006), Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân
chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay, của Ngô
Thị Hòa, thuộc chuyên ngành luật.
- Luận văn thạc sĩ (2010) "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
trên địa bàn thành phố Hải Phòng", của Trần Phú Vương chuyên ngành luật.
- Luận văn thạc sĩ (2010) "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở

trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội" của Vương Ngọc Thịnh, thuộc chuyên
ngành luật.
Có thể thấy, đã có nhiều công trình nhiên cứu về Quy chế dân chủ ở
cơ sở và thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở, tuy nhiên chủ yếu các bài viết,


5

công trình tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai quy
chế dân chủ ở cấp xã, đánh giá tổng kết những thành tựu, hạn chế đề ra một số
giải pháp chung cho việc thực hiện thời gian tới. Tùy thuộc vào phạm vi
nghiên cứu khác nhau một số công trình đã nghiên cứu vấn đề thực hiện dân
chủ ở cấp xã trên địa bàn cụ thể của một địa phương cấp tỉnh hoặc cấp huyện.
Song, số lượng các công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về thực hiện
pháp luật dân chủ cấp xã trên cơ sở lý luận và thực tiễn còn hạn chế; mặt khác
việc đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả pháp
luật về dân chủ ở cấp xã, đáp ứng nhu cầu dân chủ của người dân thời kỳ đẩy
mạnh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế còn nhiều ý kiến khác
nhau. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên có giá trị tham khảo tốt cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Với đề tài nghiên cứu "Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở tỉnh
Hà Nam hiện nay", luận văn đi vào nghiên cứu những vấn đề dân chủ ở cấp
xã dưới góc độ thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà Nam, để làm rõ quan
điểm của Đảng và Nhà nước về dân chủ ở cấp xã; khảo sát thực trạng thực
hiện pháp luật dân chủ cấp xã ở tỉnh Hà Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã
của tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu, tìm
hiểu những vấn đề lý luận và đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật

dân chủ cấp xã ở tỉnh Hà Nam, mục đích nghiên cứu luận văn đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã ở tỉnh
Hà Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Phân tích những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã;


6

- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã trên địa bàn
tỉnh Hà Nam hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật
dân chủ cấp xã ở tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn từ năm 1998 và Pháp lệnh 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
từ 01/7/2007 trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
về pháp luật, về dân chủ, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích
tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử và logic...

6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực
hiện pháp luật dân chủ cấp xã.


7

- Đánh giá toàn diện tình hình thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã ở
tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp có tính khả thi nhằm
bảo đảm thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã ở tỉnh Hà Nam trong giai đoạn
hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện
pháp luật dân chủ ở cấp xã.
- Luận văn góp phần đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách
nhiệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể khác trong thực hiện quyền dân chủ ở tỉnh Hà Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Ban Chỉ đạo thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở tỉnh Hà Nam trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
pháp luật dân chủ cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT DÂN CHỦ CẤP XÃ Ở TỈNH HÀ NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
DÂN CHỦ CẤP XÃ

1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ, khái niệm dân chủ ở cấp xã
* Khái niệm dân chủ
Dân chủ từ bao đời nay luôn là đề tài hấp dẫn đối với các học giả
trong và ngoài nước, bởi dân chủ liên quan mật thiết tới cuộc sống của con
người và sự phát triển của xã hội. Nhân loại đang trong quá trình phát triển sẽ
ngày càng nhận thức, phát triển về lý luận cũng như thực tiễn vấn đề dân chủ.
Những khái niệm mới về dân chủ cũng như cách thức thể hiện nó sẽ ngày
càng sinh động, hoàn thiện hơn. Thuật ngữ "dân chủ" ra đời từ thời Hy Lạp cổ
đại (khoảng thế kỷ thứ VII-VI trước công nguyên). Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân
chủ là do hai từ hợp thành, "demos" là nhân dân và "kratos" là quyền lực hay
chính quyền. Như vậy có thể hiểu dân chủ là chính quyền thuộc về nhân dân,
nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước dân chủ là nhà nước thừa
nhận và bảo đảm các quyền tự do và bình đẳng của công dân.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa:
Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội
dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa
nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng
vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội
nhất định [68, tr. 653].


9


Dân chủ là khát vọng vươn tới và là mục tiêu đấu tranh của xã hội loài
người. Trong đó, dân chủ XHCN là đỉnh cao của nền dân chủ, vì các nền dân
chủ trước đó đều là dân chủ cho giai cấp thiểu số trong xã hội. Chỉ đến khi
nền dân chủ vô sản - dân chủ XHCN ra đời, thì đó mới là chế độ dân chủ thực
sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của pháp luật, của
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ XHCN
Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hiện tượng
lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức
khác nhau trong điều kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong
xã hội XHCN, "dân chủ" có một chất lượng mới do được phát triển đầy đủ
trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải phóng
và phát triển toàn diện. Trong đó, "sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện phát triển tự do của tất cả mọi người" [43, tr. 569].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ trước hết là một hình thức Nhà
nước. V.I. Lênin viết: "Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc
thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi
hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác" [42, tr. 101]. Vì
vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự biến
đổi của cuộc đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương thức sản xuất chủ
yếu của xã hội. Dân chủ XHCN là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát
triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ
XHCN là giải phóng con người, để con người có thể thực hiện được những
quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết định những vấn đề
xã hội. Theo C. Mác, dân chủ XHCN thực chất là chế độ "do nhân dân tự quy
định Nhà nước", nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhân
dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết
định những vấn đề quan trọng, kiểm tra giám sát hoạt động của Nhà nước
thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Trình độ phát triển



10

hơn hẳn của XHCN so với tư bản chủ nghĩa là ở chỗ dân chủ được thực hiện
đầy đủ. Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của nhân
dân thành ba nội dung lớn: quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý các công
việc của Nhà nước và quyền bãi miễn. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ
XHCN có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Dân chủ cho nhân dân lao động;
+ Dân chủ thực sự;
+ Dân chủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng,
văn hóa... Thực chất của dân chủ XHCN là sự tham gia một cách thực sự bình
đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào quản lý công việc
của Nhà nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân
trong mối quan hệ với Nhà nước. Vì vậy nó trở thành mục tiêu và động lực
của sự phát triển xã hội.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về "dân chủ" của nhân loại, Hồ Chí
Minh lý giải khái niệm "dân chủ" một cách đơn giản, hết sức cô đọng và dễ hiểu,
dễ thực hiện. Bản chất của nền dân chủ XHCN đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ" [45, tr. 151],
"Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [46, tr. 525].
Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [47, tr. 698].



11

Như vậy, "dân là chủ" và "dân làm chủ" là cốt lõi trong khái niệm
"dân chủ" của Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn xác định dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, dân chủ XHCN ngày càng được mở rộng
về nội dung, dân chủ cả trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ở các cấp
từ Trung ương đến cơ sở, đến từng người dân bằng các hình thức dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ ngày càng được thể hiện trong tất cả mối
quan hệ xã hội. Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN, mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng là nhằm xây dựng nền dân chủ
XHCN, với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Khái niệm dân chủ ở cấp xã
Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN, được tổ
chức thành 4 cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp
huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Cấp xã là cấp cuối cùng
trong hệ thống chính trị 4 cấp, nên thường được gọi là cấp cơ sở.
Dân chủ ở cấp xã là một nội dung quan trọng, chủ yếu, đề cập đến
việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở nước
ta theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Dân chủ cấp
xã là việc thừa nhận thường xuyên các quyền làm chủ của công dân; tăng
cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa nhà nước và công dân nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân ở cơ sở. Như vậy, dân chủ
cấp xã là khâu quan trọng và cấp bách trước mắt cũng như lâu dài ở nước ta.

Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương thực hiện có nề nếp phương châm "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và chủ trương đó ngày càng được thực


12

tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách quan, và để quá trình dân chủ hóa thực sự
đi vào cuộc sống, chúng ta cần cụ thể hóa phương châm này. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6/1997)
khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
1.1.1.2. Khái niệm pháp luật dân chủ và pháp luật dân chủ ở cấp xã
- Khái niệm pháp luật về dân chủ
Pháp luật giữ vai trò quan trọng, là phương tiện để nhân dân phát huy
quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó luôn tác động, ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới
các quan hệ xã hội; trong đó có các quan hệ giữa cá nhân công dân với Nhà
nước, giữa công dân với nhau trong đời sống xã hội. Các quyền tự do dân chủ
của nhân dân được ghi nhận đầy đủ bao nhiêu trong pháp luật thì pháp luật tự
chuyển hóa thành pháp quyền ở mức độ tương ứng. Quá trình mở rộng dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đồng thời phải luật hóa các quyền
tự do dân chủ ấy. Dân chủ và pháp luật ràng buộc chi phối nhau. Pháp luật
phản ánh mức độ của nền dân chủ, dân chủ là thước đo giá trị của pháp luật.
Pháp luật đảm bảo thực hiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực
của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội. Dân chủ là thuộc tính của Nhà nước
XHCN, việc tăng cường hiệu lực và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản
lý mọi mặt của đời sống xã hội luôn gắn liền với quá trình thực hiện, mở rộng
dân chủ XHCN. Những quyền tự do dân chủ của công dân phải được quy

định cụ thể trong pháp luật, Nhà nước phải đảm bảo cho công dân thực hiện
các quyền đó trong khuôn khổ luật định. Đồng thời, pháp luật cũng quy định
những nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải thực hiện để đảm bảo trật tự, kỷ
cương xã hội. Như vậy, pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà


13

nước ban hành và đảm bảo thực hiện; điều chỉnh những quan hệ phát sinh
giữa Nhà nước; các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế và
công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, pháp luật về dân chủ có
phạm vi và nội dung điều chỉnh rất rộng lớn.
- Khái niệm pháp luật dân chủ cấp xã
Khái niệm pháp luật dân chủ cấp xã có thể thấy trong Pháp lệnh 34,
quy định tại Điều 1 "Phạm vi điều chỉnh":
Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để
nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những
nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của
chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc (sau đây
gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (sau đây gọi
chung là tổ dân phố), của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ cấp xã [50, tr. 1].
Từ những nội dung trên có thể định nghĩa pháp luật dân chủ cấp xã
như sau: Pháp luật dân chủ cấp xã bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ
chức kinh tế và công dân bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn xã, phường,

thị trấn. Các quy phạm pháp luật đó được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật
bao gồm: Hiến pháp, Luật bầu cử đại biểu quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu
HĐND, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Đất đai, Luật Thương mại,
Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Phòng chống tham nhũng... Nghị định 29, Nghị
định 79, Pháp lệnh số 34 về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Các văn bản pháp luật này nhằm thể chế phương châm "dân biết, dân bàn, dân


14

làm, dân kiểm tra" trên các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra ở cơ sở, nơi mỗi
công dân đều gắn bó, sinh sống, lao động, học tập, nơi họ có quyền làm chủ.
Trong đó Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản pháp
luật quy định cụ thể những việc HĐND và UBND cấp xã phải thông tin kịp
thời và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp,
những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định,
những việc dân giám sát, kiểm tra và các phương thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật dân
chủ ở cấp xã
- Khái niệm về thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể
pháp luật khác khi gặp phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự
liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử
sự chung mà nhà nước đã quy định vào tình huống cụ thể đó thông qua hành
vi thực tế hợp pháp của mình. Nói cách khác, những đòi hỏi, cấm đoán hay
cho phép của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành
hành vi thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật. Dưới góc
độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi pháp luật (hành động hoặc không
hành động) hợp pháp, nghĩa là nó được tiến hành phù hợp với những yêu cầu,

đòi hỏi trong phạm vi các quy định của pháp luật.
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân, mọi
tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
Đối với Nhà nước thì thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, quản lý và bảo vệ xã hội,
còn đối với các tổ chức phi nhà nước hoặc các cá nhân thì thực hiện pháp luật
là hoạt động sử dụng các quyền, tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp
lý mà pháp luật quy định cho họ. Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục


15

đích nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật. Do vậy, đây là quá trình hoạt
động có lý trí và có ý chí của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống nhằm đạt được những mục đích nhất định vì
lợi ích của mỗi thành viên, cũng như của cả cộng đồng xã hội. Thực hiện pháp
luật còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực
định để từ đó có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào
cuộc sống. Pháp luật được thực hiện nghiêm minh sẽ tạo ra trật tự cần thiết để
các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển theo những định hướng mong muốn có
lợi cho xã hội, cho nhà nước cũng như cho các cá nhân.
Thực hiện pháp luật được tiến hành thông qua nhiều hình thức và
những quy trình khác nhau. Pháp luật gồm rất nhiều loại quy phạm pháp luật
khác nhau, với mỗi loại quy phạm pháp luật có cách thức và quy trình thực
hiện khác nhau. Việc thực hiện pháp luật có thể phụ thuộc ý chí của Nhà
nước. Hành vi thực hiện pháp luật có thể được chủ thể tiến hành trên cơ sở
nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải làm như vậy và do vậy chủ thể đã tự
giác thực hiện. Cũng có thể hành vi thực hiện pháp luật được chủ thể tiến
hành do ảnh hưởng của những người khác, do bị áp dụng những biện pháp

cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó. Một số quy
phạm pháp luật có thể được thực hiện thông qua những quy trình giản đơn;
song cũng có nhiều quy phạm pháp luật để thực hiện đòi hỏi phải thông qua
những quy trình phức tạp với sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân theo
những trình tự, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định. Như vậy, thực hiện
pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của
pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
- Thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân. Pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền làm chủ của


16

nhân dân và có vị trí tối cao trong cách ứng xử của cả công dân, các tổ chức
và Nhà nước. Song, mục đích đó có đạt được hay không, pháp luật có triển
khai thực hiện trong thực tế cuộc sống hay không phụ thuộc vào hiệu quả thực
hiện pháp luật của các chủ thể.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về dân chủ cấp xã được hiểu bao
gồm Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã, các văn bản hướng dẫn thực hiện
và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến dân chủ cấp xã. Quá trình thực
hiện pháp luật về dân chủ là một quá trình phức tạp, lâu dài. Muốn phát huy
vai trò của pháp luật về dân chủ trong đời sống xã hội ở cấp xã, đòi hỏi phải
xác lập một cơ chế, một quy trình hợp lý, nhờ đó tác động lên ý thức, hành vi
của các chủ thể pháp luật ở cấp xã. Do đó, có thể định nghĩa thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cấp xã như sau: Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã là
hoạt động có mục đích, có một cơ chế và quy trình chặt chẽ nhờ đó chủ thể
pháp luật thực hiện hành vi của mình phù hợp với yêu cầu của quy phạm
pháp luật về dân chủ, bảo đảm các quy định của pháp luật về dân chủ ở cấp

xã trở thành hành vi thực tế hợp pháp trong đời sống xã hội. Như vậy, việc
thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã làm cho những quy định của pháp luật về
dân chủ cấp xã đi vào cuộc sống, nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ, sức
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội đáp ứng yêu
cầu xây dựng xã hội giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân
chủ cấp xã chủ yếu là tập trung thực hiện những nội dung quy định của Pháp
lệnh 34. Chủ thể thực hiện là nhân dân, các tổ chức, đơn vị ở cấp xã. Theo
Điều 2, Pháp lệnh 34 thì thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực
hiện theo 5 nguyên tắc:
1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. 2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý
kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp


17

xã. 3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân. 4. Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện
dân chủ ở cấp xã. 5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước [50, tr. 8].
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Thứ nhất, thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã thực chất là bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ" và cụ thể hóa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra" ở xã, phường, thị trấn.
Thứ hai, thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã có sự tham gia của cả hệ
thống chính trị cơ sở, các cá nhân và nhân dân nhằm phát huy mạnh mẽ quyền
làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở cấp xã, động viên khơi dậy sức mạnh

vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây
dựng Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể ở cấp xã trong sạch, vững mạnh.
Thứ ba, thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã vừa phát huy chế độ dân
chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa
phương, quy định những nghĩa vụ cụ thể của chính quyền trong việc đảm bảo
quyền làm chủ của người dân ở cơ sở. Đồng thời, thực hiện chế độ dân chủ
trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc
quan trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân.
Thứ tư, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã không chỉ là công cụ để
quản lý nhà nước, mà còn là công cụ để nhân dân xây dựng nếp sống tự quản
trong cộng đồng dân cư.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã là thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, khác với thực hiện pháp luật
trong các lĩnh vực, các ngành luật khác ở các chủ thể, phạm vi, nội dung và
các hình thức thực hiện.


18

+ Chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trước hết là chính quyền
(HĐND, UBND) cấp xã, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và
các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã,
các công dân sinh sống trong địa bàn xã.
+ Phạm vi thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã diễn ra giữa các
chủ thể mà một bên bao giờ cũng là công dân sống trong một đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn. Chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể
trong thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã vừa mang tính chất quản lý hành
chính vừa mang tính chất tự quản.
+ Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã rất rộng lớn, có liên

quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú, được thực hiện
theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", trong đó các
việc biết, bàn, làm, kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ và chất lượng thực hiện
nội dung này ảnh hưởng quyết định đối với việc thực hiện nội dung tiếp theo.
1.1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã
Hình thức thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã thể hiện đầy đủ bốn hình
thức thực hiện pháp luật đó là: chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, tuân
thủ pháp luật và áp dụng pháp luật:
* Hình thức chấp hành pháp luật về dân chủ cấp xã
- Đối với chủ thể là chính quyền cấp xã: Chính quyền cấp xã phải thực
hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành vi tích cực, đó là nghĩa vụ công khai
những điều nhân dân được biết, bằng những hình thức cụ thể: niêm yết công
khai tại trụ sở UBND, thời gian niêm yết; công khai trên hệ thống loa truyền
thanh; công khai qua thôn xóm, tổ dân phố. Đây là những hình thức rất cụ thể,
chính quyền cấp xã phải thực hiện để công khai hóa các nội dung quy định tại
Điều 5 của Pháp lệnh dân chủ ở cấp xã. Công khai, minh bạch vừa là đòi hỏi
khách quan vừa là hình thức thi hành quyền lực nhà nước, vừa tạo điều kiện
cho nhân dân giám sát nhà nước. Thực hiện tốt công khai sẽ khắc phục tình


19

trạng bưng bít thông tin, tăng cường khả năng giám sát, phản biện xã hội, hạn
chế quan liêu, cửa quyền, hách dịch và tham nhũng ở địa phương. Để thực
hiện nghĩa vụ công khai, chính quyền địa phương phải thực hiện một loạt các
công việc phức tạp từ lựa chọn, bố trí cán bộ, công chức, xây dựng kế hoạch,
chuẩn bị nguồn lực, đây không phải là việc đơn giản.
- Đối với chủ thể là nhân dân: hình thức chấp hành pháp luật về dân
chủ cấp xã thể hiện trong việc tích cực thực hiện các nghĩa vụ của mình đã
được chính quyền cấp xã công khai như nghĩa vụ đóng góp các khoản phí, lệ

phí và các nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền xã trực tiếp thu; nghĩa vụ
giải phóng mặt bằng theo phương án đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt.
* Hình thức tuân theo pháp luật về dân chủ cấp xã
Đây là hình thức thực hiện pháp luật yêu cầu các chủ thể kiềm chế
không thực hiện những điều mà pháp luật cấm đoán.
- Đối với chủ thể là chính quyền cấp xã: Chính quyền cấp xã trong
quan hệ với nhân dân không được giải quyết các vụ việc vượt quá thẩm
quyền; không được bao che, dung túng cho các hành vi vi phạm pháp luật;
không được cản trở hoặc vi phạm các quyền tự do, dân chủ công dân.
- Đối với nhân dân: tuân thủ pháp luật dân chủ thể hiện thông qua các
hành vi như không được lợi dụng các quyền tự do dân chủ của công dân để
gây rối trật tự; không nghe các phần tử xấu kích động chống đối chính quyền.
* Hình thức sử dụng pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Đây là hình thức quan trọng của nhân dân được pháp luật về dân chủ ở
cấp xã quy định rất cụ thể, chính quyền xã phải tôn trọng và tạo điều kiện cho
nhân dân sử dụng các quyền dân chủ của mình, như các quyền được bàn về chủ
trương đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, công trình phúc lợi ở địa phương;
đóng góp vào quy hoạch, kế hoạch xây dựng nông thôn mới và phát triển đô thị;
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; bàn và xây dựng hương ước của thôn, của


20

tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng dân phố; bầu,
bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng.
* Hình thức áp dụng pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Đây là hình thức mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện thông
qua chính quyền cấp xã hoặc cán bộ công chức xã nhằm cá biệt hóa quy phạm
pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Áp dụng pháp luật về dân chủ cấp xã được

thể hiện trong các trường hợp như căn cứ vào thẩm quyền của cấp xã được
quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ cấp xã, ra quyết định công nhận
hương ước; quyết định kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, quyết
định kỷ luật công chức xã vi phạm, cản trở các quyền dân chủ của công dân,…
1.2. YÊU CẦU VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ

1.2.1. Yêu cầu thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã chính là thực hiện các quy
định của pháp luật về các quyền dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Các nội dung quy định của pháp luật nhằm thể chế hóa đường lối của Đảng
theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đây cũng là
yêu cầu và nội dung cơ bản của thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã. Các quy
định của pháp luật XHCN ngày càng được hoàn thiện và đảm bảo thực hiện
đầy đủ nội dung yêu cầu để Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do
dân, vì dân. Nội dung thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã ngày càng được
bổ sung, hoàn thiện, ngày 20-4-2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 đã
ban hành pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, Pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 01-07-2007. Những nội dung
quy định của Pháp lệnh 34 là những nội dung chủ yếu, cơ bản của thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã, Pháp lệnh gồm 6 chương, 28 điều, quy định
những nội dung phải công khai để dân biết, những nội dung nhân dân bàn và
quyết định, những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền,


21

cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; nguyên
tắc trách nhiệm thực hiện dân chủ ở cấp xã và các hành vi bị nghiêm cấm.

* Dân biết
Là khâu đầu tiên để thực hiện công khai, dân chủ với nhân dân; nhân
dân biết để nâng cao trình độ mọi mặt, biết để góp ý xây dựng, bổ sung, sửa
đổi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, dân
biết để tạo dư luận, hiến kế, đề xuất chủ trương biện pháp, dân yêu cầu được
biết cặn kẽ cái gì đang diễn ra trong đời sống cộng đồng, họ được bàn và
quyết định việc gì, vì sao. Các nội dung dân biết có quan hệ chặt chẽ và bổ
sung cho nhau, trình độ dân trí ngày càng cao thì nhận thức, góp ý càng đúng
đắn, tránh được sai lầm. Thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã đòi hỏi vấn đề
"dân biết" là hết sức cấp bách, khách quan, nhân dân có quyền được thông tin
và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước là phải cung cấp thông tin. Về nội
dung yêu cầu dân biết, Pháp lệnh 34 quy định các hình thức công khai, trách
nhiệm phải công khai tổ dân phố biết bao gồm:
+ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm ở cấp xã.
+ Dự án công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công
trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương
án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải
quyết các công việc của nhân dân.
+ Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo
chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
+ Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất,
xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn


22

phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo

hiểm y tế.
+ Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa
giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
+ Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín
nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND cấp xã.
+ Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn
đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy
ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh.
+ Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
+ Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các
công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
+ Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
* Dân bàn
Về thực chất là quyền tự do ngôn luận, quyền được thảo luận, chất vấn
của nhân dân. Dân bàn để hiểu thêm những vấn đề về kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng, bàn để làm, để quyết định. Dân có thể bàn ở nhiều nơi, trên nhiều
diễn đàn. Để chuẩn bị kỹ và nâng cao chất lượng cung cấp thông tin cũng như
kết quả bàn của dân thì chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội phải: thông
báo để nhân dân biết những nội dung sẽ bàn và cung cấp đầy đủ thông tin,
phổ biến những hình thức để dân chuẩn bị tham gia bàn bạc, tránh bệnh hình
thức trong việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân; tiếp thu, chắt lọc, bổ sung
những vấn đề dân bàn bạc, những sáng kiến, biện pháp hay để giải quyết
những vấn đề bức xúc trong thực tiễn. Về nội dung dân bàn, có ba loại: công
việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; công việc nhân dân bàn, biểu quyết


23


để cấp có thẩm quyền quyết định; nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
có thẩm quyền quyết định. Pháp lệnh 34 cũng quy định hình thức bàn và trách
nhiệm của các tổ chức trong thực hiện những nội dung dân bàn.
- Những nội dung dân bàn và quyết định trực tiếp: là những chủ
trương và mức đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi
công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn
bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân
cư phù hợp với quy định của pháp luật.
- Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định: hương
ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn,
tổ trưởng tổ dân phố; bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư của cộng đồng.
- Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định những nội dung sau:
+ Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng
kinh tế mới và phương án phát triển ngành, nghề của cấp xã.
+ Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.
+ Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp
xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ
sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
+ Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều
chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
+ Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định
của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính
quyền cấp xã thấy cần thiết.



24

* Dân làm
Là hành động của nhân dân nhằm biến đổi tự nhiên và cải tạo xã hội,
dân dùng sức lao động của mình để đạt những kết quả cụ thể. Dân làm sau khi
đã được biết, được bàn. Vì vậy, hiệu quả của dân làm, quy mô thực hiện phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó vấn đề lợi ích, nhất là lợi ích về kinh tế của
dân có được đáp ứng hay không đóng vai trò rất quan trọng, nhân dân là chủ
thể sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, đó là quyền nhưng cũng
là nghĩa vụ, là đòi hỏi của mỗi tổ chức đối với thành viên của mình. Vấn đề là
các tổ chức phải biết khơi dậy, phát huy, khai thác trí tuệ, sức lực của nhân
dân để tạo ra tổng lực cho sự phát triển, phát động và tạo ra những phong trào
hành động rộng rãi của nhân dân.
* Dân kiểm tra
Là nội dung yêu cầu của dân chủ nhằm đảm bảo cho các hoạt động của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức thực sự đúng đắn, hiệu quả. Nhằm xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
chính đáng của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát những gì có liên
quan đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của họ. Trong đó, trọng tâm là kiểm tra việc
thực hiện những quy định về kinh tế, tài chính, chính sách xã hội và giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý nhà nước và cán bô, công chức. Dân có thể kiểm tra, giám sát bằng cách
trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân hoặc cơ chế kiểm tra thông qua
các tổ chức đại diện được pháp luật thừa nhận. Các cơ quan nhà nước phải tổ
chức cho nhân dân tham gia phát hiện, cung cấp thông tin và tham gia xác minh
những vụ việc cần thiết tại cơ sở. Về nội dung dân kiểm tra, giám sát Pháp lệnh
34 quy định nhân dân có quyền giám sát việc thực hiện các nội dung quy định
về dân biết, dân bàn đã nêu trên; hình thức và trách nhiệm của các tổ chức và
cá nhân trong việc thực hiện giám sát của dân.



25

1.2.2. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã
Việc thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã có hiệu quả hay không phụ
thuộc vào các yếu tố và những điều kiện pháp lý cụ thể: sự hoàn thiện hệ
thống pháp luật, trong đó có văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân
chủ cấp xã; hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã, ý
thức pháp luật của các chủ thể trong điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội nhất
định. Do vậy, các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật
dân chủ cấp xã bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, bảo đảm về sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, trong đó
có các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ cấp xã.
Để thực hiện có hiệu quả pháp luật dân chủ cấp xã đòi hỏi các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan phải ban hành đồng bộ, hoàn thiện về nội
dung, phải đạt tiêu chuẩn, yêu cầu nhất định cả về quy trình ban hành và kỹ
thuật văn bản. Một hệ thống pháp luật trong đó có một bộ phận pháp luật về
dân chủ cấp xã chỉ có thể phát huy tốt hiệu quả của nó trên thực tế khi nó bảo
đảm các yêu cầu sau:
- Pháp luật phải có tính ổn định: đây là yêu cầu cần thiết, bởi không thể
thường xuyên làm đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật.
- Pháp luật phải bảo đảm tính chuẩn mực, tức là tính quy phạm của
pháp luật: bản thân pháp luật là hệ thống các quy phạm, tức là tính khuôn
mẫu, mẫu mực. Giá trị của pháp luật chính là tạo ra tính chuẩn mực cho các
chủ thể khác nhau trong xã hội. Nếu pháp luật không chứa đựng tính chuẩn
mực thì ý nghĩa của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội sẽ không lớn.
- Pháp luật phải nhất quán, hệ thống: Pháp luật phải có tính nhất quán,
thể hiện ở chỗ các văn bản trong lĩnh vực thực hiện dân chủ cấp xã cùng với
quy phạm pháp luật trong nhiều lĩnh vực khác đều phải bảo đảm thực hiện
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Tính hệ thống cũng có những khía

cạnh tương đồng với tính nhất quán. Tuy nhiên, tính nhất quán của pháp luật


×