I. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Phần I: TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI
Câu 1, Trình bày nội dung cơ bản về thế giới quan và nhân sinh
quan triết học Phật giáo? Liện hệ sự ảnh hưởng của Phật giáo đến thế giới
quan và nhân sinh quan người Việt
- Khái quát về triết học Phật giáo:
Phật giáo ra đời vào khoảng TK 6 .TCN là thời kỳ hình thành tôn giáo lớn
với 2 hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống (tà giáo).
Phật giáo được coi là tà giáo. Trong xã hội ranh giới giữa các đẳng cấp trơ
nên hết sức nghiệt ngã. Khát vọng được giải thoát, khát vọng có cuộc
sống bình đẳng, cuộc sống bác ái lan rộng khắp các tiểu vương quốc. Đạo
phật ra đời trong làn sóng chống sự ngự trị của đạo Bàlamôn. Chống lại
nạn kì thị đẳng cấp, đòi tự do bình đẳng, lý giải nguyên nhân khổ đau và
con đường giải thoát là sống đức độ và hướng thiện.
Người sáng lập là Thái tử Siddharta ( Tất Đạt Đa) – con trai của Vua Tịnh
Phạn Vương – nước Tịnh Phạn – một vương quốc phía Bắc Ấn Độ .Sau
này gọi ngài là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Kinh điển bộ Tam Tạng gồm: tạng kinh, tạng luận, tạng luật.
Phật giáo ra đời là một trào lưu triết học nhanh chóng trở thành quốc
giáo của Ấn Độ và ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tinh
thần của nhiều dân tộc phương đông và phương tây.
* Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo
- Thế giới quan Phật giáo có những yếu tố duy vật và vô thần chứa đựng
nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc:
Bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra một
nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng Tối cao
(Brahman) nào sáng tạo ra vũ trụ. Cùng với sự phủ định Brahman, Phật giáo
cũng phủ định phạm trù(Anatman, nghĩa là không có tôi) và các phạm trù: vô
ngã, vô thường, duyên .
+ Vô ngã: Quan điểm "vô ngã" cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự
"giả hợp" do hội đủ nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự
tồn tại của thực thể con người chẳng qua là do "ngũ uẩn" (5 yếu tố) hội tụ lại là:
sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tương (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức).
Như vậy là không có cái gọi là "tôi" (vô ngã).
+ Vô thường: PG cho rằng không có người sáng tạo đầu tiên và không có
gì là vĩnh hằng tuyệt đối. Quan điểm "vô thường" cho rằng vạn vật biến đổi vô
cùng theo chu trình bất tận: sinh - trụ - dị - diệt. Vậy thì "có có" - "không không"
luân hồi bất tận; "thoáng có", "thoáng không", cái còn thì chẳng còn, cái mất thì
chẳng mất.
+ Duyên: Sự vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội
họp mà thành. Muôn loài sinh thành biến hoá và biến hoá này diễn ra rất nhanh
(theo chu trình : sinh - trụ - dị - diệt), diễn ra theo quy luật nhân quả (gọi là
duyên). Duyên là điều kiện giúp cho biến nhân thành quả. Quả lại do duyên mà
thành quả khác. Nhân khác lại có duyên mà thành quả mới. Cứ như vậy, tiếp nối
nhau vô cùng, vô tận
- Về nhân sinh quan là phần trọng tâm của TH Phật giáo Mục tiêu cao nhất
của PG là gq những vấn đề thuộc về đs nhân sinh. Mục đích cuối cùng của PG là
tìm con đường giải thoát chúng sinh khỏi luân hồi, quả báo để đạt tới trạng thái
niết bàn. PG bác bỏ đấng sáng tạo và cái tôi nhưng lại thừa nhận có kiếp và
nghiệp.
Con người là duyên hợp của ngũ uẩn (sắc uẩn, thụ uẩn, tương uẩn, hành
uẩn, thức uẩn).
Ngũ uẩn được chia thành phần danh và phần sắc.
Cũng như vạn vật, con người là thực thể vô thường, vô ngã, giả tướng.
Linh hồn bất tử của con người vận hành qua các kiếp theo luân hồi –
nghiệp báo.
PG thể hiện tính quần chúng cao, mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua
giới hạn đẳng cấp nghiệt ngã của xã hội Ấn Độ cổ đại.
Vì không nhận thức được trạng thái vô thường, vô ngã, giả tướng, luân hồi –
nghiệp báo nên con người khát ái, tham dục, tạo nên nghiệp ác, chìm trong biển
khổ triền miên.
Tứ diệu đế là con đường con người tự giải thoát để đạt đến cõi cực lạc vĩnh
hằng (niết bàn) – là nội dung cốt lõi về nhân sinh quan Phật giáo:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà
khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
1. Khổ đế : Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có tám nỗi khổ (bát
khổ): sinh, lão (già), bệnh (ốm đau), tử (chết), thụ biệt ly (thương yêu nhau phải
xa nhau), oán tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần với nhau), sơ cầu bất
đắc (mong muốn nhưng không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung
nấu làm khổ sơ).
2. Tập đế hay nhân đế : Phật giáo cho rằng cuộc sống đau khổ là có nguyên
nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra thuyết "thập nhị nhân
duyên" - đó là mười hai nguyên nhân và kết quả nối theo nhau, cuối cùng dẫn
đến các đau khổ của con người: 1/ Vô minh, 2/ Hành; 3/ Thức; 4/ Danh sắc; 5/
Lục nhập; 6/Xúc; 7/ Thụ; 8/ ái; 9/ Thủ; 10/ Hữu; 11/ Sinh; 12/ Lão - Tử. Trong
đó "vô minh" là nguyên nhân đầu tiên
3. Diệt đế : Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt để đạt tới trạng thái
Niết bàn thông qua thực hành tích nghiệp thiện => thể hiện tinh thần lạc quan hy
vọng vào tương lai tốt đẹp hơn.
4. Đạo đế : Đạo đế chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ.
=> Phật giáo chỉ ra chiều hướng và con đường mà con người phải trải qua để đạt
tới niết bàn.
Đó là con đường "tu đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc
(bát chính đạo): 1/ Chính kiến (hiểu biết đúng tứ đế); 2/ Chính tư (suy nghĩ đúng
đắn); 3/ Chính ngữ (nói lời đúng đắn); 4/ Chính nghiệp (giữ nghiệp không tác
động xấu); 5/ Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng); 6/ Chính tinh tiến (rèn luyện tu
lập không mệt mỏi); 7/ Chính niệm (có niềm tin bền vững vào giải thoát); 8/
Chính định (tập trung tư tương cao độ).
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định,
tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung
cho nhau. Giới là giữ cho thân, tâm thanh tịnh, trong sạch. Định là thu tâm,
nhiếp tâm để cho sức mạnh của tâm không bị ngoại cảnh làm xáo động. Tuệ là
trí tuệ. Phật giáo coi trọng khai mơ trí tuệ để thực hiện giải thoát.
=>TH Phật giáo có tính hướng nội hướng con người tới giải thoát từ bi bác ái,
có tư tương vô thần phủ định đấng sáng tạo Brahman, có tư tương biện chứng
( vô thần, duyên khơi). Song lại có màu sắc duy tâm chủ quan cho sự vật hiện
tượng trong thế giới đều là ảo giác ảo ảnh không có thực do vô minh của con
người tạo ra.
* Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến thế giới quan và nhân sinh quan:
- Sự ảnh hương của Phật giáo đến thế giới quan: vô thường, duyên, giác ngộ,
giải thoát, đem lại lối sống lạc quan yêu đời
- Sự ảnh hương của Phật giáo đến phong tục tập quán: thờ cúng tổ tiên, ăn chay
niệm phật, luật nhân quả…
- Sự ảnh hương của Phật giáo đến đời sống tín ngưỡng, tư tương người Việt
- Sự ảnh hương của Phật giáo đến lễ hội, đời sống tâm linh
- Sự ảnh hương của Phật giáo đến văn học nghệ thuật
- Sự ảnh hương của Phật giáo đến văn hóa, tinh thần
- Phật giáo đề cao tính bình đẳng trước mọi chúng sinh phù hợp với tinh thần
bình đẳng bác ái trong xã hội:
- Phong tục tập quán, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
- Hiếu thảo với cha mẹ, thầy cô ( coi cha mẹ là “Phật sống” trong gia đình)
- Lễ hội
- Chùa
- Lòng từ bi, bác ái, vị tha, lạc quan
- Tư tương bình đẳng
Tích cực:
Người Việt Nam có tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người
sâu sắc, rộng lớn cùng với thái độ tôn trọng, đề cao những giá trị tốt đẹp của con
người đã rất phù hợp với các quan niệm của Phật giáo. Vì thế mà từ lâu Phật
giáo đã chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần người dân
Việt
- Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tương Phật giáo có ảnh hương ít nhiều
đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các trường phổ thông, tổ chức
đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “
quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên gạch hồng”… Ngay từ nhỏ các em
học sinh đã được giáo dục tư tương nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ
sơ của nền tảng ấy là tư tương giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền
thống của con người Việt Nam.
Ảnh hương đến quan niệm đạo lý, tư tương. Về quan niệm, đầu tiên là
quan niệm từ bi, tiếp theo là tứ ân. Về tư tương, lớn nhất là tư tương duyên khơi,
tứ diệu đế và bát chánh đạo.
Ảnh hương nữa là phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Trước tiên biểu hiện
qua nghi thức ma chay, cưới hỏi. Tiếp đến là phong tục ăn chay, thờ phật, phóng
sinh, bố thí. Qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa. Và những tập tục khác
như; Xin xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, đốt vàng mã, coi ngày giờ,… tuy
nhiên, đây là những hủ tục cần được loại bỏ trong đời sống người dân.
Trong cuộc sống hiện đại, đời sống vật chất được nâng cao nhưng xu
hướng suy giảm các giá trị đạo đức ngày càng phát triển. Vì thế, việc chắt lọc
mặt tích cực của triết lý nhân sinh Phật giáo để áp dụng vào điều chỉnh hành vi,
lối sống của nhân dân nói chung và thế hệ trẻ nói riêng là rất cần thiết. Trước
tiên đó là áp dụng mặt tích cực của thuyết nhân quả, luân hồi, từ bi hỷ xả,… để
giáo dục nhân cách lối sống của người dân. Sau đó là vận dụng tinh thần vô ngã,
vô thường vào việc điều chỉnh thái độ sống có phần tiêu cực của giới trẻ, giúp
thế hệ trẻ có cái nhìn mới về con người, về cuộc sống, làm họ thấy rõ cần phải
có tính vị tha, nhân ái và sống hết mình vì cộng đồng, chung tay xây dựng một
xã hội tốt đẹp và tiến bộ.
Tiêu cực:
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong
đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày
càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy
nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người
trơ nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống
nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã
chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực
tiễn của xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải
tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ
không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã
hội của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã
hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục...
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay trong số những người đi chùa,
nhiều người không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo
Phật một cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình.
Câu 2, Trình bày nội dung cơ bản của Nho giáo? Sự ảnh hưởng của
Nho giáo đến đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Khái quát sự ra đời Nho giáo và các kinh điển của Nho giáo:
Nho giáo xuất hiện vào khoảng TK 6.TCN dưới thời xuân thu do Khổng
Tử sáng lập. Tư tương của Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt trong mọi mặt của xã
hội TQ hơn 2000 năm lịch sử cũng như VN và các nước ĐNÁ.
Khổng Tử ( 551-479 TCN) sau khi Khổng Tử chết Nho gia chia làm tám
phái, quan trọng nhất là phái Mạnh Tử (327 - 289 tr. CN) và Tuân Tử (313 - 238
tr. CN)
Kinh điển của Nho gia thường kể tới bộ Tứ thư và Ngũ kinh. Tứ thư có
Trung dung, Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ kinh có: Thi, Thư, Lễ, Dịch,
Xuân Thu.
Nội dung cơ bản của TH Nho giáo là đề cao đạo đức:
+ Quan niệm về vũ trụ và giới tự nhiên:
- Trời có nghĩa là bậc nhất. Dùng các khái niệm trời, đạo trời, mệnh trời và
gộp trời đất vào 1 thể.
- Vũ trụ quan dịch luôn biến hóa không ngừng về việc hiểu biết mệnh trời
là 1 điều kiện để trơ thành người hoàn thiện.
- Khổng Tử tin có quỷ thần nhưng phê phán sự mê tín quỷ thần. Chỉ kính
trọng mà không xa lánh, ít đề cập đến tự nhiên.
+ Quan niệm về đạo đức:
- Nho giáo chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức của con người. Ông
cr đạo là quy luật biến chuyển tiến hóa của trời đất muôn vật, đối với con
người đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành
mạnh tốt đẹp.
- Trong bảng giá trị đạo đức của NG thì chuẩn mực là đức Nhân, những
chuẩn mực khác: lễ, nghĩa, chí, tín, trung hiếu…đều là biểu hiện của
Nhân.
+ Quan niệm về đức nhân:
- Nhân là phạm trù trung tâm trong thuyết lễ trị của Khổng tử. Một triều đại
thái bình thịnh trị thì người cầm quyền phải có đức nhân. Một xã hội yên
ổn hòa mục thì phải có nhưng người theo về điều nhân.
- Ông ko đưa ra 1 quan niệm nhất quán về nhân nhưng có thể hiểu chữ
nhân là nhân đạo là thương người. Chữ nhân là đầu các điều thiện, nội
dung hàng đầu của nhân là trung hiếu.
+ Quan niệm về chính trị:
- Thuyết chính danh: Chính danh là 1 vật thực tại phải phù hợp với cái danh
nó mang, chính danh thì mọi việc mới có thể thực hiện. Nhưng thực chất
đây là 1 học thuyết bảo thủ nhằm bảo vệ quyền lợi của tầng lớp quý tộc
nhà Chu ngăn cản sự phát triển tiến bộ.
- Thuyết lễ trị: Lễ làm cho xh trơ nên có tổ chức phân định trên dưới rõ
ràng. Đã là người thì phải biết lễ học lễ và có lễ. Lễ là cơ sơ là công cụ
chính trị là vũ khí của 1 phương pháp trị quốc trị dân lâu đời của Nho giáo
gọi là Lễ trị. Lễ là phương tiện duy trì trật tự có lợi cho tầng lớp thống trị.
+ Quan niệm về giáo dục:
- Giáo dục của nho giáo chỉ hướng vào rèn luyện đao đức con người.
- Tư tương giáo dục được coi là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư tương
NG hay tư tương cơ bản.
- Mục đích: học để ứng dụng để có ích với đời sống xh chứ không phải là
để quan sáng bổng hậu, học để hoàn thiện nhân cách
- Phương pháp giáo dục: coi trọng giáo dục theo lịch trình đúng với điều
kiện tâm sinh lý và các khâu của giáo dục học gắn liền với tu với tập với
hành.
KL: Nho giáo có từ thời xuân thu đến nhà Thanh khoảng 2500 năm trong
đó nho giáo lúc thịnh lúc suy nhưng bao giờ cũng là hệ tư tưởng rất mạnh
lúc nào cũng giữ được thái độ tôn nghiêm. Từ thời nhà Hán trở đi NG có
thể chia làm 2 cái học: học nghĩa lý và học từ chương.
Ảnh hưởng của Nho giáo đến VN:
Tich cực:
- Triết lý hành động.
- Đề cao tính tu thân,
- Đề cao tu dưỡng đạo đức cá nhân, đạo đức con người, đb là người quân tử
- Tư tương hành đạo, giúp đời.
- Ước vọng về một xã hội bình trị.
- Đề cao về văn hóa, đạo đức, lễ giáo.
- Môn đăng hộ đối.
- Trọng nam khinh nữ.
- Đề cao nhân - lễ - chính danh.
- Đề cao đức trị…
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân
ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã
giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn
phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực
trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa.
Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới
nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo
cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tương chính danh giúp cho
con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và
xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá
nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức,
quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một
thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai
trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng
dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hương lớn đến sự hưng
vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu
thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái
gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo
đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo
đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho
giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu
để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên
trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tương nêu trên vẫn còn nguyên
giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu
tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp
dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị
dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường
lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Ảnh hưởng của Nho giáo đến VN:
Tiêu cực:
- Tư tương sống lâu lên lão làng
- Tư tương trọng xưa, trọng cũ, càng cái cũ càng được cổ xúy, coi thường cái
mới, người mới, người trẻ, coi khinh lao động chân tay
- Tư tương bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới
- Tính gia trương
- Tư tương trọng nam, kinh nữ
- Trong các cơ quan đơn vị, thực hiện gia đình trị, lôi kéo bè cánh. Tính cục bộ,
bè phái
- Tệ tham nhũng quan liêu.
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và
các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm
pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo
đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương
Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều
người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng
vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực,
trình độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan
hệ tông tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân
thích dẫn đến tư tương cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc
mà không dám đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai
lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số
cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hơ của chính sách và luật pháp để
trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tương
gia trương để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất của
người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán,
chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trương.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo
thủ là cơ sơ cho tư tương tôn ti, tư tương bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi
thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và
hành động của không ít người. Những tư tương trên phản ánh cơ sơ hạ tầng của
xã hội phong kiến phụ quyền gia trương: Đứng đầu gia đình là người cha, người
chồng gọi là gia trương, đứng đầu dòng họ là trương họ, đại diện cho cả làng là
ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua
(thiên tử - gia trương của gia đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có
nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trương”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục
tùng bề trên đã tạo nên thói gia trương. Thói gia trương biểu hiện ơ quan hệ xã
hội, ơ tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha,
người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề
xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn
còn có cán bộ mang tư tương gia trương, bè phái thì ơ đó quần chúng nhân dân
sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con
người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều
người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”,
“anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết
điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của
xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu
khách quan, không công bằng. Tư tương trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số
người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào
cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà không được tham gia góp ý
kiến…là những trơ ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ
thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến,
địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi
càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý
mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh,
để thăng quan, tiến chức đã trơ thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc
học tập theo họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc
đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ
động. Những tàn dư tư tương trên đang làm cản trơ và gây khó khăn cho việc
xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ơ nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ơ trên có thể thấy rằng, tư tương đạo đức Nho
giáo đã có ảnh hương đáng kể ơ nước ta. Sự tác động, ảnh hương này ơ hai mặt
vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta
cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hương
tiêu cực của tư tương đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành
thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
Câu 3, Trình bày nội dung cơ bản của Nho giáo? Sự ảnh hưởng của
Nho giáo đến đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. (như câu 2)
Phần 4: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
Câu 6, Trình bày đặc điểm của triết học Việt Nam? Chứng minh Việt
Nam có tư duy triết học.
1. Đặc điểm của tư tưởng triết học Việt Nam
- Tư tương triết học Việt Nam gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
+ Tư tương chủ đạo của triết học Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, những vấn đề
chính trị xã hội bao gồm hệ thống những quan điểm lý luận về dựng nước, đánh
giặc giữ nước, dân giàu nước mạnh. Phạm trù “nước xét trên bình diện TH là
những cộng đồng người, là dân tộc, quốc gia => yêu nước là ý thức trách nhiệm
với giống nòi, với cộng đồng dân tộc được nêu lên thành lý luận. Nội dung chủ
yêu của CN yêu nước là bảo vệ chế độ chính trị-xãhội của đất nước, tinh thần
đoàn kết bảo vệ bờ cõi, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
+ Do ảnh hương của phương thức sản xuất châu Á, Việt Nam không có sự phát
triển thương mại, không thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển khiến người Việt,
cũng như người châu Á không coi trọng các môn khoa học chính xác về định
lượng
+ Về thế giới quan triết học, tư tương triết học Việt Nam luôn có tính chất phong
kiến là sự bảo vệ chế độ chính trị-xã hội của đất nước trong tư tương TH các
thời đại trước.
+ Tư duy triết học Việt Nam có nền tảng tư duy bản địa mạnh, để tiếp biến văn
hóa ngoại lai, biến văn hoá ngoại nhập đã cải biến thành vũ khí bảo vệ lãnh thổ,
bảo vệ cộng đồng, bản sắc văn hoá dân tộc.
+ Triết học Việt Nam coi trọng những vấn đề xã hội và nhân sinh, chú trọng xây
dựng các vấn đề lý lẽ trong chính trị xã hội và luân lý giáo dục làm người.
- Tính đảng tư tưởng triết học Việt Nam (1 điểm): Tư tương TH VN trên bình
diện bác học , hướng nội, duy tâm, lấy trạng thái tinh thần để giải thích hiện
tượng bên ngoài, còn trên bình diện dân gian lại mang màu sắc duy vật chất
phác
+ Các nhà tư tương Vn thường là các nhà hoạt động chính trị xã hội nên cho
rằng sự hưng vong của chế độ xã hội chủ yêu do mưu sự của thủ lĩnh.
+ Suy nghĩ của ng Việt gắn liến với 1 tín ngưỡng, tôn giáo đa thần, do đó thần
thánh hoá các nhân vật lịch sử, người có công với làng, với nước.
+ Người bình dân sống phụ thuộc nhiều vào đều kiện vật chất cụ thể nên trong
suy nghĩ của họ mang đậm màu sắc duy vật chất phác.
- Phương pháp biện chứng trong tư duy triết học Việt Nam: Tư duy TH VN
thường nhấn mạnh tính thống nhất , quan niệm vận động, phát triển của tư duy
TH theo hình vòng , có nghĩa TH VN không nhìn nhận sự phát triển, tiến bộ như
xu hướng tất yếu,không dám nhìn nhận rằng thời hiện tại tốt hơn thời xưa, với
tinh thần ngưỡng cổ chiếm vị trí chủ đạo
2. Chứng minh Việt Nam có tư duy triết học.
- Việt Nam là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại.
- Việt Nam có một khả năng tư duy khái quát phát triển rất sớm. Người Việt
biết rút ra những cái chung từ quan sát các hiện tượng tư nhiên, xã hội và con
người, vậy là biết tìm ra quy luật chung. Người Việt biết lấy quá khứ để soi vào
hiện tại, căn cứ vào hiện tại để định hướng cho tương lai. Người Việt cũng biết
xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động phát triển,…
- Việt Nam có nhiều chiến công oanh liệt trong dựng nước và giữ nước, sau
mỗi chiến công ấy đều có sự tổng kết để nâng lên thành lý luận. Đó là những
khái quát ít nhiều có tính triết học.
- Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn hóa thế giới; tiếp
biến với nền văn hóa của Trung Quốc; với Ấn Độ; tiếp nhận đạo Kitô.
II. TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Câu 1, Phân tích quá trình hình thành phạm trù vật chất? Ý nghĩa
định nghĩa vật chất của Lênin
1. Quá trình hình thành phạm trù vật chất. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của
Lênin
* Những quan điểm về VC trong lịch sử triết học
Có ls khoảng 2500 năm gắn liền với cuộc đâu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm:
Quan niệm của các nhà TH Duy vật cổ đại: các nhà TH thời kỳ này đồng
nhất VC với các dạng tồn tại cụ thể của VC như : Nước (Talét), lửa
(Hêraclít), không khí (Anaximen), nguyên tử ( Đêmôcrít)….coi đó là khơi
nguồn của vũ trụ. Đó là những vật thể hữu hình, cảm tính tồn tại ơ thế giới
bên ngoài nên CNDV chất phác, PBC sơ khai. VC = Vật thể.
CNDV phương Tây cận đại: Thời kỳ này các nhà TH đồng nhất các thuộc
tính cơ bản của VC như khối lượng, năng lượng…Thời ký này khoa học
tự nhiên phát triển mạnh nên CNDV nói chung và phạm trù VC đã có
bước phát triển mới, chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng.
+ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng vật lý học cho rằng “vật chất tiêu tan”
Bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ra đời định nghĩa VC của LêNin: cuối tk 19
đầu tk 20 hàng loạt những phát minh mới trong KHTN xuất hiện: phát hiện
ra tia Xquang, phóng xạ, điện tử và khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc
của nó tăng…đó là những phát hiện được coi là bước tiến của loài người
trong việc nhận thức và làm chủ giới tự nhiên, bác bỏ quan niệm siêu hình
về VC.
* Định nghĩa vật chất của Lênin:
“VC là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại khách quan, được
đem lại cho người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
- Nội dung định nghĩa vật chất
VC tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, và không phụ thuộc vào ý thức,
VC vô hạn, vô tận, ko sinh ra ko mất đi, không có khơi đâu, không có kết
thúc -> phạm trù rộng nhất, không thể quy nó vào các vật cụ thể.
Qua định nghĩa Lênin đã chỉ ra 1 thuộc tính quan trọng đó là Thực tại
khách quan. Thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại bên ngoài độc
lập không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người. Đăc tính này là
tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vc cái gi không phải là
vc.
VC là cái gây nên cảm giác ơ con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp gây
tác động lên giác quan của con người “chụp lại, chép lại, phản ánh” ->
con người có khả năng nhận thức được thế giới. Lênin đã làm rõ mối quan
hệ giữa thực tại khách quan và cảm giác, thực tại khách quan (vc) là cái
có trước ý thức, độc lập với ý thức, không phụ thuộc vào ý thức; cảm giác
(YT)là cái có sau vc, do vc sinh ra, phụ thuộc vào vc.
VC tồn tại hiện thực dưới các sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể và
con ng có thể nhận biết bằng các giác quan của mình.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của VC. Là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
VC là nội dung, nguồn gốc khách quan của YT. YT là sản phẩm của sự tác
động của VC vào giác quan của con ng.
* Ý nghĩa định nghĩa vật chất
Bác bỏ thuyết bất khả tri đấu tranh chống CNDT khắc phục được tính chất
máy móc siêu hình của CNDV trước Mác.
Khi khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, con người có khả năng
nhận thức thế giới, định nghĩa đã giải quyết được một cách triệt để vấn đề
cơ bản của triết học, qua đó chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm về phạm trù vật chất.
Khắc phục sự khủng hoảng của vật lý và triết học trong quan niệm về VC
định hướng mơ đường cho KHTN phát triển.
Đưa ra 1 phương pháp đinh nghĩa mới về VC.
PP luận: trong nhận thức và hđ thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan
Câu 2, Vai trò của ý thức đối với vật chất? Liên hệ vai trò của ý thức trong
đời sống xã hội.
Định nghĩa ý thức: YT là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động
tinh thần phản ánh thế giới vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình
thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngũ.
* Vai trò của ý thức đối với vật chất
- Nói đến vai trò của YT là nói đến vai trò của con người. Bản thân YT tự nó ko
trực tiếp thay đổi gì trong hiện thực, mà muốn thay đổi hiện thực, con người
phải tiến hành hoạt động VC. Mọi hoạt động của con người đều do YT chỉ đạo
nên vai trò của YT ko phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới VC mà nó trang
bị cho con người tri thức về TG ấy, về thực tại KQ. Từ đó cón người xác định
mục tiêu, đề ra phương hướng, XD kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp,
công cụ, phương tiện…để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây YT đã thể hiện sự
tác động của mình đối với VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Sự tác động trơ lại của YT đối với VC diễn ra theo 2 chiều hướng
+ Tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm
cách mạng, có nghị lực, ý chí…thì hành động của con người phù hợp với các
quy luật KQ, con người có năng lực vượt qua những trơ ngại, thách thức và thực
hiện mục đích của mình là cải tạo TG
+ Tiêu cực: Nếu YT của con người PA ko đúng hiện thực KQ, bản chất, quy luật
KQ thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy
luật KQ
Như vậy, bằng việc định hướng cho hđ của con người, YT có thể quyết
định hành động của con người. Hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại, hiệu quả hay ko hiệu quả phụ thuộc vào sự định hướng
của YT
YT tác động trơ lại VC thông qua hđ thực tiễn của con người, mức độ phụ
thuộc vào sự thâm nhập của YT vào hành động, trình độ tổ chức của con người
và những điều kiện VC, hoàn cảnh VC trong đó con người hành động theo định
hướng của YT.
* Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội biểu hiện ơ mối quan hệ giữa kinh tế với
chính trị, đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức; song, ý thức có thể tác động ngược trơ lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
- Phải xuất phát từ thực tế khách quan. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng thực tiễn khách quan, tuân
theo các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan để đề ra các chủ
trương, đường lối. Đồng thời, phải dựa trên cơ sơ thực tế khách quan để kiểm
nghiệm, đánh giá các chủ trương, đường lối đó. Nói cách khác, chúng ta phải lấy
thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
- Phát huy tính năng động chủ quan. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng
và biết làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức đó vào trong quần chúng
nhân dân để nó dẫn dắt quần chúng. Đồng thời, đòi hỏi mỗi người phải biết tự
giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, cùng có nhân sinh quan tiến bộ và nâng
cao ý chí, nghị lực trong hoạt động thực tiễn.
- Vai trò của ý thức là ơ chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất
quy luật khách quan của đối tượng. Trên cơ sơ ấy, con người xác định đúng đắn
mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người vói ý
thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động thực
tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể
thực hiện được mục tiêu đề ra.
- Nhận thức rõ vai trò tích cực của ý thức, của nhân tố chủ quan, Đảng ta đã xác
định, trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, phải “lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”, đồng thời phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật
cường, phát huy tài chí của người Việt Nam” (Văn kiện Đại hội Đảng VIII).
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tức là khắc
phục tình trạng không tôn trọng quy luật khách quan, lấy ý chí áp đặt cho thực
tế, lấy tình cảm làm điểm xuât phát cho chiến lược, sách lược, lấy ý muốn chủ
quan làm chính sách...
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thụ động và bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, coi thường tri thức khoa học, coi thường lý luận trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
* Định nghĩa vật chất của Lênin:
* Ý thức: YT là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản
ánh thế giới vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá
trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngũ.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan được sáng tạo lại theo
nhu cầu và mục đích của con người.
- Ý thức có nguồn gốc tự nhiên là hiện thực khách quan và não người; nguồn
gốc xã hội là lao động và ngôn ngữ.
- Bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người
thông qua hoạt động thực tiễn
- nguồn gốc của ý thức
+ Nguồn gốc tự nhiên: cơ quan vật chất là bộ não người và thế giới khách quan.
Trong đó não người là chủ thể phản ánh, thế giới khách quan là cái được phản
ánh.(điều kiện cần)
- Bộ não người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của
cộ óc con người diễn ra trên cơ sơ sinh lý thần kinh của bộ óc người. Nghĩa là ý
thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ não con người, do đó, khi bọ não bị tổn
thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy, không thể tách
rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc.
- Thế giới khách quan: Ý thức được hình thành nhờ có sự tác động của thế
giới khách quan lên bộ não người. Thế giới khách quan được phản ánh thông
qua hoạt động của các giác quan, đã tác động lên bỗ não con người, hình thành
nên ý thức.
+ Nguồn gốc xã hội: lao động và ngôn ngữ. là 2 yếu tố quan trọng quyết định
đến sự hình thành và phát triển của ý thức.(điều kiện đầy đủ).
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. lao động
là yếu tố XH có vai trò quyết định trong quá trình hình thành và phát triển
ý thức.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử
dụng những công cụ đó để tạo ra của cải, vật chất.
+ Lao động của con người là hành động có mục đích – tác động vào thế
giới vật chất khách quan làm biến đổi thế giới nhằm thảo mãn nhu cầu của
con người.
+ Trong quá trình lao động, bộ não người được phát triển và ngày càng
hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trưu tượng của con người cũng ngày
càng phát triển.
+ Lao động sản xuất cong là cơ sơ của sự hình thành và phát triển ngôn
ngữ:
Ngôn ngữ: gồm có tiếng nói và chữ viết. là vỏ tư duy của con người là
yếu tố xh cùng với lao động có vai trò quyết định đến sự hình thành và
phát triển của ý thức.
+ Ngôn ngữ là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện để con người giao
tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quá sự vật, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ. Chính vì vậy, Ăng ghen coi lao
động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ yếu” biến bọ não con vật thành
bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp qan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội, Ý thức phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ não người, thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ
xã hội.
-
Bản chất
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người 1
cách năng động sáng tạo : ý thức là sự phản ánh là cái phản ánh còn VC là
cái được phản ánh, tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với cái phản
ánh. Cái phản ánh là hiện thực chủ quan là hình ảnh chủ quan của sự vật
khách quan, ko có tính VC. Vì vậy không tách rời hoặc đồng nhất cái
phản ánh với cái được phản ánh.
Ý thức con người là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan vào bộ
não người và được cải biến ơ trong đó.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hình ảnh đó có được
do con người tiến hành hoạt động thực tiễn tạo ra của cải vật chất. hình
ảnh này là kết quả của quá trình lao động.
Kết cấu của ý thức
- Kết cấu ngang gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí.
- Kết cấu dọc gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức
* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
- Vật chất quyết định ý thức
VC có trước YT có sau, VC là nguồn gốc của YT. VC quyết định YT. YT
là sự phản ánh của VC.
VC quyết định mọi nội dung, hình thức cũng như mọi biến đổi của YT.
Điều kiện VC như thế nào thì YT như thế đó. VC phát triển đến đâu thì
YT phát triển đến đó. VC biến đổi thì Yt biến đổi theo.
- Quyết định nội dung phản ánh của ý thức: bơi vì ý thức bao giờ cũng là sự
phản ánh thế giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo trong phản
ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh. Hơn nữa, tự thân ý thức không thể gây
ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực.
- Quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức: nguồn gốc trực tiếp và quan trọng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người thông
qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm xã hội, là một
hiện tượng xã hội.
- Quyết định sự biến đổi của ý thức: ý thức phản ánh thế giới hiện thực khách
quan, thế giới vật chất, bản thân nó không thể gây ra sự biến đôi trong đời sống
hiện thực. Nhưng thế giới vật chất thì luôn vận động và biến đổi không ngừng
(vận động là phương thức tồn tại của vật chất), vì vậy khi nó thay đổi dẫn tới
làm cho ý thức cũng thay đổi theo.
+ Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội biểu hiện ơ mối quan hệ giữa kinh tế
với chính trị, đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội…
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trơ lại vật chất
YT tác động trơ lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người. YT
tự nó không trực tiếp làm thay đổi hiện thực. YT trang bị cho con người
tri thức về hiện thực khách quan, từ đó con người xác định mục tiêu đề ra
phương hướng xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp…để thực hiện
mục tiêu.
Sự tác động của YT đối với VC diễn ra theo 2 chiều hướng:
YT đúng đắn dựa trên quy luật khách quan phù hợp với quy luật khách
quan sẽ thúc đẩy sự vật phát triển nhanh chóng.
YT phản ánh không đúng hiện thực khách quan, phản ánh sai lệch xuyên
tạc hiện thực khách quan sẽ có tác động tiêu cực kìm hãm sự phát triển
của sự vật hiện tượng.
Yt tác động trơ lại VC sự tác động ấy thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. phụ thuộc vào trình độ phản ánh của YT, mức độ thâm nhập
của YT vào những hành động, trình độ tổ chức và điều kiện hoàn cảnh
VC.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của YT ngày càng to lớn nhât là
trong thời đại ngày nay – thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức
trong bối cảnh toàn cầu hóa vai trò của tri thức khoa học, của tư tương
nhân văn là hết sức quan trọng.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế , tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, lấy thực tế làm căn cứ cho mọi hành động,
tránh tư tương chủ quan nóng vội, bất chấp quy luật và những điều kiện
VC khách quan.
Phát huy tính năng động chủ quan sáng tạo của nhân tố con người trong
hoạt động thực tiễn.
Chống thái độ thụ động ỷ lại bảo thủ trì trệ .
Mọi chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải dựa
trên cơ sơ của những điều kiện thực tế đât nước qua từng thời kỳ phát
triển.
Liên hệ vận dụng:
Trước đổi mới: Đảng và Nhà nước ta đã có những sai lầm vận dụng máy
móc dập khuôn lý luận của CN Mác-Lênin:
Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Quan hệ sơ hữu : chỉ chấp nhận 2 hình thức sơ hữu: sơ hữu nhà nước và
sơ hữu tập thể do đó nền kinh tế chỉ có 2 mô hình là kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể.
Công nghiệp hóa bắt đầu từ công nghiệp nặng.
Quan hệ quốc tế bế quan tỏa cảng chỉ quan hệ với các nước XHCN.
=> dẫn tới khủng hoảng kinh tế, lam phát lên tới 3 con số.
Sau đổi mới: Đảng và Nhà nước đã nhận thức đúng đắn vận dụng sáng tạo lý
luận của CN Mác-Lênin phù hợp với thực tế nước ta, tiến hành đổi mới toàn
diện:
Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần: 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tư nhân( cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân), kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước. trong đó kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong đó lấy CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn làm nền tảng.
Về đối ngoại: thực hiện chính sách mơ cửa, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ.
- Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng CNH –
HĐH.
- CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn để định hướng phát triển.
- Kết hợp kinh tế - quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại.
- Thực hiện nhất quán chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần,
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể tạo
thành nền tảng kinh tế quốc dân.
- Phát triển khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân.
- Xây dựng, cải cách bộ máy Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân
=> qua đó đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế đạt được những
thành tựu to lớn.
Câu 4, Trình bày hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật?
Quán triệt quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát
triển trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt nam hiện nay
* Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
+ Khái niệm mối liên hệ: phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự
tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa
các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
+ Các tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào; ơ bất kỳ không gian nào và ơ bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với
những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất
kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành
phần, những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối
liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối
liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ
yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và
vận động của sự vật, hiện tượng.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
+ Quan điểm toàn diện
- Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính
phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải
tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp
và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sơ đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn
phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời,
chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để
tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt, chúng ta phải phát huy
nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách
do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh
tế đưa lại.
+ Quan điểm lịch sử cụ thể
- Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác
nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ
thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận
điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận
điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ
trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao
giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh
lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực
hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với
diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
- Nguyên lý về sự phát triển
+ Khái niệm: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật.
+ Các tính chất của sự phát triển:
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bơi vì, như trên đã
phân tích theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn
nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát
triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức
của con người.
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được
hiểu là nó diễn ra ơ mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ơ bất cứ sự vật,
hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù
phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ
sơ của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các
phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có
quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ơ không gian khác nhau, ơ thời
gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của
rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật,
thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát
triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ơ các thế hệ trước do
chúng được thừa hương những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội
mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so
với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hương kinh nghiệm và sự hỗ trợ
của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ơ chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và
tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo
và nhân dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào
đó con người phải đặt chúng ơ trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung
là phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại
ơ sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính
chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra
khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình
phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sơ ấy để tìm ra phương
pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh
hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có
hại đối với đời sống của con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tương bảo thủ, trì trệ, định
kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Câu 6, Trình bày nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại? Vận dụng quy luật này
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
1. Chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ giữa những thuộc tính làm cho sự vật
là nó chứ không phải là cái khác.
2. Lượng
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật về mặt số lượng, quy mô trình độ, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển cũng như các thuộc tính khác của sự vật.
Lượng tồn tại khách quan, gắn liền với chất của sự vật. trong thực tế
lượng đc xác định bơi: những đơn vị đo lường cụ thể, bằng cách trừu
tượng và khái quát
3. Mối quan hệ giữa chất và lượng
3.1.
Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
Chất và lượng là 2 mặt đối lập. chất là mặt tương đối ổn định lượng là mặt
biến động hơn. 2 mặt chất lượng có mối quan hệ biện chứng sự biến đổi
về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng có thể làm cho chất biến đổi theo, nhưng không phải
bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản
chất của sự vật.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn của sự vật mà sự biến đổi về
lượng chưa dẫn tới sự chuyển hóa về chất, sự vật vẫn còn nó là nó.
Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định (độ), đạt
tới điểm nút – thời điểm mà ơ đó sự thay đổi về lượng đã đủ để làm thay
đổi về lượng đã đủ để làm thay đổi về chất thì chất cũ mất đi, chất mới ra
đời.
Điểm nút : khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định
độ, đạt tới điểm nút – thời điểm mà ơ đó sự thay đổi về lượng đã đủ để
làm thay đổi về chất thì chất cũ mất đi chất mới ra đời.
Bước nhảy là sự thay đổi, sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi
về lượng của sự vật trước đó gây ra.
3.2.
Sự thay đổi về chất dẫn tới sự thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật ra đời tác động trơ lại lượng của sự vật. sự tác động ấy
thể hiện: chất mới ra đời tác động đến sự thay đổi về lượng làm cho quy mô,
nhịp điệu, mức độ phát triển mới của lượng xuất hiện, lượng mới lại tiếp tục vận
động trong độ mới đến một giới hạn nào đó vượt độ thì chất mới lại ra đời, cứ
như vậy sự vật phát triển không ngừng.
3.3.
Nội dung quy luật.
Bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sư thay đổi dần
dần về lượng vượt quá giới hạn của độ tới điểm nút sẽ dẫn tới sự thay đổi căn
bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trơ lại
sự thay đổi của lượng mới. quy trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng vận động và phát triển.
4. Ý nghĩa phương pháp luận