PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ÁNH TRĂNG” (NGUYỄN DUY)
VÀ “ĐỒNG CHÍ” (CHÍNH HỮU)
•
Phân tích bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở Thanh Hóa. Ông
đã được trao giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 – 1973.
Nguyễn Duy trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ
thời chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Nguyễn Duy có
những tác phẩm nổi tiếng như: cát trắng, mẹ và em, đãi cát tìm vàng,
ánh trăng,…Trong đó bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người
đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” là bài thơ Ánh trăng. Tập
thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt
Nam năm 1984.
Từ lâu, sự dịu hiền, trong sáng của ánh trăng khi màn đêm buông xuống
pha lẫn với chút ma mị đã tạo nên nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.
Nếu như Nam Cao nhận xét ánh trăng là sự lừa dối thì theo Nguyễn Duy
ánh trăng lại là người bạn thủy chung muôn đời.
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy có một đoạn như sau:
“ Thình lình đèn điện tắt
…
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”
Tại sao nhà thơ lại đặt ra hoàn cảnh với những từ mang sắc thái bất
ngờ, không lường trước như vậy? Thế thì, chúng ta cùng tìm hiểu bài
thơ Ánh Trăng để hiểu về ý nghĩa “uống nước nhớ nguồn” mà tác giả
mang đến và trả lời cho câu hỏi trên nhé!
Mở đầu bài thơ, tác giả hồi tưởng về một quá khứ giản đơn nơi làng
quê của mình.Nơi có những kỉ niệm tuổi thơ – những lúc nô đùa trên
cánh đồng hay lúc cùng bọn trẻ tắm mát dưới sông. Nét giản dị mà đầy
kỉ niệm nơi đồng quê ấy gợi lên cho tác giả về một ánh trăng trong trẻo,
nên thơ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể”
Ánh trăng là một kí ức tuổi thơ đẹp không chỉ của tác giả mà còn là kỉ
niệm của nhiều người khác. Những lúc rước đèn trung thu hay tụm lại
trò chuyện vào đêm đã tạo nên ánh trăng gần gũi , vẻ nên thơ của cuộc
sống. Ánh trăng không chỉ gắn liền với những buổi chơi vào đêm của tác
giả mà còn theo chân ông khi chiến đấu.
“ Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Ánh trăng gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của người lính.
Khi sống trong rừng không có đèn, không có điện chỉ có ánh trăng soi
đường. Ánh trăng chính nghĩa đã thắp sáng con đường bảo vệ tổ quốc
của những người chiến sĩ. Tuy con đường chiến đấu gian nan vất vả
nhưng những người lính vẫn rất lạc quan, yêu đời. Họ hát cùng ánh
trăng, làm thơ cùng ánh trăng, tâm sự cùng ánh trăng – ánh trăng đã
gửi một nguồn sáng tích cực đến những người lính. Bài thơ “đồng chí”
cũng cho thấy sự gắn bó của trăng với người lính qua hình ảnh “ đầu
súng trăng treo”. Và ánh trăng đã trở thành người bạn tri kỉ luôn đồng
hành cùng người lính trong đêm.
“Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ “ngỡ” có nghĩa là: nghĩ là, cho là như thế nào đó nhưng sự thật
không phải thế. Điều đó cũng cho thấy việc mà tác giả nghĩ “ không bao
giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” sẽ có thể không xảy ra ở tương lai.
Và điều đó đã được chứng minh ở những câu tiếp theo của bài thơ:
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”
Tiền tài, vật chất đã lu mờ tất cả. Mọi người đều nói là cái tình, cái nghĩa
mới quý chứ tiền, vật chất mất đi thì vẫn kiếm lại được. Nhưng mấy ai
có thể thoát khỏi được sự cám dỗ của vật chất. Bạn có món đồ chơi
mới, hiện đại; cái áo mới rất xinh thì bạn có cần món đồ chơi cũ, cái áo
cũ nữa không hay thậm chí là bạn vứt chúng đi. Bạn giàu có thì nhiều
người nịnh nọt bạn và bạn giúp đỡ nhiều người nhưng đến khi sa cơ
thất thế thì mấy ai giúp đỡ bạn.Đúng, cuộc đời vẫn còn nhiều người
sống có tình có nghĩa nhưng cũng không thiếu những người vong ân bội
nghĩa “ qua cầu rút ván”. Khi hòa bình lập lại, nhà thơ về thành phố
quen với ánh đèn điện lung linh nơi ấy mà quên mất người bạn tri kỉ
hằng đêm vẫn đi qua ngõ. Thành ngữ có câu: “có trăng quên đèn”
nhưng trong trường hợp này dường như là “ có đèn quên trăng”.
“Người dưng” có nghĩa là: người không có quan hệ họ hàng , không
thân thiết, quen biết gì với người được nói đến. Tác giả đã sử dụng biện
pháp nhân hóa : vầng trăng “đi” qua ngõ, làm cho vầng trăng có linh
hồn. Đồng thời tác giả so sánh “ vầng trăng” với “ người dưng” tạo sự
xa cách. Dường như lời hứa “ không bao giờ quên cái vầng trăng ngày
ấy” nay đã không còn nữa. Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “
người dưng” – người khách qua đường xa lạ. Sự thay đổi của hoàn cảnh
sống – không gian khác biệt , thời gian cách biệt, điều kiện cách biệt đã
làm Nguyễn Duy trở thành người bội bạc. Như bài hát “ thói đời” của
tác giả trúc phương đã phần nào nói lên sưc mạnh vật chất che lấp tình
nghĩa:
“Đường thương đau đày ải nhân gian
ai chưa qua chưa phải là người.
Trông thói đời cười ra nước mắt.
Xưa trắng tay gọi tên bằng hữu.
Giờ giàu sang quên kẻ tâm giao
còn gian dối cho nhau.”
Và một tình huống bất ngờ đã xảy ra:
“Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn- đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”
“ buyn- đinh” có nghĩa là: tòa nhà cao, nhiều tầng, hiện đại. Một tình
huống bất ngờ đã xảy ra đó là mất điện, điều bất ngờ đó đã được thể
hiện qua từ “ thình lình” – bất ngờ, không biết trước. Mất điện khiến
cho căn phòng trở nên tối om, dường như cũng từ lúc này nhà thơ mới
nhớ đến ánh sáng trăng và “vội bật tung cửa sổ” như thể mời một vị
khách tới nhà sợ mình chậm trễ vị khách sẽ bỏ đi. Một hành động
tưởng chừng rất là bình thường là mở cửa sổ để ánh sáng trăng soi sáng
căn phòng nhưng từ hành động đó khi “đột ngột”- sự ngạc nhiên,
không đoán trước, thấy vầng trăng tròn thì những kí ức quá khứ ùa về.
Vầng trăng vẫn tròn thể hiện sự chung thủy, vẹn nguyên theo năm
tháng.
“ Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Tác giả ngước mặt lên nhìn về phía vầng trăng, mặt đối mặt, những kí
ức cứ thế ùa về. Kỉ niệm về sự gắn bó trong thời gian chiến đấu gian
khổ; kỉ niệm hồn nhiên, giản đơn của tuổi thơ nơi làng quê; tất cả, tất cả
như một cuốn phim được mở với tốc độ nhanh. Tác giả cảm thấy thân
thuộc, gần gũi khi nhìn trăng. Trăng vẫn cứ tỏa sáng vào đêm, vẫn cứ dõi
theo Nguyễn Duy, trăng vẫn chung thủy như ngày nào chỉ có nhà thơ là
thay đổi. Nhà thơ không còn nhớ gì về khoảng thời gian kề vai sát cánh
bên trăng trong những đêm lạnh giá trong rừng khi về thành phố, nhà
thơ đã quên đi người bạn tri kỉ của mình.Nên đến lúc gặp lại, nhớ lại
Nguyễn Duy bỗng thấy rưng rưng (nước mắt ứa ra đọng đầy tròng
nhưng chưa chảy xuống thành giọt) thể hiện sự sửng sờ, nghẹn ngào.
Tác giả sử dụng phép so sánh “ như là đồng là bể”, “như là sông là
rừng” – cảm giác quen thuộc trào dâng, đồng, bể, sông, rừng cũng là
mối liên hệ với những câu trước, liên tưởng đến lúc nhỏ và lúc chiến
đấu. Hình ảnh trăng cứ tròn vành vạnh thể hiện sự thủy chung sau
trước một lòng dù con người vô tình với nó , thể hiện sự bao dung, dịu
hiền và khiến chúng ta – những con người đang quay quần trong cuộc
sống thường nhật, phải bừng tỉnh nhìn lại chính mình.
“Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
Im lặng là điều khiến người ta thức tỉnh và sợ nhất. Thay vì những lời
trách móc về sự bội bạc của con người thì trăng lại cứ nghiêm nghị, tròn
đầy và im phăng phắc. Sự trách móc, chửi bới đôi khi lại khiến ta cảm
thấy nhẹ lòng hơn là sự im lặng. Nhà văn William nói “im lặng là sự
hùng biện cuối cùng của nổi buồn”, hay như Thomas Carlyle nói “ sự im
lặng hùng biện hơn lời nói”. Có lẽ chính sự im lặng ấy đã khiến con
người càng thêm hối hận, và khiến người ta giật mình. Lúc này những
câu thơ dường như hối hả hơn khiến người đọc nghẹn ngào trong từng
câu chữ. Thực tế thì “trăng” đâu thể nói nhưng đối với nhà thơ thì trăng
là người bạn tri kỉ và có linh hồn. Khi họ còn trách móc bạn nghĩa là họ
còn quan tâm bạn và có thể chịu đựng nhưng khi họ im lặng nghĩa là
bạn đã làm họ tổn thương rất nhiều vì sự bội bạc của bạn.
Bài thơ “ánh trăng” của Nguyễn Duy sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, dễ
hiểu; sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa; có những từ ngữ, tình
huống thể hiện sự bất ngờ; nhịp điệu hối hả ở cuối bài thơ; giọng điệu
tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm.
Bài thơ là lời thức tỉnh cho nhiều người. Với nhịp sống hiện đại, hối hả
như ngày nay nhiều người bị vòng xoáy công việc cuốn đi mà quên đi
những điều tốt đẹp quanh mình. Ánh trăng tỏa sáng lên tâm hồn mỗi
người – đừng vì lợi ích trước mắt (tiền, vật chất, danh vọng) mà đánh
mất bản thân mình, hãy sống có tình, có nghĩa, thủy chung. Đúng là
“không tiền cạp đất mà ăn” nhưng việc đánh đổi nghĩa tình chạy theo
danh vọng tiền bạc sẽ đi đôi với hậu quả khôn lường. quả thật sức hút
của danh vọng, vật chất rất lớn khiến con người thờ ơ với nhau và ngày
càng lạnh lùng. Nhiều người còn không biết người cạnh nhà mình là ai
thậm chí bất chấp tính người vì lợi ích mà giết hại bạn bè, người thân.
Phải sống thủy chung sau trước một lòng và không chối bỏ đi quá khứ
của mình. Phải biết ơn những người đã sinh thành, nuôi dưỡng và giúp
đỡ mình . Biết ơn cha mẹ đã sinh thanh và nuôi dưỡng minh; biết ơn
ông bà, người thân đã quan tâm, chăm sóc minh; quý trọng những
người bạn giúp đỡ và chia sẻ cùng mình; kính trọng thầy cô giáo; và để
được sống trong xã hội hòa bình, hiện đại như ngày nay thì chúng ta cần
phải biết ơn những anh hùng liệt sĩ đã có công dựng nước và giữ nước.
Là học sinh, chúng ta phải chăm ngoan, học giỏi, uống nước nhớ nguồn
(biết ơn, ghi nhớ ngày 27/7; 20/11; …),…
Ánh trăng là một bài thơ hay của Nguyễn Duy mang tính triết lí sâu sắc.
Nó nhắc nhở chúng ta cần sống thủy chung sau trước, tránh bị những
giá trị vật chất làm lu mờ ý chí. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc về thái độ
sống “uống nước nhớ nguồn”.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ ĐỒNG CHÍ” ( CHÍNH HỮU )
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở tỉnh Hà Tĩnh. Ông làm
thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ
ông không nhiều nhưng đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình
ảnh chọn lọc, hàm xúc. Năm 2000, Chính Hữu được nhà nước trao tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tập thơ Đầu súng trăng
treo là tác phẩm chinh của ông trong đó có bài thơ để lại ấn tượng về
tình đồng đội trong kháng chiến chống pháp là bài thơ “đồng chí” (sáng
tác năm 1948)
Nhan đề bài thơ là “ đồng chí”, “Đồng chí” không chỉ có ý nghĩa viết về
những con người cùng chung lí tưởng, chí hướng, cùng làm một đơn vị,
cơ quan; mà hơn thế, ông muốn viết về tình đồng đội, về những con
người đồng cảnh, đồng cam cộng khổ, đoàn kết chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, họ sẵn sàng hi sinh vì đồng đội, vì tổ quốc.
Nhà thơ mở đầu bằng các câu:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Một nơi thì “nước mặn đồng chua” (là vùng đất nhiễm mặn ở ven biển
và vùng đất phèn có độ chua cao, là vùng đất xấu), còn một nơi thì “đất
cày lên sỏi đá”. Đó đều là những vùng đất nghèo khó trồng trọt, chăn
nuôi. Dù không hề quen biết nhau, khác quê hương, khác tính tình
nhưng họ có điểm chung như: xuất phát từ làng quê nghèo; phải rời bỏ
gia đình, quê hương, không quản khó khăn để thực hiện lí tưởng bảo vệ
tổ quốc. Những điểm chung ấy dường như đã lấn ác những điểm riêng
để rồi cuối cùng họ gặp nhau nơi chiến trường.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Họ giống như 2 chùm sáng hội tụ, hội tụ nơi lí tưởng cao đẹp. “Anh với
tôi đôi người xa lạ” tại sao nhà thơ không sử dụng từ “hai” mà là từ
“đôi”. Điều đó thể hiện sự gắn bó mật thiết của hai người, đôi khi anh
và tôi là hai cá thể khác nhau nhưng đôi khi anh chinh là tôi và ngược
lại.
Đã là những người lính, đã mang trên vai trách nhiệm đem lại hòa bình
cho dân tộc thì các anh đã phải cùng trãi qua những năm tháng khó
khăn cùng nỗi nhớ gia đinh, quê hương da diết.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thanh đôi tri kỉ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Súng là hình ảnh quen thuộc trong chiến tranh. Súng là hình ảnh mạnh
mẽ và có sức ảnh hưởng ghê gớm. Không ai ngoài các anh chiến sĩ có
thể biết được sự nguy hiểm của nó – mùi cay nồng của thuốc súng, tính
sát thương cao. Hình ảnh “ súng” của nhà thơ không chỉ là sự khắc
nghiệt của chiến tranh mà còn là sự mạnh mẽ và đoàn kết của những
người đồng chí. “ Súng bên súng”, “ đầu sát bên đầu” đã thể hiện tình
đòan kết của các anh, dù nguy hiểm nhưng các anh vẫn vác súng lên vai
và luôn kề vai sát cánh cùng đồng đội.
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Chính nhờ những đêm ngủ trong rừng lạnh giá mà tình đồng đội lại
càng được thắt chặt. Họ chia sẻ với nhau một cái chăn và rồi trở thanh
tri kỉ của nhau. Bài thơ như một lời thủ thỉ về cuộc sống của những
người lính mộc mạc, đòan kết, quyết tâm chiến thắng, để rồi thốt lên
hai từ thân thương:
“ Đồng chí !”
Câu thơ “đồng chí” ấy thật đặc biệt. Nó chỉ có hai từ và sau nó là một
dấu chấm than, dường như câu thơ là tiếng gọi thân thương của tác giả.
Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mà những người lính đã rời bỏ gia đình
của họ:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Dù ở nơi chiến trường nhưng những người lính vẫn luôn nhớ về quê
hương, nhớ cha mẹ già, nhớ vợ và con thơ,…Nỗi lo vì gian nhà trống
không người sửa sang mỗi khi gió lùa, lo về ruộng nương, xóm làng.
Hình ảnh giếng nước gốc đa là hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê
nhưng dường như nó còn là hình ảnh mẹ đợi con, vợ đợi chồng,…
Trong hoan cảnh khốc liệt, khó khăn của chiến tranh những người đồng
chí vẫn lạc quan và cùng chia sẻ, vượt qua khó khăn :
“ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buôt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Tuy chiến tranh là một tội ác. Nó đã cướp đi sinh mạng nhiều người làm
mẹ mất con, vợ mất chồng, con xa cha, nó tàn phá đất đai, nhà
cửa,..Nhưng chính trong sự khắc nghiệt ấy lại làm nổi bật tinh đồng chí
cao đẹp. Họ cùng trãi qua những cơn cảm sốt :
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”
Họ phải sống trong điều kiện thiếu thốn: Thiếu thốn tinh cảm gia đinh,
thiếu thốn vật chất (áo, quần,..) nhưng họ lại chan chứa tinh đồng đội.
Những người lính ra trận với bộ quần áo đơn sơ, đôi dép lốp cùng ý chí
chiến đấu mạnh mẽ ngòai ra chẳng có gì. Chiến đấu không phải chuyện
ngày một ngày hai mà là nhiều năm trời, vậy thì vài bộ quần áo đơn sơ
ấy làm sao có thể chịu nổi thời tiết khắc nghiệt cùng cơn mưa đạn.
Trong rừng thật sự rất lạnh khi đêm xuống vậy mà các anh chỉ mang
chiếc dép lốp mòn hay thậm chí là đi chân đất:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày”
Các anh phải có ý chí mạnh mẽ lắm mới có thể chống nổi điều kiện sống
như thế. Các anh sống chân thanh, giản dị , áo quần rách thì họ kiếm
miếng vải nào đó vá lại hoặc chịu đựng cái nắng nóng, lạnh giá; Chân
của những người lính đã chai sần vì không giày dù thời tiết có lạnh thì
tình đồng đội vẫn sẽ sưởi ấm, cùng nhau vượt qua. Và cũng chính
những dấu tích chiến tranh để lại ấy mà tôi căng thêm khâm phục và
biết ơn những người chiến sĩ. Nhưng dù như thế nào thì các anh vẫn lạc
quan, yêu đời: các anh cùng hát, cùng cười, cùng giúp nhau hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
“Miệng cười buốt giá
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Nụ cười luôn nở trên môi các anh nhất là khi thắng trận. Hình ảnh “Tay
nắm lấy bàn tay” cho thấy sự đoàn kết và ý chí quyết chiến quyết thắng.
Hình ảnh đó thể hiện sự mạnh mẽ, quyết tâm và đoàn kết – là hình ảnh
đẹp. Tác giả có thể kết thúc ở đây nhưng không :
“ Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Những câu thơ trên gợi tả được những gian khổ của người lính trong
cuộc chiến tranh giành độc lập đầy cam go, khốc liệt. Những người lính
phải canh gác vào đêm trong rừng hoang vắng, sự mờ ảo và lạnh giá từ
sương muối càng khiến mọi thứ khó quan sát và trở nên lạnh lẽo hơn.
Trong hoàn cảnh canh gác vất vả không được nghỉ ngơi nhưng những
người lính không hề cảm thấy mệt mỏi mà còn tràn đầy năng lượng và
có tâm hồn thi sĩ khi nhìn thấy ánh trăng mờ ảo dịu kỳ. Hình ảnh “đứng
cảnh bên nhau” cho thấy sự đoàn kết. Họ không hề cô đơn giữa khu
rừng rộng lớn vì họ có những người đồng đội – những người an hem
tuy không cùng huyết thống nhưng than thiết hơn máu thịt ruột rà, và
ánh trăng chính nghĩa luôn dõi theo họ. Những người lính sẵn sàng
nghênh đón kẻ thù với tâm thế chủ động. Dù đất nước ta không lớn
bằng Pháp, Mĩ , không có những vũ khí tối tân như đế quốc Mĩ hung
mạnh nhưng ta có chiến lược, có tình đồng đội và tình yêu nước mạnh
mẽ không gì có thể ngăn được.
“ Đầu súng trăng treo”
Đó là câu thơ kết thúc đặc sắc, đầy sáng tạo của nhà thơ Chính Hữu.
“Đầu súng” là hình ảnh của chiến tranh, bom đạn, chết chóc và đó cũng
là hình ảnh mạnh mẽ, hiên ngang của những người chiến sĩ. Còn “trăng”
lại là hình ảnh lãng mạn, trữ tình, mềm mại và cũng là ước muốn hòa
bình. “ Trăng treo” là trăng nửa cuối tháng âm lịch, đêm đến đã thấy
sẵn trên trời. Tác giả sử dụng hình ảnh “trăng treo” tạo cảm giác huyền
dịu, phải chăng nhà thơ mong muốn đất nước sẽ hòa bình như vầng
trăng dịu hiền, phát triển như ánh sáng trăng vào đêm. Tuy “đầu súng”
và “trăng treo” là hai hình ảnh đối lặp nhau nhưng khi đặt cạnh nhau lại
trở thành một bức tranh hoàn hảo, đúng là nam châm chỉ hút nhau khi
khác cực.
Bài thơ “ đồng chí” của Chính Hữu sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ giản dị,
chân thưc, cô đọng, giàu sức biểu cảm; sáng tạo mới lạ ở câu thơ “ đầu
súng trăng treo”.Tuy ngôn ngữ mộc mạc nhưng không kém phần lãng
mạn, đậm đà chất thơ. Bài thơ như một lời thủ thỉ về hình tượng người
lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ. Ngoài ra tác giả còn khắc
họa cuộc sống thiếu thốn và gian nan của những người lính bên cạnh
tính cách chân thành, lạc quan và lí tưởng cách mạng cao đẹp của họ.
Để có được cuộc sống hòa bình, hiện đại như ngày hôm nay thì phải kể
đến công lao to lớn của những người chiến sĩ. Họ đã hi sinh cả cuộc đời
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vì thế chúng ta phải chăm ngoan, học
giỏi để sau này xây dựng đất nước không phụ sự hi sinh to lớn của các
anh và phải tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người chiến sĩ. Bên cạnh
đó chúng ta còn học được tinh thần đoàn kết qua bài thơ, nhờ tinh
đoàn kết mà chúng ta có thể vượt qua tất cả. Một tập thể lớp, cơ quan
sẽ không đạt thành tích cao nếu các học sinh, nhân viên cứ đấu đá
nhau. Việc đấu đá như thế vô tinh lại khiến cho kẻ thù có cơ hội khiêu
khích chúng ta và dễ khiến chúng ta đanh mất bản thân. Vì thế, sự đoàn
kết là điều cần thiết trong một tập thể:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh
ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện tự nhiên, bình dị mà sâu sắc
tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.
Bài viết có vài chỗ sai xót mong bạn đọc bỏ qua.
•
Chân thành cám ơn bạn đọc !