Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận Hình Thái tiền và tính bí mật của tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.5 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ


TIỂU LUẬN
MÔN: GIỚI THIỆU TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA
C.MÁC-PH.ĂNGGHEN VÀ LÊ NINH VỀ PHƯƠNG
THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Đề tài:
SỰ PHÁT SINH CỦA HÌNH THÁI TIỀN
(DẠNG HOÀN CHỈNH CỦA HÌNH THÁI GIÁ TRỊ), QUA ĐÓ CHỈ
RA TÍNH CHẤT BÍ ẨN CỦA TIỀN, ĐƯỢC C.MÁC TRÌNH BÀY Ở
PHẦN I, QUYỂN I “BỘ TƯ BẢN”

Sinh viên thực hiện:
Lớp

…………………………
Kinh tế chính trị, khóa 32

Sóc Trăng, tháng 5 năm 2014

0


PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU
C.Mác (Karl Heindrich Marx) sinh ngày 5/5/1818 tại Trier trong miền
sông Rhine thuộc nước Phổ (Prussia), mất ngày 14/3/1883 tại Thành phố
London. Ông qua đời và để lại một tác phẩm vĩ đại cho nhân loại. Đó là “Bộ
tư bản”. Đó là bộ sách mà người ta luôn luôn ngạc nhiên về sự kỳ vĩ mà luôn
luôn bộc lộ ra những điều mới. Ông đã dựa trên sự tổng kết thực tiễn phát


triển ở nước Anh cổ điển, ông đã phân tích một cách khoa học và triệt để chủ
nghĩa tư bản với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội, đã vạch ra các
quy luật phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và
những mâu thuẩn trong lòng nó tất yếu sẽ thúc đẩy xã hội tư bản quá độ lên
phương thức cao hơn.
“Bộ tư bản” được chia thành 4 quyền: Tập thứ nhất, quyển I “Quá trình
sản xuất tư bản”; tập thứ hai, quyển II “Quá trình lưu thông của tư bản”; tập
thứ ba, quyển III “Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa” và quyển IV
“Các học thuyết giá trị thặng dư”.
Tại phần I, quyển I trong “Bộ tư bản”, C.Mác đã nghiên cứu hàng hóa
và tiền tệ. Ông nhấn mạnh, nếu không phân tích hàng hóa và tiền tệ, lưu
thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ thì không thể nào hiểu nổi tư bản. Đồng
thời trong quá trình hình thành phát triển kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt
tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển
của nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá.
Là học viên lớp Kinh tế chính trị (khóa 32) của Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, được quí thầy, quí cô truyền đạt những kiến thức cơ bản của môn Giới thiệu
tác phẩm kinh điển của C.Mác – Ph.Ăngghen và Lênin về phương thức sản xuất tư
1


bản chủ nghĩa. Để tìm hiểu thêm và hiểu rõ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Em xin chọn đề tài “Sự phát triển của hình thái tiền (dạng hoàn chỉnh của hình
thái của giá trị), qua đó chỉ ra tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác trình bài ở
phần I, quyển I “Bộ tư bản” để viết tiểu luận hết môn Giới thiệu tác phẩm kinh
điển của C.Mác – Ph.Ăngghen và Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Do kiến thức của em còn nhiều hạn chế nên tiểu luận sẽ bị nhiều sai sót, rất
mong được sự góp ý và dạy bảo thêm của quí thầy, quí cô để tiểu luận của em được
hoàn chỉnh hơn.
Xinh chân thành cảm ơn!


PHẦN II: NỘI DUNG
2


I. Sự phát triển của hình thái tiền (dạng hoàn chỉnh của hình thái
của giá trị):
1) Định nghĩa Tiền là gì:
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử.
Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực
kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế,
làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội.
Vậy, tiền tệ là cái gì? Nó ra đời từ lúc nào?. Để tìm hiểu rõ về nguồn
gốc ra đời của tiền tệ, có rất nhiều các quan điểm khác nhau.Trong kinh tế
chính trị của các nước phương Tây hình thành nên hai trường phái:
Một truờng phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan
của quá trình trao đổi hàng hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển
như: Adam Smith, David Ricardo…)
Trường phái thứ hai giải thích sự xuất hiện của tiền như là một sự kiện
có tính chất tâm ly (như hai nhà tâm ly học W.Gherlop và Smondest). Họ cho
rằng: “Nguồn gốc của tiền tệ không nằm trong quá trình trao đổi hàng hóa mà
do lòng ham muốn hiểu biết và nhu cầu làm đẹp là bản tính của đàn bà. Còn
bản tính của đàn ông lại là danh vọng, và sự ham muốn có nhiều tiền”
Lần đầu tiên, C.Mác vận dụng phương pháp duy vật biện chứng nghiên
cứu các hiện tượng kinh tế. Ông đã nghiên cứu sự phát triển của các hình thái
trao đổi từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến quá trình trao đổi hàng hóa sử
dụng tiền tệ, từ đó ông xác định bản chất của tiền tệ cũng như sự ra đời của
nó.

3



Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu con người
sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân,
chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ
trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu
trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật
khác. Giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của
một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá.
Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục
tách khỏi toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn.
Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở
rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là một
loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so
với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót:
-Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn
còn nhiều hàng hóa làm vật ngang giá.
-Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại không thuần
nhất.
Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi
hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ
được trao đổi với nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi,
muốn trùng khớp. Như vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi
trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân
hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một thứ

4


hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất cả các thứ

hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó, ví dụ như
súc vật. Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị
chung. Nhưng trong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn
chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau tì có
những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá chung.
Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp
tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở
rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh
mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải
thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở
một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được
biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật
ngang giá chung.
Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao
đổi và của các hình thài giá trị.
Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời
cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao
động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn
liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Vậy, tiền là gì? Triết học C.Mác-Lênin, dựa theo nghiên cứu về lịch sử
và bản chất tiền tệ của C.Mác, định nghĩa: “Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt

5


được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất
cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
giữa những người sản xuất hàng hoá”1
2) Sự phát triển của hình thái tiền (dạng hoàn chỉnh của hình thái

của giá trị):
a) Tiền là một hình thái giá trị của hàng hoá vậy vậy trước khi nghiên
cứu hình thái tiền, chúng ta có thể nghiên cứu dựa trên sự phát triển của các
hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hoá, cụ thể là các hình thái sau:
Một là, Hình thái giá trị giản đơn
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu
của trao đổi hàng hoá khi sự trao đổi vẫn mang tính chất ngẫu nhiên, người ta
trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.
Công thức tổng quát: xH1 = yH2. Ở hình thái này hàng hóa H1 biểu giá
trị của nó ở hàng hóa H2. Trong đó H1 là hình thái giá trị tương đối, còn H2
đóng vai trò vật ngang giá.
Ví dụ: 01 cái rìu = 10kg thóc
Trong hình thái giản đơn này, giá trị cái rìu được biểu hiện ở thóc, còn
thóc dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của cái rìu; ở đây rìu mang hình thái
tương đối, còn thóc mang hình thái ngang giá. Như vậy giá trị sử dụng của
hàng hóa này trở thành hình thức biểu hiện của hàng hóa kia.
Hình thái giá trị này tồn tại vào thời kì sơ khai của loài người, khi xã
hội đã bắt đầu có sự phân hoá về lao động cũng như hình thành nên các hình
thức xã hội đầu tiên. Do sự gia tăng sản xuất dẫn đến dư thừa hàng hoá, là
điều kiện mở đầu cho sự trao đổi trực tiếp giữa các cá thể trong xã hội. Ở
1

Theo Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, Nxb Chính trị quốc gia

6


hình thái giá trị này thì tỷ lệ trao đổi là không cố định và bị phụ thuộc bởi nhu
cầu và mong muốn trao đổi của người thực hiện trao đổi.
C.Mác chỉ rõ: “Bí mật của mọi hình thái giá trị đều nằm ở trong hình

thái đơn giản đó”. Bản thân hình thái giá trị này bao gồm hình thái tương đối
và hình thái ngang giá. Hai hình thái này là hai mặt liên quan, không thể tách
rời nhau nhưng cũng là hai cực đối lập của một phương trình giá trị.
Vào thời gian sau, cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất, ngày
càng có nhiều mặt hàng tham gia vào trao đổi, đòi hỏi giá trị một hàng hoá
phải được biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác cho nó. Do đó, hình thái giá trị
giản đơn tự nó chuyển sang hính thái mới của giá trị và đây cũng là hình thái
phôi thai của tiền tệ.
Hai là, Hình thái giá trị đầy đủ
Thời kì tiếp theo khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
phát triển hơn, làm cho năng xuất lao động tăng, sản phẩm thặng dư nhiều
hơn làm cho trao đổi nhiều hơn và đều đặng hơn. Một hàng hoá này có thể
quan hệ trao đổi với nhiều hàng hoá khác nhau có tác dụng làm vật ngang
giá.
Công thức:

xH1 = yH2
Hoặc = zH3
Hoặc = …

Ví dụ:

01 con trâu = 20kg chè
hoặc = 05 cái rìu
hoặc = 30kg thóc
hoặc = …

7



Trong hình thái này, mỗi vật đem trao đổi là một vật ngang giá, do vậy
vật ngang giá cứ được mở rộng ra. Nhưng trao đổi vẫn mang tính chất trao
đổi trực tiếp.
Sự phức tạp trong trao đổi khi số lượng hàng hoá trở nên nhiều và đa
dạng hơn đã manh nha hình thành một hình thái giá trị chung có khả năng
làm thước đo giá trị trao đổi giữa các hàng hoá. Đó là tiền than cho sự ra đời
của “tiền”.
Ba là, Hình thái chung của giá trị
Là hình thái mà ở đó tất cả các hàng hóa đều được biểu hiện giá trị của
nó thông qua giá trị sử dụng của hàng hóa đặc biệt khác có vai trò làm vật
ngang giá chung:
Công thức:

xH1
Hoặc yH2

= aH5

Hoặc zH3

(H5 là vật ngang giá)

Hoặc …
Ví dụ:

- 20kg chè hoặc =
- 05 cái rìu hoặc =
- 30kg thóc

01 con trâu


=

Trong hình thái này, trâu được dùng làm vật ngang giá chung, các hàng
hóa đều đổi lấu trâu rồi dùng trâu đổi lấy hàng hóa khác theo nhu cầu. Nhưng
vì nhiều địa phương, nhiều vùng dùng một vật ngang giá khác nhau nên gây
trở ngại cho quá trình trao đổi khi thị trường mở rộng.
Qua nghiên cứu khảo cổ, các nhà khoa học đã nhạn định rằng ở nhiều
nơi, vật ngang giá có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ
sò quý hiếm.. Ngoài ra còn có chè lá (với các khu vực đồng bằng không thể
trồng chè) và muối (với các khu vực núi cao không thể làm muối). Không chỉ
8


thế, ở một nơi nọ trên thế giới, người ta sử dụng răng cá mập như là vật
ngang giá. Lông chim là loại dùng làm vật ngang giá nhẹ nhất từ trước đến
nay.
Tuy nhiên, khi quá trình sản xuất phát triển hơn và quy mô trao đổi
được mở rộng giữa các vùng, sự khác biệt về hàng hoá mang hình thái chung
giữa các vùng dẫn đến thêm nhiều khó khăn hơn. Vì thế, tất yếu cần phải
chuyển lên hình thái cao hơn. Đó là hình thái tiền tệ (dạng hoàn chỉnh của
hình thái của giá trị).
b) Hình thái tiền tệ (dạng hoàn chỉnh của hình thái của giá trị):
Quá trình mở rộng thị trường và sản
xuất hàng hoá trong tình cảnh tồn tại rất
nhiều vật ngang giá chung giữa các vùng đòi
hỏi khách quan một vật ngang giá chung
thống nhất giữa các vùng để đảm bảo trao
đổi được thông suốt. Khi vật ngang giá chung được cố định thì ở một vật độc
tôn và phổ biến thì hình thành hình thái tiền tệ của giá trị.

Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố
định lại ở kim loại quý như vàng, bạc và cuối cùng là vàng.
Công thức:

xH1
Hoặc yH2

= a gram vàng

Hoặc zH3

(vàng trở thành tiền)

Hoặc …
Ví dụ:

- 20kg chè hoặc =
- 05 cái rìu hoặc =

01 gram vàng
9


- 30kg thóc

=

Không ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những hình
thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những đồng
tiền kim loại có từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được

lưu hành trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim
loại quý như vàng và bạc để chế tiền xu. Họ in hình người hoặc (con) thú trên
mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó. Trong những năm 1200,
người Trung Quốc đúc những đồng tiền bằng sắt. Những đồng tiền này giá trị
chẳng là bao, cho nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua
hàng. Do đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt
nặng nề nên chính phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người ta mang các
biên nhận này đến ngân hàng để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có
được về việc phát hành và sử dụng tiền giấy. Ngày nay, hầu hết các nước đều
sử dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền giấy đều có cùng kích cỡ
và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la có cùng kích cỡ và màu sắc y
như tờ một trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều
kích cỡ và màu sắc khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp
hơn. Việc này tạo điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể
xác định được giá trị của chúng.
Nếu như trước kia tiền thường được kiên kết với các phương tiện trao
đổi hiện thực có giá trị, thí dụ như đồng tiền bằng vàng thì tiền ngày nay
thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền giấy). Điều đó
đồng nghĩa là bản thân tiền không có giá trị gì cả nếu xét về vật liệu làm ra
tiền nhưng nó mang giá trị bởi giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà
tiền đại diện cho chúng. Trước kia ở Châu Âu đã sử dụng Vàng và Bạc làm
giá trị đối ứng của tiền, đó là chế độ bản vị vàng và bản vị bạc. Tuy nhiên chế
10


độ bản vị này đã góp phần gây nên cuộc Đại khủng hoảng 1929 gây ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế Thế giới nên ngày nay việc này không còn thông
dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng hóa mà người ta có thể
mua được.
II. Tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác trình bày ở phần I, quyển I

“Bộ tư bản”:
Hàng hóa vốn là sản phẩm của con
người. Thoạt nhìn, hàng hóa có vẻ là một
vật chất rất đơn giản và tầm thường, nhưng
một khi vật đó trở thành hàng hóa thì nó lại
biến thành một vật vừa có thể biết được nhờ
giác quan, lại không thể biết được qua giác
quan.
Tính thần bí của hàng hóa không phải do giá trị sử dụng, cũng không phải do
nội dung những tính quy định của gía trị sinh ra. Thế thì tính chất bí ẩn của hàng
hóa do đâu mà có?
C.Mác nói "Bây giờ, chúng ta cần phải làm một việc mà ngay cả khoa kinh
tế chính trị học tư sản cũng chưa bao giờ thử làm cả, cụ thể là chỉ rõ sự phát sinh
của hình thái tiền đó, nghĩa là theo dõi sự phát triển của biểu hiện giá trị nằm ở
trong mối quan hệ giá trị của các hàng hoá, từ hình thái đơn giản nhất và ít thấy rõ
nhất của nó cho đến hình thái tiền chói lọi. Làm được như thế thì cái tính chất bí ẩn
của tiền cũng sẽ mất đi" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 80-81).
C.Mác cho rằng hình thái đơn giản lại hàm chứa tất cả các bí mật của sự
phát triển về sau. "Bí mật của mọi hình thái giá trị đều nằm ở trong hình thái đơn
giản đó của giá trị. Cho nên điều khó khăn chính là việc phân tích hình thái này"

11


(C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội 1993, trang 81).
C.Mác ví "Giá trị của các hàng hoá khác với mụ goá Qui-cly ở chỗ là người
ta không biết nắm lấy nó ở chỗ nào. Hoàn toàn trái ngược với tính vật chất thô
kệch của các vật thể hàng hoá đối với các giác quan, trong giá trị không có lấy một

nguyên tử vật chất nào của tự nhiên cả. Người ta có thể lấy từng hàng hoá riêng ra
để sờ nắn, lật đi lật lại đến tuỳ thích, nhưng với tư cách là một giá trị thì người ta
vẫn không thể nắm được nó. Nhưng nếu ta nhớ lại rằng các hàng hoá chỉ có giá trị
trong chừng mực chúng là những biểu hiện của cùng một thể thống nhất có tính
chất xã hội, tức là của lao động của con người, rằng do đó, giá trị của hàng hoá chỉ
có một tính chất thuần tuý xã hội, thì tự nhiên chúng ta sẽ hiểu được rằng giá trị chỉ
có thể thể hiện ra trong mối quan hệ xã hội giữa hàng hoá này với hàng hoá khác
mà thôi. Thật vậy, chúng ta xuất phát từ giá trị trao đổi, hay từ quan hệ trao đổi của
các hàng hoá, để lần mò ra vết tích của giá trị ẩn nấp trong những hàng hoá đó" (C.
Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội 1993, trang 80).
"Như vậy tính thần bí của hàng hoá không phải do giá trị sử dụng của nó
sinh ra. Tính thần bí đó cũng không phải do nội dung những tính quy định của giá
trị sinh ra" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 114).
"Thế thì tính chất bí ẩn của sản phẩm lao động khi sản phẩm ấy bắt đầu
mang hình thái hàng hoá, do đâu mà có? Rõ ràng là do chính bản thân hình thái ấy.
Tính bình đẳng của các loại lao động khác nhau của con người lại mang hình thái
vật có tính vật thể giống nhau của giá trị của những sản phẩm lao động; thước đo
các chi phí về sức lao động của con người bằng độ dài của các chi phí ấy lại mang
hình thái đại lượng giá trị của các sản phẩm lao động; cuối cùng, những mối quan
hệ giữa những người sản xuất, trong đó những tính quy định xã hội của lao động
12


của họ được thực hiện, lại mang hình thái một quan hệ xã hội giữa các sản phẩm
lao động" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 115).
"Do đó, tính chất bí ẩn của hình thái hàng hoá chỉ là ở chỗ: hình thái đó phản
ánh cho người ta thấy tính chất xã hội của lao động của bản thân họ là như là một

tính chất vật thể của chính ngay những sản phẩm lao động, như là những thuộc tính
xã hội của các vật đó, do tự nhiên đem lại; vì vậy, cả mối quan hệ xã hội của những
người sản xuất đối với toàn bộ lao động cũng được họ hình dung như là một mối
quan hệ xã hội của các vật nằm ở bên ngoài họ. Nhờ quid pro quo [việc lấy cái nọ
thay cái kia] đó mà những sản phẩm lao động trở thành hàng hoá, thành những vật
mà người ta vừa có thể biết được lại vừa không thể biết được nhờ các giác quan,
hay là những vật xã hội. Tác động quang học mà một vật gây ra cho thần kinh thị
giác thì cũng vậy: người ta không cảm xúc thấy đó là một sự kích thích chủ quan
của bản thân thần kinh thị giác mà là một hình thù khách quan của một vật ở ngoài
con mắt. Nhưng trong thị giác, ánh sáng đã thực sự được một vật, một vật thể bên
ngoài, chiếu vào một vật khác tức là con mắt. Đó là quan hệ vật lý giữa các vật thể.
Nhưng hình thái hàng hoá và quan hệ giá trị giữa các sản phẩm lao động trong đó
nó được biểu hiện ra, thì tuyệt nhiên không có gì giống với bản chất vật lý của các
vật và những quan hệ của các vật bắt nguồn từ bản chất vật lý đó cả. Đó là chỉ một
quan hệ xã hội nhất định của chính con người, nhưng dưới con mắt của họ thì quan
hệ ấy lại mang cái hình thái kỳ ảo của mối quan hệ giữa các vật. Muốn tìm được
một thí dụ tương tự với hiện tượng đó, chúng ta phải đi vào cõi mù mịt của thế giới
tôn giáo.
Trong cái cõi ấy, các sản phẩm của bộ óc con người thể hiện ra thành những
sinh vật độc lập, có cuộc sống riêng của chúng, có những mối quan hệ nhất định
với con người và giữa chúng với nhau. Trong thế giới hàng hoá, các sản phẩm do
bàn tay con người làm ra cũng thế. Tôi gọi cái đó là tính chất bái vật giáo gắn liền
13


với các sản phẩm của lao động khi những sản phẩm này được sản xuất ra với tư
cách là hàng hoá, và do đó, tính chất bái vật giáo ấy không thể tách rời khỏi
phương thức sản xuất hàng hoá được" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 115-116).
"Phải đợi đến khi có một nền sản xuất hàng hoá hoàn toàn phát triển thì mới

có thể từ bản thân kinh nghiệm mà rút ra được một nhận thức khoa học là: các lao
động tư nhân, được tiến hành một cách độc lập đối với nhau nhưng lại gắn liền với
nhau về mọi mặt với tư cách là những khâu của sự phân công lao động xã hội tự
phát luôn luôn được quy thành thước đo xã hội của chúng một cách tỷ lệ. Cần phải
có một nền sản xuất hàng hoá hoàn toàn phát triển để cho nhận thức khoa học ấy
xuất hiện, bởi vì trong những quan hệ trao đổi ngẫu nhiên và thường xuyên biến
động giữa các sản phẩm của những lao động ấy, thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra các sản phẩm ấy chỉ dùng bạo lực để tự mở đường cho mình với tư
cách là một quy luật tự nhiên có tác dụng điều tiết, cũng giống như quy luật trọng
lực làm cho người ta biết đến nó khi chiếc nhà sụp đổ xuống đầu mình. Vì thế, việc
quy định đại lượng của giá trị bằng thời gian lao động là một điều bí mật ẩn giấu
đằng sau sự vận động có thể thấy được của giá trị tương đối của các hàng hoá. Việc
khám phá ra điều bí mật ấy xoá bỏ được cái ảo ảnh cho rằng hình như đại lượng
của giá trị của sản phẩm lao động được quy định một cách thuần tuý ngẫu nhiên,
nhưng việc ấy tuyệt nhiên không xoá bỏ được cái hình thái vật thể của sự quy định
đại lượng của giá trị" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 119-120).
“Như vậy là chỉ có sự phân tích giá cả các hàng hoá mới dẫn đến việc xác
định đại lượng của giá trị, và chỉ có biểu hiện chung bằng tiền của các hàng hoá
mới dẫn đến chỗ cố định được tính chất giá trị của các hàng hoá. Nhưng chính cái
hình thái hoàn chỉnh ấy của thế giới hàng hoá - hình thái tiền lại che giấu tính chất
xã hội của các lao động tư nhân vào đằng sau lưng các vật, và do đó che giấu cả
14


những quan hệ xã hội của những người lao động tư nhân, trong lúc lẽ ra phải bóc
trần những quan hệ ấy" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1993, trang 120).

15



PHẦN III: KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu hình thái tiền (dạng hoàn chỉnh của hình thái của giá trị), và
tính chất bí ẩn của tiền được C.Mác trình bài ở phần I, quyển I “Bộ tư bản cho ta
thấy nó có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng của nhân loại, nó được ví như là máu
trong cơ thể của nền kinh tế.
Ở nước ta, đang tiến hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
thì việc nghiên cứu vấn đề này lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn, nó chỉ rõ quy
tắt hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá, đồng thời nó có ảnh hưởng
lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát...
Nếu như chúng ta nghiên cứu rõ vấn đề này và vận dụng việc nghiên cứu này vào
nền kinh tế của nước ta một cách linh hoạt sẽ làm cho nền kinh tế nước ta phát
triển một cách bền vững.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-------------1- Giáo trình của Khoa kinh tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền do
TS Cao Quang Xứng – Chủ nhiệm đề tài.
2- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin của Nhà xuất bản chính trị
quốc gia do TS Ngô Văn Lương và ThS Vũ Xuân Lai đồng chủ biên.
3- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin của Nhà xuất bản chính trị
quốc gia do ThS Vũ Xuân Lai chủ biên.
4- C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội 1993

5- Hỏi đáp môn Kinh tế - chính trị Mác – Lênin của Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội do TS An Như Hải chủ biên.

6- Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, Nxb
Chính trị quốc gia.
7- Các trang Báo điện tử:
www.dangcongsan.vn
www.kinhtehoc.com
www.vietnamnet.vn
www.dantri.com.vn

17



×