BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VÀ KỸ THUẬT TPHCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Đề Tài: Hình thức chính thể của một số nước
trên thế giới.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Tuyết Nga
SVTH
1. Trần Lê Tri
2. Đỗ Duy Tùng
3. Nguyễn Ngọc Minh Giao
4. Nguyễn Vương Thảo Nguyên
5. Nguyễn Hoàng Minh
MSSV
16116186
16116191
16116209
16116159
16116211
TPHCM 5/2017
Lớp: GELA220405-16-2-10.
Thứ: 6
Tiết: 1-2.
NHÓM THỰC HIỆN: 1
NĂM HỌC: 2016-2017.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Hình thức chính thể là mảng đề tài rất được nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Là
một sinh viên luật- khoa lý luận chính trị chúng tôi thấy đây là một vấn đề rất hay và
quan trọng nên chúng tôi cần tìm hiểu và học tập. Bên cạnh đó chúng tôi muốn cung cấp
một số đặc điểm cơ bản hình thức chính thể của các nước trên thế giới, đặc biệt chúng tôi
sẽ chú trọng vào một số nước lớn đại diện cho một số hình thức chính thể hiện nay. Nhằm
trang bị những kiến thức bổ ích cho những ai muốn tìm hiểu, muốn lí giải các hiện tượng
chính trị đang diễn ra trên các nước.
2. Tính cấp thiết:
Trên thế giới hiện nay có hơn 200 quốc gia mà mỗi quốc gia lại có những hình thức
chính thể riêng tạo nên sự đa dạng và đặc trưng riêng của mỗi nước trên thế giới. Sự khác
nhau đó phần nào mang đến nhiều sự khó khăn trong các nghi thức đón tiếp hay ngoại
giao... Có những nước hình thức chính thể rất phức tạp gây khó khăn trong việc xác định
vì có những trường hợp có sự biến thể. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay chỉ có hai loại
hình thức chính thể cơ bản đó là chính thể cộng hòa và chính thể quân chủ. Mỗi chính thể
còn có những hình thức nhỏ hơn mang những đặc điểm khác nhau tạo nên một hệ thống
chính thể cực kì độc đáo và đa dạng. Không phải bỗng dưng lại có những hình thức chính
thể như vậy mà chúng phải có những giai đoạn hình thành và lịch sử riêng của từng nước,
vì thế mới tạo nên từng đặc điểm riêng của mỗi quốc gia mỗi khu vực trên thế giới.
Sự khác biệt trong hình thức chính thể cũng tạo nên sự khác nhau trong tổ chức bộ
máy nhà nước. Do đó, ta phần nào xác định được hình thức chính thể của một quốc gia là
dựa vào cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và ngược lại. Tuy nhiên, có những trường
hợp một quốc gia vừa có đặc điểm của chính thể này vừa có đặc điểm của chính thể khác.
Nhưng sẽ đừng nhầm lẫn giữa hình thức chính thể với hình thức cấu trúc nhà nước vì
chúng là hai khái niệm và hai hình thức khác biệt nhau nhưng cả hai đều là một trong
những đặc điểm tạo nên hình thức nhà nước mà thôi.
Nhằm giúp cho mọi người biết và hiểu rõ hơn các hình thức chính thể cơ bản trên thế
giới, tiến trình lịch sử, giai đoạn và những đặc điểm đặc thù của mỗi chính thể, để giúp
chúng ta xác định được quốc gia đó là thuộc chính thể nào, ... Cách xác định và phân biệt
các chính thể giữa các quốc gia là khá quan trọng và cũng không dễ dàng. Vấn đề này
không kém phần quan trọng và khá thú vị đối với những ai quan tâm đến hình thức chính
thể trên thế giới.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Hình thức chính thể là một đề tài có phạm vi và đối tượng nghiên cứu rộng. Vì thế
trong bài tiểu luận này chúng tôi không đi sâu vào nghiên cứu chi tiết hình thức chính thể
của các nước trên thế giới mà chỉ tìm hiểu một số vấn đề như:
•
Phân tích cơ sở lý luận của hình thức chính thể nhà nước để qua đó cho thấy rõ tầm quan
trọng của việc nghiên cứu để tài này. Mặt khác, qua phân tích để thấy hình thức chính thể
có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn.
• Tìm hiểu phương thức thành lập, tổ chức và hoat động cùng với mối quan hệ qua lại giữa
các cơ quan nhà nước ở chính quyền Trung Ương của một số nước: Anh, Pháp, Mỹ.
Sở dĩ tôi chọn các nước: Anh, Pháp, Mỹ là vì:
Anh - là điển hình của hình thức chính thể Quân chủ lập hiến.
Pháp - là điển hình của hình thức chính thể Cộng hòa lưỡng tính.
Mỹ - là điển hình của hình thức chính thể Cộng hòa Tổng Thống.
4. Mục đính và nhiệm vụ
• Mục đích: Tìm hiểu hình thức chính thể ở một số nước trên thế giới
• Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích đó, bài tiểu luận trình bày những vấn đề sau:
∗ Trình bày cơ sở lý luận của hình thức chính thể để qua đó phân tích, chứng minh hinh
•
•
•
thức chính thể có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
∗ Trình bày hình thức chính thể ở một số nước trên thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ.
5. Ý nghĩa thực tiễn:
Bài nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện những tri thức, những
hiểu biết cả về lý luận và thực tiễn những giá trị chính thể của Hiến pháp đối với việc xây
dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước và góp phần hiểu biết rộng rãi hơn về hình
thức chính thể của các nước trên thế giới.
Trên cơ sở so sánh chính thể ở các bản Hiến pháp với chính thể các nước đã
góp phần bổ sung thêm tri thức vè các loại hình chính thể nhà nước khác nhau, có thể lựa
chọn, tiếp thu những mặt mạnh, mặt tích cực của các mô hình chính thể nhà nước, từ đó
có thể đưa ra được mô hình tổ chức nhà nước tham khảo, vận dụng và hoàn thiện mô hình
tổ chức Nhà nước Việt Nam.
6. Tính mới và đóng góp của đề tài:
*Tính mới: Bài tiểu luận phân tích rõ hình thức chính thể của các nước trên thế
giới hiện nay dựa trên sự phân tích chi tiết của một số nước đại diện. Từ đó chỉ ra các
điểm mới trong Hiến pháp của các cơ quan thực hiện lập pháp, hành pháp, tư pháp.
*Đóng góp: Hệ thống một cách khái quát nhất hình thức chính thể hiện có trên thế
giới qua sự tìm hiểu các văn bản lý luận các cổng thông tin điện tử và các văn bản Hiến
pháp. Tiểu luận có thể làm tài liệu cho các sinh viên nghiên cứu hoặc những người yêu
thích và muốn tìm hiểu về hình thức chính thể của các nước trên thế giới hiện nay.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÍNH THỨC CHÍNH THỂ.
1.1.
Hình thức chính thể
Hình thức Nhà nước là một khái niệm được cấu tạo bởi ba yếu tố, đó là: hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc Nhà nước và chế độ chính trị. Vì thế khi ta tìm hiể một cách
toàn diện hình thức Nhà nước, bên cạnh việc phân tích hình thức Nhà nước thông qua
cách tổ chức cơ cấu các cơ quan Nhà nước, cách thức tổ chức Nhà nước theo cơ cấu như
ta đã tìm hiểu ở trên thì ta còn cần phải hiểu được các phương pháp, biện pháp thực hiện
quyền lực Nhà nước - hay còn gọi là chế độ chính trị của Nhà nước đó.
Hình thức Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Kết
quả của việc tiến hành sự thống trị phụ thuộc rất lớn vào việc giai cấp thống trị tổ chức và
thực hiện quyền lực Nhà nước theo hình thức nào.
Hình thức Nhà nước là cách tổ chức quyền lực Nhà nước và những phương pháp để
thực hiện quyền lực Nhà nước. Bất kì một Nhà nước nào, ở đâu, ở thời kì nào cũng thiết
lập một trật tự nhất định về việc thành lập và thực hiện mối quan hệ giữa các cơ quan
trong một Nhà nước; cũng có những cách thức phân chia lãnh thổ theo một ý đồ nhất
định như: chia lãnh thổ thành các tiểu bang hay các đơn vị hành chính nhất định; và bên
cạnh đó cũng thực hiện những phương pháp, thủ đoạn để thực hiện quyền lực. Có rất
nhiều thủ đoạn và phương pháp khác nhau nhưng tựu chung chúng thường phân thành hai
loại chính: phương pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ.
Trình tự thành lập và mối quan hệ của chúng với nhân dân là thước đo thể hiện mức
độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.
Hiện nay, các nước trên thế giới đi theo hai loại hình thức chính thể cơ bản, đó là:
Chính thể Quân chủ và Chính thể Cộng hoà. Cơ sở để phân chia là cách thức thành lập
người đứng đầu Nhà nước. Cụ thể:
•
Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước tập trung
toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu Nhà nước theo nguyên tắc thừa
kế.
•
Chính thể Cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước thuộc
về một cơ quan được bầu ra (Nghị Viện hoặc nhân dân, hoặc Nghị Viện cùng với
các chủ thể khác bầu) trong một thời gian nhất định.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa người đứng đầu Nhà nước, Nghị Viện và Chính Phủ thì
cả hai hình thức chính thể Cộng hoà và chính thể Quân chủ đều có những biến dạng của
mình. Cụ thể:
•
Chính thể Quân chủ được chia thành: Chính thể Quân chủ tuyệt đối và chính thể
Quân chủ hạn chế. ở hình thức Quân chủ hạn chế được chia thành: Quân chủ nhị
nguyên và Quân chủ đại nghị. Trong các nước Quân chủ tuyệt đối, người đứng đầu
Nhà nước (vua; hoàng đế...) có quyền lực vô hạn; Còn trong các nước Quân chủ
hạn chế người đứng đầu Nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao và bên
cạnh đó còn có một cơ quan quyền lực khác nữa, như Nghị Viện trong các Nhà
nước tư sản có chính thể quân chủ.
• Chính thể Cộng hoà cũng có hai hình thức chính là: Cộng hoà Dân chủ và Cộng
hoà Quý tộc. Trong các nước Cộng hoà Dân chủ, quyền tham gia bầu cử để lập ra
cơ quan đại diện (quyền lực) của Nhà nước được quy định về mặt hình thức pháp
lý đối với các tầng lớp nhân dân lao động (mặc dù trên thực tế, các giai cấp thống
trị của Nhà nước bóc lột thường đặt ra nhiều quy định để hạn chế hoặc vô hiệu hoá
quyền này của nhân dân lao động). Trong các nước Cộng hoà Quý tộc, quyền đó
chỉ quy định đối với tầng lớp quý tộc.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, do nhiều yếu tố khác nhau tác động, các hình thức
chính thể của một Nhà nước nhất định cần phải gắn bó với những điều kiện lịch sử cụ
thể. Vì thế, khi xét các Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ta đều thấy tất cả đều là Nhà nước
Cộng hoà Dân chủ đựơc đặc trưng bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào
việc thành lập các cơ quan đại diện của mình.
Việc tổ chức Nhà nước không chỉ xảy ra ở cấp Trung Ương, mà còn phải tổ chức ở địa
phương và giữa cơ quan cấp Trung Ương với các cơ quan ở địa phương có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc lãnh thổ Nhà nước.
Như vậy, hình thức chính thể là cách thức và trình tự lập ra cơ quan nhà nước tối cao
của quyền lực nhà nước, xác lập những mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và giữa
nhà nước với nhân dân. Và là sự biều hiện bề goài thành mô hình, hình dáng của nhà
nước thông qua cách thức cơ cấu bên trong của việc tổ chức, vị trí, quyền hạn trách
nhiệm và bản chất nguồn gốc của quyền lực nhà nước.
Hiện nay trên thế giới có hai hình thức chính thể cơ bản là chính thể quân chủ và
chính thể cộng hòa. Mỗi chính thể lại có những biến thể của nó.
1.2 Các yếu tố cuả hình thức chính thể: gồm có ba yếu tố chính
1.2.1 Sự lựa chọn người cầm quyền:
Giá trị của một chế độ phụ thuộc phần lớn vào những người cầm quyền trong chế
độ ấy. Nếu lựa chọn những người tiêu biểu cho chế độ sẽ giúp cho việc giữ vững và phát
huy được bản chất của chế độ đó, đưa đất nước tiến lên phía trước. Ngược lại, nếu những
người cầm quyền không được lựa chọn một cách thích hợp và phù hợp với chế đó sẽ là
một lực cản lớn cho sự phát triển của đất nước và cho sự vững bền của chế độ đó.
Trong những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những yếu tố truyền thống lịch sử,
trình độ phát triển... khác nhau thì phương pháp lựa chọn người cầm quyền là khác nhau.
Do vậy, các phương pháp lựa chọn người cầm quyền đã trở thành một trong những nền
tảng của chế độ. Các phương pháp áp dụng cho tới nay, trên phương diện tích cực là để
nhằm hạn chế quyền lực, ngăn chặn chúng không đi đến chỗ lạm dụng, đồng thời cũng là
nhằm thực hiện những yêu sách của chủ nghĩa tự do. Xét đến cùng, sự khác biệt sâu rộng
của những chính thể, chế độ chính trị khác nhau là dựa trên những phương thức, cách
thức lựa chọn người cầm quyền có xuất phát từ hững hình thức tự do, dân chủ hay không.
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều phương pháp, cách thức để lụa chọn những người
cầm quyền của một quốc gia: phương pháp truyền ngôi kế vị, bầu cử tự do hay do sự
chinh phục bằng vũ lực... Chung quy lại, người ta có thể tập hợp những phương pháp trên
thành hai loại phương pháp cơ bản. Thứ nhất, nếu việc lựa chọn người cầm quyền được
giao cho công chúng (có thể bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp) thì phương pháp này
gọi là dân chủ. Thứ hai là, nếu sự lựa chọn đó đã lọt khỏi tay dân chúng mà rơi vào một
hoặc môt số cá nhân hay nhóm người có thế lực thì đó là phương pháp phi dân chủ hay
được mệnh danh là độc tài.
Những phương pháp thứ nhất (phương pháp dân chủ) phù hợp với chủ nghĩa tự do,
là cơ sở của nền tảng dân chủ bởi vì chúng làm hạn chế quyền lực của nhà nước cai trị,
làm tiêu diệt chủ nghĩa độc đoán cá nhân. Những phương pháp thứ hai thì ngược lại,
chúng thích nghi với chủ nghĩa độc đoán, chuyên quyền, là điều kiện cho những người
cầm quyền thu tóm quyền lực và làm teo tóp nền tảng tự do, dân chủ. Giữa hai phương
pháp đó, người ta lại tìm ra những phương pháp hỗn hợp trung hòa trong đó có sự kết hợp
của sự lựa chọn dân chủ và sự lựa chọn độc tài. Ngày nay, ở những nước còn quá lạc hậu
hay ở những quốc gia trong những hoàn cảnh nhất định, ví dụ, ở một số nước thường
thấy sự thay đổi chính quyền bằng cách dùng lực lượng quân đội để làm đảo chính như ở
Pakistan vào năm 2000 hay năm 1999 ở Miến Điện.
Trái lại, chế độ dân chủ ngày càng phát triển hơn thể hiện tính quy luật của chủ
nghĩa dân chủ. Về mặt lịch sử, chế độ dân chủ phát sinh trong những đô thi Hy Lạp cổ
đại nhưng đó chỉ là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ chỉ vời một nhóm thiểu số. Đó là
vì chỉ những người tự do mới được có mặt trong các hôi nghị (các thiết chế dân chủ) để
tham gia lựa chọn những người đại diện. Những người nô lệ và những người thuộc tầng
lớp dười của xã hội không được hưởng bất cứ một quyền dân sự, quyền chính trị nào.
Cùng vời sự tiến triển của lịch sử, chế độ dân chủ cũng có những bước tiến triển
thăng trầm nhưng nhìn chung chưa tạo ra được những đột biến lớn. Chỉ đến khi nổ ra các
cuộc cách mạng tư sản, từ đó đã tạo ra bước ngoặt lớn cho sự phát triển của chế độ dân
chủ, hình thành nên một hình thức dân chủ mới. Mà giai cấp tư sản đã tuyên bố rằng, tất
cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân được tham gia vào việc lựa chọn những người
đại diện thành lập nên các cơ quan nhà nước. Vì tất cả công dân không thể tham gia chính
phủ, họ sẽ phải lựa chọn những người đại diện vào trong nghị viện, do đó mới có cụm từ
“dân chủ đại nghị”, đó là một chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ từ đây có cơ sở và đồng
nghĩa với những cuộc bầu cử trong một thời hạn nhất định những người cầm quyền do
dân chúng bầu lên. Những phương pháp bầu cử cũng như số những nghị viện (cơ quan
đại diện) có thể khác nhau ở những nước khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện
của mỗi quốc gia, và sự tố chức, mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành
pháp có thể không giống nhau do các hình thức chính thể khác nhau nhưng mục đích cuối
cùng là tạo ra một chế độ dân chủ khi mà những cuộc bầu cử ấy được tổ chức một cách tự
do và thành thật. Dưới hình thức ấy, chế độ dân chủ lần đầu tiên đã trở thành tiêu chí mà
mọi quốc gia đều phải hướng tới, cũng lần đầu tiên nó đã chinh phục hầu hết các nước
văn minh.
Từ khi ra đời, chế độ dân chủ đại nghị đã trải qua hai cuộc biến thiên chính: đó là
sự chấp nhận phổ thông đầu phiếu và sự xuất hiện của những đảng chính trị có tổ chức.
Trong thời kì khá lâu sau các cuộc cách mạng tư sản, chế độ dân chủ chỉ có tính cách cục
bộ, khép kín, những người cầm quyền được bầu lên chỉ bởi một nhóm thiểu số dân chúng
(những người có của). Dần dần cùng với sự phát triển, số cử trị được tăng lên do áp lực
của những nguyên tắc dân chủ.
Tuy nhiên, khi các chính đảng ra đời và tham gia vào bầu cử thì phần nào nguyên
tắc bầu cử dân chủ bị xâm phạm, bởi vì những ban lãnh đạo các chính đảng có khuynh
hướng muốn thay thế cho những người được bầu, hay khi sự lựa chọn những người đại
diện vào viện, dân biểu lại được chuyển từ tay cử tri qua tay các chính đảng.
Bây giờ, ta hãy nói tới những chế độ hỗn hợp (chế độ trung hòa giữa độc tài và dân
chủ). Một chế độ được gọi là hỗn hợp khi những người cần quyền được lựa chọn bằng
phương pháp dung hòa. Cuộc bầu cử không hoàn toàn bị loại trừ, song nó không đóng vai
trò quyết định. Tùy thuộc vào phương pháp dung hòa người ta có thể phân biệt những chế
độ hỗ hợp sau: hỗn hợp bằng cách tiếp nối, hỗn hợp bằng kết hợp, hỗn hợp bằng hợp
nhất.
Thứ nhất, trong chế độ hỗn hợp bằng cách tiếp nối, người ta thấy hai cơ quan
chính quyền đứng bên nhau, một cơ quan có tính cách dân chủ và một cơ quan có tính
cách chuyên chế.
Thứ hai, chế độ hỗn hợp do kết hợp, là chế độ trong đó có một cơ quan chính
quyền được chỉ định theo phương pháp phức tạp vừa dân chủ, vừa độc đoán. Đó là
trường hợp có cuộc “đầu phiếu để chuẩn y” một chính phủ được lựa chọn theo một
phương pháp độc đoán nào đó. Chính phủ đó chỉ có thể được tấn phong sau một cuộc bỏ
thăm của dân chúng (trưng cầu ý dân) để chuẩn y sự lựa chọn đã được ấn định trước.
Trong chế độ này, một phương pháp có thể gọi là có một trình tự lựa chọn ngược với
phương pháp trên, đó là phương pháp “đầu phiếu giới thiệu”. Sự bỏ phiếu của cử tri có
mục đích đề nghị ra (lập danh sách ra) những ứng cử viên để cho một cơ quan không phải
do dân bầu lựa chọn.
Thứ ba, chế độ hỗn hợp do hiệp nhất, ở đây có một sự hòa đồng hoàn toàn giữa
những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán. Việc bổ nhiệm, lựa chọn những người
cầm quyền không thể là dân chủ thuần túy hay độc đoán thuần túy. Một mặt, phương
pháp ấy đi gần với chủ nghĩa tự do bởi vì những người cầm quyền được lựa chọn bởi
chính số ít những người cầm quyền khác. Mặt khác, nó xa biệt vói dân chủ và hướng tới
độc tài vì chỉ một số ít dân chúng được tham gia bầu cử. Phương pháp này là một phương
pháp mà những tính chất dân chủ và những tính chất độc đoán được hòa hợp làm một
theo một phương pháp đồng nhất. Chế độ cuối cùng này được thực hiện trong hầu hết các
nước tư bản trong thời kỳ trước và sau các cuộc cách mạng tư sản như là một chế độ giao
thời từ độc tài sang dân chủ. Bởi vì, chế độ dân chủ được phát triển, mở rộng theo thời
gian, ít khi có tình trạng đang hoàn toàn không có cuộc bầu cử dân chủ mà bước liền qua
giai đoạn phổ thông đầu phiếu. Thông thường, quyền bầu cử ban đầu chỉ trao cho một số
người có đặc quyền, rồi dần dần được lan rộng đến những người khác, sau mới ban hành
cho tất cả công dân.
1.2.2 Cơ cấu chính quyền:
Từ khi nhà nước xuất hiện, với tư cách là một tổ chức tập trung nhất của quyền lực
chính trị, nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội. Tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch
sử khác nhau, nhà nước có vai trò quản lý xã hội khác nhau, thậm chí trong cùng một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, có những nhà nước mở rộng vai trò quản lý xã hội của mình,
lại có những nhà nước thu hẹp phạm vi quản lý xã hội trong những lĩnh vực xác định. Ví
dụ, sau các cuộc cách mạng tư sản, nhà nước tư sản chỉ đóng vai trò là “người lính gác
đêm” cho sự phát triển của xã hội; ngược lại, trong nhận thức cũ về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nhà nước vừa là người quản lý mọi mặt cảu đời sống xã hội, vừa là một
tở chức “siêu kinh tế”.
Nhưng nhìn chung, theo sự phát triển của lịch sử, ở trên những phương diện khác
nhau, vai trò của nhà nước ngày càng được mở rộng và được đề cao. Đi đôi với sự gia
tăng vai trò của nhà nước là những chức năng mới và nhiệm vụ mới mà nhà nước phải
gánh vác, đảm nhận. Cùng với sự phát triển của xã hội thì chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước ngày càng nhiều thêm, cơ cấu tở chức của chúng cũng ngày càng đa dạng, phức tạp.
Để giải quyết những chức năng, nhiệm vụ đó đòi hỏi nhà nước phải có một bộ máy cai trị
tương xứng với chúng. Do vậy, trên phương diện tổ chức chính quyền, sự cấu tạo của
những cơ quan nhà nước trong Hiến pháp ngày càng được mở rộng và trở nên đa dạng,
phức tạp.
Cơ cấu tổ chức và mối liên hệ giữa những cơ quan nhà nước có quan hệ mật thiết
và được thể hiện trên hai phương diện: phương diện kĩ thuật và phương diện chính trị. Về
phương diện kĩ thuật, mỗi nhiệm vụ phải được phân phối làm sao cho chúng được hoàn
thành một cách tốt nhất và phải điều hòa được hoạt động của mỗi cơ quan cũng như của
cả hệ thống tổ chức nhằm bảo đảm sự nhất trí và liên kết giữa chúng. Về phương diện
chính trị, cơ cấu tổ chức nhà nước ảnh hưởng sâu rộng đến quyền hành mà nhà nước sử
dụng đối với công dân.
Dựa vào tính chất và cơ cấu của cơ quan nhà nước, người ta phân chia thành hai
loại cơ quan chính quyền cơ bản:
•
Thứ nhất, những cơ quan đại diện (nghị viện), tức là những cơ quan làm việc theo
chế độ tập thể, trong đó, về nguyen tắc từng cá nhân không có quyền hành gì.
• Thứ hai, những cơ quan gồn có một người hay một ủy ban gồm một số người, hay
do sự kết hợp của một người và một ủy ban. Người ta gọi loại cơ quan nàylà cơ
quan hành pháp hay chính phủ
Căn cứ vào sự cấu tạo chính phủ, người ta phân chia ra ba loại chính phủ - hành
pháp điển hình: chế độ nhất quyền, chế độ chấp chính, chế độ lưỡng quyền.
1.2.3 Cơ cấu nghị viện:
Sự cấu tạo của các nghị viện mang những điển hình rất phức tạp, chúng có thể sắp
xếp thành nhiều loại. Chúng ta chỉ đề cập đến những loại nghị viện có tính chất đặc
trưng, điển hình để giải thích nội dung các hình thức chính thể nhà nước.
Trước hết, theo tính chất và vai trò của nghị viện trong hoạt động của bộ máy nhà
nước, ta phân biệt nghị viện thành hai loại: những nghị viện chỉ có quyền “tư vấn” và
những nghị viện có quyền “nghị quyết”. Loại nghị viện thứ nhất chỉ có quyền phát biểu
các ý kiến, hay đưa ra những kiến nghị tư vấn cho hoạt động của chính phủ, mà chính
phủ có thể tự do bỏ qua những ý kiến, kiến nghị đó, trừ khi có uy tín và thẩm quyền mà
đưa ra những ý kiến có sức nặng khiến cho chính phủ vị nể không thể bỏ qua. Loại nghị
viện này xuất hiện vào thời kì đầu của sự hình thành chế độ nghị viện, và hiện nay nó vẫn
tồn tại ở một số nước kém phát triển và những nước quân chủ chuyên chế. Loại nghị viện
thứ hai mới thực sự có vai trò quan trọng trong hoạt động của nhà nước. Hoạt động của
chính phủ đều phải dựa trên cơ sở những quyết định của nghị viện, và chính phủ chỉ được
phép hoạt động cho đến khi có sự tín nhiệm của nghị viện.
Thứ hai, theo chính thể, chúng ta phân biệt thành ba mô hình nghị viện: nghị viện
của những nước theo chính thể đại nghị cả cộng hòa lẫn quân chủ; nghị viện của những
nước theo chính thể cộng hòa tổng thống; nghị viện của những nước theo hệ thống xã hội
chủ nghĩa.
- Thứ ba, theo nguồn gốc của sự hình thành nghị viện, ta phân biệt thành hai loại:
những nghị viện dân chủ (do dân bầu); và những nghị viện độc đoán (bổ nhiệm, tuyển
trạch, gia truyền,...). Theo lịch sử, những nghị viện độc đoán ra đời trước nhất và nó là
tiêu biểu cho thể lực của giai cấp phong kiến đối với nhà vua, mà thành phần của nghị
viện bao gồm những đại diện cho tầng lớp quý tộc, tăng lữ,... Tuy nhiên, cùng với thời
gian, sựphát triển của họ đã làm cho nhà vua phải dần dần nhượng bộ quyền lực của
chúng.
- Thứ tư, theo cơ cấu tổ chức, nghị viện được tổ chức thành các mô hình: một viện,
hai viện, ba viện,...
Trên đây là sự đề cập chung nhất đến các mô hình chính thể, như cơ cấu tổ chức, trình
tự thành lập, mối liên hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương, nguồn gốc của quyền lực
nhà nước và mức độ tham gia của nhân dân vào việc thành lập các cơ quan nhà nước. Sau
đây, chúng ta sẽ xem xét, đề cập tới một số mô hình chính thể đặc trưng, điển hình nhằm
mục đích xây dựng cơ sở lý luận về các mô hình chính thể phục vu cho công việc nghiên
cứu so sánh giữa các chính thể đó đối với chính thể nhà nước Việt Nam. Đó là các mô
hình chính thể: chính thể đại nghị cả quân chủ lẫn cộng hòa; chính thể cộng hòa tổng
thống; chính thể cộng hòa hỗn hợp; chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Sau đây, chúng
ta sẽ phân tích, nghiên cứu từng mô hình chính thể.
1.3. Phân Loại
Trình tự thành lập và mối quan hệ của chúng với nhân dân là thước đo thể hiện mức
độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này. Hiện nay, các nước trên thế
giới đi theo hai loại hình thức chính thể cơ bản, đó là: Chính thể Quân chủ và Chính thể
Cộng hoà. Cơ sở để phân chia là cách thức thành lập người đứng đầu Nhà nước. Cụ thể:
•
Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước tập trung toàn
bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu Nhà nước theo nguyên tắc thừa kế.
• Chính thể Cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước thuộc về một
cơ quan được bầu ra ( Nghị Viện hoặc nhân dân, hoặc Nghị Viện cùng với các chủ thể
khác bầu ) trong một thời gian nhất định.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa người đứng đầu Nhà nước, Nghị Viện và Chính Phủ thì
cả hai hình thức chính thể Cộng hoà và chính thể Quân chủ đều có những biến dạng của
mình. Cụ thể:
•
Chính thể Quân chủ được chia thành: Chính thể Quân chủ tuyệt đối và chính thể Quân
chủ hạn chế. ở hình thức Quân chủ hạn chế được chia thành: Quân chủ nhị nguyên và
Quân chủ đại nghị. Trong các nước Quân chủ tuyệt đối, người đứng đầu Nhà nước (vua;
hoàng đế...) có quyền lực vô hạn, Còn trong các nước Quân chủ hạn chế người đứng đầu
Nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó còn có một cơ quan quyền
•
lực khác nữa, như Nghị Viện trong các Nhà nước tư sản có chính thể quân chủ.
Chính thể Cộng hoà cũng có hai hình thức chính là: Cộng hoà Dân chủ và Cộng hoà Quý
tộc. Trong các nước Cộng hoà Dân chủ, quyền tham gia bầu cử để lập ra cơ quan đại diện
(quyền lực) của Nhà nước được quy định về mặt hình thức pháp lý đối với các tầng lớp
nhân dân lao động (mặc dù trên thực tế, các giai cấp thống trị của Nhà nước bóc lột
thường đặt ra nhiều quy định để hạn chế hoặc vô hiệu hoá quyền này của nhân dân lao
động). Trong các nước Cộng hoà Quý tộc, quyền đó chỉ quy định đối với tầng lớp quý
tộc.
1.4.
Hình thức chính thể quân chủ
1.4.1. Quân chủ tuyệt đối
Quân chủ tuyệt đối là hình thức tổ chức Nhà nước mà quyền lực Nhà nước nằm toàn
bộ trong tay Nhà Vua. Nhà Vua tự ban hành luật, trực tiếp lãnh đạo bộ máy hành chính và
là cấp xét xử cao nhất. Hiện nay, trên thế giới có Nhà nước Arập Xêut, Ôman vẫn còn tổ
chức Nhà nước theo hình thức chính thể hình này. Ở đó không có hiến pháp, không có
các cơ quan đại diện; kinh Cô ran được sử dụng như hiến pháp. Nhà Vua được xem như
người cha tinh thần. Vua và gia tộc đóng vai trò quyết định về các vấn đề hệ trọng của
Nhà nước kể cả việc quyết định việc thừa kế ngôi vua.
1.4.2. Quân chủ Lập Hiến
Quân chủ hạn chế được chia thành hai loại: Quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại
nghị.
Quân chủ đại nghị: ngày nay được thành lập ở các nước tư bản phát triển như: Anh,
Nhật Bản, Bỉ... Và ở một số nước đang phát triển như: Thái Lan, Campuchia...
Chính thể này phát triển theo nguyên tắc phân chia quyền lực, trong đó nguyên tắc
phân chia quyền tối cao của Nghị Viện trước quyền hành pháp được thừa nhận. Nguyên
tắc này đòi hỏi Chính Phủ do Quốc Vương thành lập phải nhận được sợ tín nhiệm của
Nghị Viện. Quốc Vương phải chỉ định người đứng đầu đảng chiếm đa số tuyệt đối số ghế
ở Nghị Viện (Hạ Nghị Viện) làm người đứng đầu Chính Phủ (Thủ Tướng). Thủ Tướng sẽ
lựa chọn các thành viên của Chính Phủ. Sau đó toàn thành viên của Chính Phủ được đưa
ra để Nghị Viện biểu quyết tín nhiệm. Sau khi được Nghị Viện tín nhiệm thì Quốc Vương
bổ nhiệm toàn bộ thành viên của Chính Phủ. Trường hợp, không đảng phái chính trị nào
chiếm được đa số ghế nói trên, Quốc Vương phải chỉ định người đứng đầu liên minh các
đảng phái chiếm được đa số ghế làm người đứng đầu Chính Phủ. Quốc Vương có quyền
phủ quyết đối với những luật do Nghị Viện thông qua. Các văn bản do Quốc Vương ban
hành đều được soạn thảo bởi Chính Phủ và văn bản chỉ có hiệu lực khi có chữ kí của Thủ
Tướng hoặc của Bộ Trưởng được Thủ Tướng uỷ quyền. Khi kí, Thủ Tướng hoặc Bộ
Trưởng phải chịu trách nhiệm về nội dung của văn bản, bản thân Quốc Vương không phải
chịu bất cứ trách nhiệm nào. ở chính thể Quân chủ đại nghị, Chính Phủ phải chịu trách
nhiệm trước Nghị Viện (Hạ Nghị Viện) về hoạt động của mình. Trường hợp, Nghị Viện
(Hạ Nghị Viện) biểu quyết không tín nhiệm Chính Phủ thì Chính Phủ phải từ chức hoặc
Quốc Vương cách chức toàn bộ thành viên của Chính Phủ. Tuy nhiên, Người đứng đầu
Chính Phủ có quyền yêu cầu Quốc Vương giải thể Hạ Nghị Viện và ấn định cuộc bầu cử
mới. Và cuối cùng mâu thuẫn giữa cơ quan lập pháp và hành pháp được dàn xếp bởi nhân
dân. Trong cuộc bầu cử trước thời hạn, nếu nhân dân ủng hộ Nghị Viện thì các đảng đối
lập sẽ chiếm đa số ghế trong Nghi Viện mới, khi đó Chính Phủ cũ phải từ chức, nếu nhân
dân ủng hộ Chính Phủ thì đảng cầm quyền (hoặc liên minh các đảng cầm quyền) sẽ tiếp
tục chiếm đa số ghế ở Nghị Viện.
Thứ hai, Quân chủ nhị nguyên: ở hình thức chính thể này nguyên tắc phân chia quyền
lực được áp dụng ở mức độ nhất định, tức là có sự phân chia giữa quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Quyền lập pháp trên danh nghĩa thuộc về Nghị Viện. Quyền hành pháp
thuộc Nhà Vua, Nhà Vua có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Chính Phủ
do Nhà Vua thành lập. Quyền tư pháp chịu ảnh hưởng của Nhà Vua. Mặc dù trên danh
nghĩa Nhà Vua không có quyền lập pháp nhưng Nhà Vua có thể tác động trực tiếp đến
quá trình lập pháp thông qua quyền phủ quyết tuyệt đối của mình. Nhà Vua có quyền giải
thể Nghị Viện.
Ví dụ: Nhà nước Gioócdani, Nhà nước Marốc theo chính thể Quân chủ nhị nguyên.
1.5.
Hình thức thể chế cộng hòa
1.5.1. Cộng hòa Tổng Thống
Hình thức chính thể Cộng hoà Tổng Thống là hình thức tổ chức Nhà nước mà ở đó
Tổng Thống và là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp do nhân
dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Chế độ bầu cử trực tiếp được áp dụng ở Mêhycô,
Philippin, ... Chế độ bầu cử gián tiếp được áp dụng ở: Mỹ, Achentina. Các nước này,
không có Chính Phủ theo đúng nghĩa mà chỉ có các Bộ Trưởng do Tổng Thống bổ nhiệm
và chịu trách nhiệm trước Tổng Thống. Người ta gọi đây là Chính Phủ một đầu. ở những
nước này áp dụng triệt để học thuyết phân chia quyền lực Nhà nước một cách tuyệt đối,
hay còn gọi là cách phân quyền cứng rắn và tăng quyền lực của cá nhân Tổng Thống.
Đặc điểm quan trọng của hình thức chính thể này là cơ quan hành pháp không phải
chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cơ quan lập pháp. Nghĩa là, Nghị Viện
không có quyền đặt vấn đề không tín nhiệm Tổng Thống hoặc Bộ Trưởng; Tổng Thống
có quyền cách chức các Bộ Trưởng theo chính kiến của mình. Mặt khác, Tổng Thống
không có quyền giải thể Nghị Viện. Tổng Thống không có quyền lập pháp nhưng có thể
tác động đến quá trình lập pháp thông qua quyền phủ quyết của mình. Bằng quyền phủ
quyết, Tổng Thống có thể ngăn cản quá trình lập pháp hoặc kéo dài quá trình lập pháp
của Nghị Viện. Để vượt qua quyền phủ quyết của Tổng Thống đòi hỏi Nghị Viện phải có
sự đoàn kết cao (2/3 tổng số thành viên của Nghị Viện bỏ phiếu tán thành). Tổng Thống
chịu trách nhiệm về việc thi hành luật. Nghị Viện không có quyền can thiệp vào lĩnh vực
hành pháp của Tổng Thống nhưng có thể tác động đến hoạt động này thông qua quyền
biểu quyết ngân sách để cấp kinh phí cho mọi hoạt động cuả bộ máy hành pháp. Nghị
Viện có quyền bãi bỏ quyền Tổng Thống, phó Tổng Thống, các quan chức cao cấp trong
bộ máy hành pháp và thẩm phán toà án liên bang theo thủ tục đàn Hạch.Thượng Nghị
Viện có quyền không phê chuẩn việc bổ nhiệm các nhân viên trong bộ máy hành pháp,
thẩm phán toà án liên bang của Tổng Thống. Vì vậy, trước khi bổ nhiệm một cức danh
nào Tổng Thống phải thăm dò ý kiến của Thượng Nghị Viện về ứng cử viên cho chức đó.
Tổng Thống thay mặt Nhà nước ký kết các điều ước quốc tế nhưng các điều ước này chỉ
có hiệu lực khi được Nghị Viện phê chuẩn. Toà án đóng vai trò là cơ quan giám sát tính
hợp hiến các văn bản do Nghị Viện, Tổng Thống thông qua. Toà án tối cao liên bang có
quyền phán quyết về tính hợp hiến của văn bản này. Quyết định của toà án là quyết định
cuối cùng.
Nói tóm lại, Nguyên thủ quốc gia ở chính thể này có nhiều quyền lực trong việc lãnh
đạo quốc gia, lãnh đạo lực lượng vũ trang, bộ máy hành chính dân sự. Ngoài ra, Tổng
thống còn can thiệp sâu vào hoạt động lập pháp của Nghị Viện.
ở những nước đang phát triển, loại hình tổ chức Nhà nước theo chính thể Cộng hoà
Tổng Thống được áp dụng hết sức phổ biến so với các loại hình chính thể khác. Ví dụ: ở
các nước Môdămbich, Mađagaxca, Srilanka...
1.5.2. Cộng hòa đại nghị
Chính thể Cộng hoà đại nghị là chính thể được tổ chức ở những Nhà nước có Nguyên
thủ quốc gia do Nghị Viện bầu ra hoặc được bầu ra dựa trên cơ sở Nghị Viện. Chính Phủ
do Thủ Tướng đứng đầu phải chịu trách nhiệm trước Nguyên thủ quốc gia, Nghị Viện. ở
chính thể này, quyền lực của Tổng Thống bị suy giảm, quyền lực rộng lớn của Tổng
Thống được thực hiện bởi Chính Phủ, đứng đầu là Thủ Tướng chính phủ. Chính Phủ hoạt
động dựa vào sự tín nhiệm của đa số thành viên của Nghị Viện.
Đa số các nước có chính thể Cộng hoà đại nghị là Chính Phủ liên minh, tức là được
thành lập trên cơ sỏ liên minh giữa các đảng có ghế ở Nghị Viện, bởi vậy thường không
ổn định. Ở chính thể này, Chính Phủ có quyền yêu cầu Tổng Thống giải thể Nghị Viện. Ở
các nước đang phát triển, tổ chức Nhà nước rất hiếm trường hợp áp dụng theo mô hình
Cộng hoà đại nghị. Ví dụ: ở Ấn Độ, Pakixtan, Angiêri là những nước theo chính thể Cộng
hoà đại nghị.
1.5.3. Cộng hòa Lưỡng Tính
Hình thức chính thể Cộng hoà lưỡng tính là sự kết hợp giữa hình thức chính thể
Cộng hoà Tổng Thống và Cộng hoà đại nghị. Ở các nước có chính thể Cộng hoà lưỡng
tính, Tổng Thống và Nghị Viện (Hạ Nghị Viện) do nhân dân bầu ra, Tổng Thống nắm
quyền hành pháp. ở các nước theo chính thể này, có Chính Phủ theo nghĩa hiện hành (là
cơ quan tập thể). Chính Phủ do Tổng Thống bổ nhiệm nhưng Chính Phủ cần sự tín nhiệm
của Nghị Viện. Tổng Thống có quyền giải thể Nghị Viện không phụ thuộc vào đề nghị
của Chính Phủ.
Ví dụ: ở các nước Pháp, Liên Bang Nga tổ chức Nhà nước theo chính thể Cộng hoà
lưõng tính.
1.5.4. Cộng hòa Xô Viết
Hình thức chính thể Cộng hoà xô viết có những đặc điểm cơ bản sau: Mô hình bộ máy
Nhà nước được xây dựng theo nguyên tắc tập quyền, tập trung dân chủ; Quốc hội là cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Quốc hội có quyền thông qua luật, thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác, quyết định các
chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, Quốc hội bầu ra người đứng đầu Nhà nước- Chủ
tịch nước. Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, tức là Quốc hội có quyền
bãi nhiệm Chủ tịch nước.Chủ tịch nước không có quyền giải thể Quốc hội; Quốc hội
thành lập ra Chính Phủ dựa trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch nước; Chính Phủ phải chịu
trách nhiệm về hoạt động của mình trước Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội không có
quyền đặt vấn đề bãi nhiệm Chính Phủ mà chỉ biểu quyết trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch
nước đối với Thủ Tướng chính phủ; và trên cơ sở đề nghị của Thủ Tướng đối với các
thành viên khác trong Chính Phủ.
Ở chính thể Cộng hoà xô viết, Chính Phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính
Phủ phải thực hiện những quyết định của Quốc hội, phải thi hành những luật đã được
Quốc hội thông qua. Quốc hội có quyền trực tiếp bãi bỏ các văn bản do Chính Phủ ban
hành khi xét thấy những văn bản này trái với Hiến pháp, Luật mà không cần thông qua cơ
quan thứ ba (Toà án hiến pháp). Chính Phủ không có quyền đề nghị xem xét tính hợp
hiến của các văn bản do Quốc hội thông qua. Thông thường, mỗi năm Quốc hội họp hai
kì, mỗi kỳ họp kéo dài một tháng.
Bởi vậy, Quốc hội lập ra một cơ quan thường trực có tên gọi là Uỷ ban thường vụ
Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước để thực hiện một số quyền hạn của Quốc hội trong
thời gian giữa hai kỳ họp.
Một đặc điểm quan trọng của hình thức chính thể này hiện nay ở vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản đối với Nhà nước và xã hội nói chung, đối với bộ máy Nhà nước nói
riêng.
Ví dụ: các nước theo hình thức chính thể Cộng hoà xô viết như: Việt Nam, Lào, Trung
Quốc, Triều Tiên, ...
Ngoài bốn hình thức chính thể Cộng hoà nêu trên, chính thể Cộng hoà còn có biến
dạng khác; Các biến dạng này thường gặp ở những nước có chế độ độc tài và chế độ này
thường được lập bởi cuộc đảo chính quân sự. Ví dụ: ở Đức (từ năm 1933 đến năm 1945),
ở Chilê (từ cuối 1970 đến cuối 1980).
1.6. Chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Hình thức chính thể của các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là cộng hòa dân chủ.
Tuy nhiên, do điều kiện, hoàn cảnh của các quốc gia vào từng giai đoạn lịch sử nhất định,
chúng được thể hiện dưới những mô hình (hình thức ) khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ lần
lượt đề cập đến ba hình thức khác nhau của nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính đặc
trưng điển hình. Đó là, hình thức Công xã Pari, hình thức cộng hòa Xô Viết, hính thức
nhà nước dân chủ nhân dân.
Công xã Paris, đây là nhà nước mô hình chuyên chính vô sàn đầu tiên trên thế
giới. Về vai trò của công xã Paris, C.Mác đã viết: “về thực chất, nó là một chính phủ của
giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp của những người sản xuất
chống lại giai cấp chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có
thể thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”.
Hình thức tổ chức nhà nước công xã Paris có một số đặc điểm sau:
Sau khi giành chính quyền từ tay quân đội chính phủ Thiers, Công xã Paris đã xóa
bỏ chế độ đại nghị thành lập nên các cơ quan đại diện mới gọi là Hội đồng công xã. Hội
đồng công xã là cơ quan quyền lực cao nhất, mà thành phần chủ yếu của nó là các ủy
viên xuất thân từ giai cấp công nhân do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ
thông đấu phiếu. Các ủy viên này có thể bị bãi miễn nếu họ không còn uy tín hoặc họ
không hoàn thành được nhiệm vụ.
Công xã Paris xây dựng một Nhà nước mới của giai cấp công nhân. Công xã đã
xác lập các nguyên tắc mới về tổ chức bộ máy nhà nước của giai cấp công nhân. Tuy
nhiên, do bộ máy nhà nước mới đang được hình thành nên việc phân định thẩm quyền
giữa các cơ quan nhà nước chưa được phân định rõ ràng, cụ thể. Nhà nước mới đã tiến
hành xóa bỏ quân đội và cảnh sát, thay thế vào đó là lực lượng nhân dân đã vũ trang và
lực lượng an ninh mới, giải tán tòa án và viện công tố để thành lập tòa án và viền công tố
mới.
Công xã Paris đã thiết lập một chế độ dân chủ mới, trong đó đề ra nhiều biện pháp
bảo vệ lợi ích của người lao động và tạo điều kiện cho nhân dân lao động tham gia vào
công việc của nhà nước như tham gia vào việc thành lập các cơ quan chính quyền, được
ứng cử và bầu cử nhà nước, được thanm gia quản lí các xí nghiệp… Đồng thời Công xã
Paris thực hiện nhiều biện pháp chuyên chính đối với những phần tử bóc lột những phần
tử phản cách mangh như: thành lập các tòa án đặc biệt để xét các phần tử chống đối cách
mạng, cấm cúp lương đối với người lao động…
Cộng hòa Xô Viết, là hình thức cộng hòa nhà nước Liên bang. Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô Viết áp dụng để tổ chức và thực hiện chính quyền của giai cấp vô sản sau
khi giành được chính quyền. Cộng hòa Xô Viết là mô hình tổ chức nhà nước, ở đó không
áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực mà áp dingj nguyên tắc tập quyền. Tất cả quyền
lực nhà nước tập trung vào tay nhân dân thông qua các Xô Viết của công – nông – binh
do nhân dân, nông dân và binh sĩ bầu ra. Tất cả quyền lực nhà nươc đều tập trung vào tay
Xô Viết, bao gồm quyền lập pháp và hành pháp. Xô Viết tối cao và Xô Viết địa phương
thành lập ra các ủy ban cháp hành. Ủy ban chấp hành chỉ là những cơ quan thừa hành của
Xô Viết và phải chịu trách nhiệm trước Xô Viết.
Các Xô Viết là các tổ chức quyền lực của quần chúng thể hiện ý chí và nguyện
vọng của họ. Trong tổ chức và hoạt động của mình. Xô Viết thể hiện được các đặc điểm
của quản lí nhà nước và vai trò tự quản của nhân dân.
Các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của nguyên tăc tập
trung dân chủ. Cách thức tổ chức của các Xô Viết thể hiện: tất cả các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương điếu thành lập trên cơ sở bầu cử; các cơ quan này trực thuộc
và phải báo cáo trước nhân dân, các quyết định của các cơ quan cấp trên có hiệu lực bắt
buộc đối với các cơ quan cấp dưới; kết hợp sự lãnh đạo tập trung với sáng kiến và hoạt
động sáng tạo ở cơ sở; thực hiện chế độ trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và cá
nhân đối với các công việc được giao.
Nhà nước Cộng hòa Xô Viết được xây dựng trên cơ sở sự lãnh đạo của một đảng
duy nhất (Đảng cộng sản) mà không có sự thỏa hiệp giữa các đảng phái chính trị trong
việc tham gia chính quyền. Nhà nước thể hiện sự giai cấp công khai và không khoan
nhượng. Đối với các phần tử chống đối bóc lột, không những bị tước quyền bầu cử mà
còn bị tước những quyền dân sự và chính trị khác.
Nhà nước dân chủ nhân dân, hình thức nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân ra đời
sau chiến tranh thế giới thứ II. Các nhà nước xã hội chủ nghĩa này là thành quả của quá
trình cách mạng không ngừng: từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ chính quyền chuyên
chính công nông chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
Trong nhà nước dân chủ nhân dân đã thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn so với
chế độ dân chủ trong hình thức nhà nước Xô Viết. Tham gia vào chính quyền nhà nước
không chỉ có đại diện của giai cấp công nhân, nông dân và binh lính mà còn có đại diện
của các tầng lớp và các cá nhân yêu nước. Biểu hiện cụ thể là trong các nước đều thực
hiện nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kính, chỉ có những
phần tử chống đối mới không có được quyền này.
Trong các nước đều tồn tại hình thức tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc là cơ sở
chính trị - xã hội của nhà nước trong đó bao gồm nhiều đảng phái, nhiều lực lương xã hội
khác nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Chương 2: HÌNH THỨC CHÍNH THỂ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
2.1.
Hình thức chính thể Quân chủ lập hiến ở Anh.
Nước Anh là một điển hình về chính thể quân chủ lập hiến. Điều đó được thể hiện qua
cách tổ chức, quyền hạn và mối quan hệ qiữa Nhà vua - Chính phủ và Nghị viện Anh. Nữ
hoàng Anh là một chức danh rất quan trọng nhưng mang tính hình thức. Nữ hoàng Anh
tượng trưng cho sự thống nhất và vững bền của dân tộc. Nữ hoàng là Nguyên thủ quốc
gia, người thay mặt quốc gia và các đảng phái, là người lãnh đạo nhà thờ Anh.
Về mặt hình thức, Nữ hoàng Anh có rất nhiều quyền hạn như: phê chuẩn các đạo luật,
bổ nhiệm công chức dân sự, quân sự, ký hiệp ước, ban hành luật,...Song trên thực tế, hoạt
động của Nữ hoàng Anh chỉ nhằm mục đích chính thức hoá về mặt Nhà nước các hoạt
động của Nghị viện và Chính phủ. Chẳng hạn, Nữ hoàng có thể bổ nhiệm Thủ tướng
nhưng phải bổ nhiệm lãnh tụ của đảng chiếm đa số trong Nghị viện chứ không thể theo ý
kiến riêng của mình. Cũng là mang tính hình thức, Nữ hoàng có thể không chấp thuận
giải tán Nghị viện nhưng Nữ hoàng chưa bao giờ làm vậy.
Hiện tại mọi hoạt động của Nữ hoàng đều có sự bảo đảm từ phía cơ quan hành pháp
vì mọi quyền hành của Nữ hoàng đều trao cho nội các. Với quan niệm " vua không thể
làm điều gì không hay" nên Nữ hoàng được quyền "vô trách nhiệm" không thể bị phạt về
mặt hình sự vì trọng tội hay khinh tội. Với tập tục "Nhà vua trị vì nhưng không cai trị"
Nhà vua Anh đã chuyển dần từ chỗ có uy quyền tuyệt đối tới chỗ có tính chất trung lập.
Trong lĩnh vực chính trị, trừ sự lựa chọn Thủ tướng, Nhà vua chỉ quyết định sau khi đã
hỏi ý kiến của các vị Bộ trưởng được Hạ nghị viện tín nhiệm.Mọi hoạt động của Nhà vua
đều được sự đảm bảo của Chính phủ. Nghị viện Anh có Thượng nghị viện (hay Quý tộc
viện) và Hạ nghị viện (hay Viện dân biểu).
Hiện nay, Thượng nghị viện có 1185 người, theo chế độ cha truyền con nối hoặc suốt
đời (trong đó bao gồm vả hai tổng giám mục và 24 giám mục của Nhà thờ Anh). Các
Thượng nghị sĩ Anh đa số là cha truyền con nối (chẳng hạn các vị quý tộc có phẩm hàm
bá tước trở lên) còn các vị có phẩm hàm từ bá tước trở xuống thì sẽ đảm nhiệm chức vụ
Thượng nghị sĩ suốt đời. Bên cạnh đó, trong Thượng nghị viện còn có các vị cựu Thủ
tướng và các quan chức đã từng giữ chức vụ cao trong trường chính trị, kinh tế hoặc xã
hội được đích thân Nhà vua bổ nhiệm.
Hạ nghị viện Anh gồm có 653 ghế, mỗi ghế đại diện cho một khu vực bầu cử với
nhiệm kỳ 5 năm. Trung tâm quyền lực của Nghị viện tập trung ở Hạ nghị viện nên hiện
tại Hạ nghị viện mới có quyền lực thực sự. Hạ nghị iện do dân chúng bầu nên được gọi là
Quốc hội của nước Anh.
Hoạt động của Thượng nghị viện mang tính hình thức, vai trò của nó hoàn toàn bị lu
mờ trước Hạ nghị viện. Nghị viện Anh có cơ quan thường trực là văn phòng Nghị viện,
gồm có: Chủ tịch, phó Chủ tịch; Họ thường là đảng viên của đảng chiếm đa số ghế trong
Nghị viện. Chức năng chủ yếu là điều khiển các kỳ họp của Nghị viện và giải thích quy
chế Nghị viện.
Ngoài ra, Hạ nghị viện Anh còn có các Uỷ ban như: Uỷ ban toàn viện (bao gồm toàn
bộ các Hạ nghị sĩ); Uỷ ban xét các dự luật riêng,...
Thẩm quyền của Nghị viện Anh được thể hiện trong khá nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn,
từ sau cách mạng 1688 trở lại đây Nghị viện có toàn quyền lập pháp.
Trong lĩnh vực ngân sách tài chính, Nghị viện Anh có quyền phê chuẩn việc mở các
khoản thu thuế, thông qua ngân sách, thanh tra ngân sách, ...
Về đối ngoại, phòng thủ quốc gia, Nghị viện có quyền quyết định số phận chung của
cộng đồng, có quyền thay mặt cộng đồng đặt mối quan hệ ngoại giao với các quốc gia
khác, phê chuẩn các điều ước đã được ký kết, ...
Trong lĩnh vực xét xử, trước đây Nghị viện có quyền luận tội các quan chức cao cấp
của Nhà nước, từ Bộ trưởng cho đén Thủ tướng, thủ tục xét xử này được gọi là thủ tục
đàn Hạch. Toà án có quyền xét xử Bộ trưởng chính là Thượng nghị viện, còn cơ quan
đứng lên truy tố và buộc tội là Hạ nghị viện. Đó chính là trách nhiệm cá nhân về hình sự
của các Bộ trưởng, Ngày nay, chế độ trách nhiệm này đã chuyển thành chế độ trách
nhiệm chính trị liên đới của nội các trước Hạ nghị viện. Có nghĩa là, nếu Hạ nghị viện
không tín nhiệm Chính phủ thì Chính phủ bị lật đổ.
Nghị viện Anh còn có quyền giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp. ở Anh, nội
các phải chịu trách nhiệm chính trị liên đới trước Nghị viện, bộ máy hành pháp phải chịu
trách nhiệm trước cơ quan lập pháp. Bởi vậy, Chính phủ sẽ được tiếp tục hoạt động khi
vẫn có sự tín nhiệm của Quốc hội. Trong trường hợp, mất sự tín nhiệm của Quốc hội thì
Chính phủ bị lật đổ hoặc buộc phải thay đổi thành phần. Để giám sát Chính phủ, Nghị
viện có thể chất vấn Chính phủ hoặc giám sát thông qua các cuộc thảo luận về dự án luật,
dự án ngân sách, ...
Ở Anh, Chính phủ là cơ quan đứng đầu bộ máy hành pháp. Là người đứng đầu Nhà
nước, Nữ hoàng Anh bổ nhiệm Thủ tướng. Nhưng trong thực tế, Thủ tướng được bổ
nhiệm là thủ lĩnh đảng cầm quyền, đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện chứ không
thể ai khác. Quyền hạn này thuộc về tập tục hiến pháp không thành văn của Anh. Như
vậy, qua cuộc bầu cử trực tiếp Hạ nghị viện, nhân dân Anh dã trực tiếp lựa chọn cho mình
một người đứng đầu bộ máy hành pháp. Vì thế, Thủ tướng Anh có nhiều quyền lực trên