Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Quê hương. gia đình ảnh hưởng đến cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng hồ chí minh doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.48 KB, 29 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc tìm hiểu sâu sắc vững chắc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí
Minh là một cơ sở khoa học quan trọng để tập hợp và quán triệt tư tưởng của
Người như Đại hội VII (1996) và Đại hội IX (2001) đã khẳng định: "Đảng lấy
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động". Bởi vì không hiểu chính xác, đầy đủ về cuộc đời và hoạt
động của chủ tịch Hồ Chí Minh từ thuở thiếu thời đến lúc phải "từ biệt thế giới
này" thì các thế hệ mới đời sau không thể nuôi dưỡng được tình cảm, lòng biết ơn
sâu sắc và lòng tin quyết tâm đi theo con đường mà Người đã lựa chọn. Đảng ta
đã khẳng định và nhân dân ta kiên trì đấu tranh gian khổ, anh dũng để thực hiện
thắng lợi như ngày hôm nay.
Sự ra đời của một con người bình thường hay một vĩ nhân phụ thuộc
không ít vào điều kiện tự nhiên - xã hội mà họ sinh sống: "Con người là tổng hòa
các mối quan hệ". Vì vậy, khi tìm hiểu cuộc đời, sư nghiệp, tư tưởng Hồ Chí
Minh chúng ta không thể không tìm hiểu về quê hương, gia đình... của Người. Do
đó, tôi chọn đề tài: "Quê hương, gia đình ảnh hưởng đến cuộc đời, sự nghiệp, tư
tưởng Hồ Chí Minh".
2. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
Nhiệm vụ: Tìm hiểu đặc điểm, truyền thống quê hương, gia đình Chủ tịch
Hồ Chí Minh: xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (Nghệ Tĩnh), chỉ ra
cho được truyền thống, gia đình nào của Chủ tịch Hồ Chí Minh ảnh hưởng đến
cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Người; ví dụ: truyền thống yêu nước, giàu đức
hy sinh của quê hương, gia đình đã hình thành lòng yêu nước, đức hy sinh ở
Người. Suốt cuộc đời hai yếu tố này đi liền với nhau và được người nâng lên một
tầm cao mới: Yêu nước là cứu dân nhưng Người không chỉ mong muốn đem lại
hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam mà còn mong muốn
điều này sẽ đến với tất cả các dân tộc khác trên thế giới... chính điều này, làm nên
tên tuổi Hồ Chí Minh.



Mục đích: Qua việc tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu truyền thống quê
hương gia đình cho người đọc thấy được chính truyền thống quê hương gia đình
đã trang bị cho Bác vốn kiến thức uyên thâm, đặc biệt là vốn văn hóa phương
Đông khá vững vàng, tạo cho Bác đủ bản lĩnh để phê phán, chọn lọc, tiếp cận với
chân lý. Nhờ truyền thống dân tộc mà ở thời đại đó, Bác đã đạt tới đỉnh cao trí tuệ
thời đại - Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hơn nữa,
góp phần rất lớn vào việc giải phóng các dân tộc thuộc địa, dẫn đến giải phóng
con người thoát khỏi áp bức bốc lột trên toàn thế giới.
3. Lịch sử nghiên cứu
Sau khi Đại hội đại biểu quốc lần thứ VII (1991), kết thúc có Nghị quyết
01 của Bộ chính trị năm 1992 về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay đã
khẳng định một bước tiến mới trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
đó, có đoạn viết cần nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh thì có không ít công trình khoa học nghiên cứu vế Hồ Chí Minh. Tiêu
biểu cuốn "Hồ Chí Minh tiểu sử" - Giáo sư Song Thành chủ biên - Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - nhà xuất bản lý luận chính trị, xuất bản lần đầu
tiên năm 1996, cùng tác giả có cuốn "Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc" - nhà
xuất bản lý luận chính trị và giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ giáo dục và
đào tạo...
Những tài liệu viết về Hồ Chí Minh khá nhiều, tuy nhiên tôi chưa thấy tài
liệu nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống, trọn vẹn về qưê hương, gia đình
Hồ Chí Minh ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của
Người; ngoại trừ những buổi thảo luận quốc tế về Hồ Chí Minh có đề cập đến
quê hương, gia đình nhưng không phân tích kỹ. Hiện tại có một số tài liệu sau có
đề cập đến quê hương, gia đình Hồ Chí Minh; mặc dầu vậy, ảnh hưởng của quê
hương, gia đình đến cuộc đời sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa nhiều, chưa
đầy đủ: "Bác với quê hương Nghệ Tĩnh"; "Những người gia thân trong gia đình
Bác" - Trần Minh Siêu biên soạn - nhà xuất bản Nghệ An, năm 2001; "Cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc - Nguyễn Đắc Điền (chủ biên) - khu di tích Nguyễn Sinh
Sắc, năm 1994".



4. Nội dung nghiên cứu và cái mới của đề tài
Nội dung: Bài viết gồm 3 nội dung chính:
- I. Quê hương ảnh hưởng đến cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- II. Gia đình ảnh hưởng đến cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- III.Ảnh hưởng của truyền thống quê hương, gia đình đến cuộc đời, sự nghiệp, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Cái mới của đề tài:
Chỉ ra được ở Hồ Chí Minh, những nét chung và riêng của đất nước, quê
hương, gia đình...quyện chặt vào nhau tạo nên một con người, một cuộc đời, sự
nghiệp, tư tưởng không chỉ gắn liền với lịch sử, dân tộc, nhân loại mà "còn thể
hiện một nền văn hóa tương lai"
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này sử dụng các biện pháp sau:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp logic
- Phương pháp lịch sử cụ thể


B. NỌI DUNG
I. Đặc điểm và truyền thống quê hương:
1. Đặc điểm quê hương:
a. Thiên nhiên khắc nghiệt:
Nam Đàn và thung lũng hạ lưu sông Lam, vốn xưa là vùng cửa sông Lam
hình thành dần lục giác châu Nam- Hưng- Nghi- Đức- Can- Xuân. Khi tìm hiểu
về con sông Cấm (Nghi Lộc), thấy dòng chảy của nó kéo dài đến làng Thịnh Lạc
(Nam Đàn) chảy qua các vùng Bầu Nón, Nam Các, Hưng Thái. Như vậy, Nam
Đàn là vùng sông nước lầy lội, có bão lụt, những cơn gió xoáy mạnh tạo thành

những "độc lôi" lớn. Có khi tung cả đoàn thuyền đoàn xe lửa dài bắn cách xa
hàng 300, 400 mét. Đồng nước mênh mông những cơn nước lớn thường làm vỡ
đê. Mặt khác, thường có những cơn gió Lào, một loại gió khô nóng thổi vào mùa
hạ, làm cho đất nứt nẻ, cỏ cây khô cháy, người và xác vật ngạt thở...
Điều kiện sông nước như vậy nên đã tạo ra một cộng đồng dân cư định cư
dần và gồm nhiều nơi đến (những gia phả nhiều họ đã nói lên điều đó).Mang
nhiều tinh hoa khác nhau đồng thời có một cuộc sống thường xưyên phải đấu
tranh với thiên nhiên, nghề chài khó làm ăn, nghề phụ lúc đầu phát triển không
thuận lợi, tình hình đó mang lại cuộc sống dân cư thường xuyên nghèo khổ, tinh
thần chiến đấu chống thiên nhiên. Và giai cấp bóc lột ngày càng cao mới duy trì
được cuộc sống. Phải chăng, chính vì thế cư dân ở đây, từ thế hệ này sang thế hệ
khác đã tôi luyện được một tính cách đặc biệt khác thường đã sản sinh ra được
những nhân vật lịch sử kiệt xuất để lại những chiến công hiển hách trong lịch sử
hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Ngay khi Bác Hồ sinh ra và lớn lên, cuộc
sống sông nước vẫn còn đậm nét: Nghề mò cua bắt ốc, nghề làm hom giỏ, nghề
chài lưới, trồng dâu, dệt vải với làn điệu và lời dân ca đậm đà tình sông nước.


Vùng sông nước Nam Đàn nói trên vừa cho tuổi thơ Hồ Chủ Tịch một cơ
sở tình cảm đẹp, đồng thời tạo thêm cho tuổi trẻ của Người, gia đình của Người,
xóm làng của Người, tinh thần đấu tranh, lòng tin vào sức mạnh của chính mình.
b. Quê hương đói nghèo:
Hoàn cảnh thiên nhiên ấy không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống, tính
cách và tinh thần con người ở đây. Dân làng Kim Liên sống cơ cực đói khổ. Họ
đói khổ không chỉ do thời tiết khắc nghiệt không làm nghề nông được mà còn do
ruộng đất cày cấy không đủ, bình quân mỗi đầu người là ba sào và hầu hết tập
trung trong tay những gia đình giàu có, những cố nông tá điền chiếm số đông dân
cư. Số đông họ đói rách thiếu quần, thiếu áo nên quanh năm chỉ phong phanh
quần đùi. Do đó nhân dân lao động vùng lân cận thường gọi làng Sen với cái tên
không thi vị "làng khố rách áo ôm".

" Làng Sen đóng khố thay quần
ít cơm nhiều cháo tảo tần quanh năm”.
Vì thế, khi nói đến quê hương Nghệ Tĩnh người ta thường nghĩ đến những
con người cần cù, nhẫn nại, gan góc để làm ra hạt lúa củ khoai. Họ thường nhắc
nhở nhau rằng:
"Muốn ăn thì phải chăm làm
Một hạt thóc vàng chín hạt mồ hôi".
Con người trong hoàn cảnh đó phải chung lưng đấu cật, yêu thương nhau
hơn, sống chung thuỷ với nhau hơn. Tình người lấy đạo lý kính trên nhường dưới
làm trọng. Người ta lấy ý chí nghị lực như một thứ tôn giáo để vươn tới hoàn
thiện mình. Đặc biệt quyết hướng tới chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ, sự học như một
cái nghề, quan tâm lo lắng,hãnh diện tự hào từ sự thành đạt của nghề đề sách.
Vậy phải chăng hễ nghèo là học giỏi, đỗ đạt. Theo tôi nghèo là động lực để
ta học - học để thoát cảnh nghèo đói. Tuy nhiên không phải ai - hễ nghèo điều
học giỏi hết, là một cậu bé mẫn cảm vì thế ngay từ nhỏ một mặt cậu tiếp nhận lối
sống đầy tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau: " quê hương nghĩa nặng
tình sâu". Quê hương luôn là hình ảnh, là nỗi nhớ của Bác khi xa quê.
c. Miền quê nhiều cảnh sắc có nền văn hoá dân gian đậm đà.


"Bên cạnh những di tích vô giá về Bác Hồ, ở Nghệ An còn không ít di tích
lịch sử khác. “Nghệ An phải trở thành điểm đến du lịch lịch sử vào loại đệ nhất
giang sơn” (Phó Thủ tướng Vũ Khoan phát biểu tại lễ công bố năm du lịch Nghệ
An ở thành phố Vinh ngày 24/2/2005). Nam Đàn chính là huyện có nhiều danh
thắng nổi tiếng, nơi chung đúc nhiều tú khí, nơi sinh ra nhiều nhân tài tuấn kiệt
làm nên nhiều kì tích kì vĩ. Những kỳ tích của các vĩ nhân đã làm lung linh, linh
thiêng cho các thắng cảnh, danh lam đi sâu vào lòng dân bao thế hệ, là niềm tự
hào, là sức mạnh vô hình lớn lao và có sức lay động lan toả đến vô cùng. Đất
Kim Liên được truyền tụng là:
"Đám thuỷ liên hoa chung tú khí

Phượng thư bảng hổ dậy danh thơm"
(Hoa nở bào sen đầy khí tốt
Chiếu vua bảng hổ dậy danh thơm).
Bên cạnh cái đẹp của thiên nhiên, con người cũng tạo ra một vùng văn hoá
phong phú, giàu bản sắc . Với đôi tay cần cù và đầy tài hoa, với tình cảm dạt dào
mà sâu lắng, với với trí tuệ thông minh và nhiều lúc được thăng hoa, núi trồng
đầy thông reo, bào thả đầy sen thơm, trên núi được con người điểm tô đền thiêng,
chùa đẹp, nhà thánh uy nghi, dân Kim Liên tự hào:
" Nhất vui là cảnh quê mình
Kim Liên sen tốt, Ngọc Đình chuông kêu"
hay
" Nhất vui là cảnh chợ Cầu,
Trong đền Thánh Cả, ngoài lầu gác chuông"
hay
" Nhất vui là cảnh Kim Liên
Cảnh tiên có cảnh, người tiên có người".
Làng Kim Liên nổi tiếng là có nhiều ao, ao nào cũng dày đặc một lớp bèo
xanh thẳm. Trong ao, những búp trắng, búp hồng của vương quốc đây đó vươn
thẳng lên mặt nước. Vì thế, làng này có tên gọi là làng Kim Liên, tức làng sen.
Ao co nhiều cá, sáng sáng cậu bé Thành rất thích xem dân làng thả lưới đánh cá,


và nhiều khi chính cậu cũng cùng với bọn trẻ trong làng ngồi trên bờ câu cá với
chiếc cần câu tự làm lấy.Trong ao, những con trâu kềnh càng dầm mình tránh
nắng và tránh đàn ruồi trâu hung dữ, chỉ thò cái mõm đen và cặp mắt thông minh
nổi lên mặt nước. Nước giếng Cóc trước nhà Bác ngọt, cả mấy làng xã đến lấy
làm tương, nấu nước pha trà rất thơm.
Về sinh hoạt tinh thần, vùng quê Bác có nét đậm đà bản sắc riêng. Nổi bật
nhất là những đêm hát phường vải mà quê hương của nó là làng Kim Liên,
Hoàng Trù, Ngọc Đình...

" Thanh Chương là đất cày bừa
Nam Đàn dệt vải hát hò thâu đêm"
Hát phường vải là môi trường thi trí thử tài nam thanh nữ tú. Nhờ những
buổi sinh hoạt dân gian này, nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, tuy không biết đọc
nhưng khi nói về nghĩa lý của chữ thì họ vẫn thông hiểu, có khi đạt tới mức sâu
sắc. Bà Hoàng Thị Loan và em gái Hoàng Thị An là những phụ nữ như thế. Do
đó, tuổi thơ của Nguyễn Sinh Cung được hưởng những lời ru ấm áp, ngọt ngào
mà những tấm gương liệt nghĩa yêu nước thương nòi. Lời ca tiếng hát đã nhen
nhóm vào lòng con người tình yêu quê hương đất nước mặn nồng. Sống giữa
cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, có nhiều di tích lịch sử, những câu hát phường
vải, hát ví, hát dặm đò đưa...góp phần nuôi dưỡng tâm hồn Bác rất mực yêu quê
hương, đất nước bất chấp những gian lao nguy hiểm và coi khinh những cám dỗ
vật chất tầm thường.
2. Truyền thống quê hương
a. Giàu truyền thống chống giặc cứu nước:
Làng Kim Liên trước đây được gọi là Chung Cự thuộc tổng Lâm Thịnh,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, có làng Kim Liên quê cha, làng Hoàng Trù quê
mẹ của chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với năm làng khác là Ngọc Đình, Vân Hội,
Tình Lý, Cường Kỵ, Khoa Cử. Cả bảy làng này đều ở quanh núi Chung.
Núi Chung, một thắng cảnh trong vùng này cũng là một di tích lịch sử. Trên có
thờ đền Nguyễn Đắc Đài, một tướng tài thời nhà Trần, có công đánh giặc ngoại
xâm. Năm 1885, khi thực dân Pháp xâm lược đến mảnh đất thiêng liêng này, tú


tài Vương Thúc Mậu đã lập "Đội Chung Nghĩa binh" tại đây để chống giặc bảo
vệ quê hương.
Đứng trên Núi Chung có thể thấy được một vùng rộng lớn xung quanh.
Phía Tây có thành Vạn An và đền thờ Mai Hắc Đế - người đứng đầu phong trào
quật khởi chống quân xâm lược nhà Đường. Phía Tây Nam có thành Lục Niên,
đại bản doanh của Lê Lợi trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh. Phía Bắc còn

dấu vết thành quách Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương trong cuộc đấu tranh bảo vệ
nền độc lập chống ngọn sóng xâm lăng của phong kiến phương Bắc. Phía dưới
Đại Huệ là nơi có mộ tổ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải.
Trong cuộc hành quân cấp tốc từ kinh đô Phú Xuân tới đất Nghệ Tĩnh, ông dừng
lại, và chỉ trong mấy ngày đã chiêu mộ được 5 vạn quân làm cánh trung quân, rồi
hành quân thần tốc ra thăng Long giữa tết Kỉ dậu năm 1789, đánh tan 29 vạn
quân Thanh cứu nguy cho đất nước. Khi đại thắng ttrở về, Quang Trung lại chọn
thế đất và lòng người Nghệ Tĩnh để xây dựng đế đô tức Phượng Hoàng Trung
dưới chân núi Dũng Quyết thuộc thành phố Vinh.
Bên dòng sông Lam cách Kim Liên 4km là làng Đan Nhiệm - nơi chôn
nhau cắt rốn của nhà chí sĩ Phan Bội Châu, người đã giương cao ngọn cờ chống
thực dân Pháp trong 20 năm đầu thế kỉ 20.
Đứng trên Núi Chung, phóng tầm mắt ra xa, ta còn thấy được làng Thông
Lạng quê hương Lê Hồng Phong, làng Xuân Nha quê hương Phạm Hồng Thái,
Tùng ảnh quê hương Trần Phú, Đông Thái quê hương Phan Đình Phùng, Thành
phố Vinh nơi sinh Nguyễn Thị Minh Khai. Dưới chân núi Hồng Lĩnh là quê
hương của Nguyễn Công Trứ và đại thi hào Nguyễn Du. Tại đây là quê hương
của Hồ Chí Minh - vị anh hùng giải phóng dân tộc, mở ra một kỉ nguyên mới cho
đất nước - kỉ nguyên độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Đất nước núi sông quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn chặt với lịch sử
nước nhà trong tất cả các thời đại.
Nhận xét về mảnh đất truyền thống này, đồng chí Lê Duẩn đã nói: " Trong
nước ta hàng nghìn năm nay, Nghệ Tĩnh là nơi xây dựng cơ sở chống giặc ngoại
xâm, giữ vững nước nhà, khi nào phía Bắc mất, người ta lại vào đây xây dựng lực


lượng, xây dựng sức mạnh để giải phóng đất nước. Do cơ sở vị trí truyền thống
đó mà chúng ta không lấy làm ngạc nhiên ở Nghệ Tĩnh đã sinh trưởng những
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc . Cái đó không phải tình cờ mà do lịch sử xây dựng và
kiến thiết đất nước đã hun đúc nên Nghệ Tĩnh, nhân dân anh hùng, cần cù lao

động có nhiều năng lực phi thường” Sẽ không lạ gì khi giáo sư Trần Văn Giàu ca
ngợi: "Đất Lam Hồng khúc sông trái núi nào cũng in dấu sự tích đánh giặc cứu
nước hay tụ nghĩa vì dân, nói địa linh là thế"
Truyền thống tốt đẹp đó cùng với truyền thống của cả nước đã ảnh hưởng
rất nhiều đến tuổi nhỏ của Bác Hồ. Ngay trong thời kì cậu bé Nguyễn Sinh Cung
khôn lớn cũng là lúc phong trào yêu nước sôi động ở quê hương. Không khí đó
đã tràn ngay đến trong ngôi nhà tranh ở Kim Liên - nơi cậu Cung còn tuổi thơ ấu.
Chính Bác Hồ đã nhắc lại nhiều lần truyền thống đất nước, quê hương khi nói
đến thời thơ ấu của mình.
b. Hiếu học
Quê hương chủ tịch Hồ chí Minh nằm giữ khu vực trung tâm văn hoá
chính trị trong vùng. Từ 4 hớng xung quanh với hàng chục di tích lịch sử văn hoá
lớn đổ về trung tâm văn hoá lớn Nam Đàn, hội tụ ở vùng Chung Sơn, ngay ở Kim
Liên quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó hung đúc nên một truyền thống
văn hoá lâu đời ảnh hưởng đến tuổi nhỏ và cuộc đời sau này cuả Bác.
Hầu như vùng hạ lưu sông Lam mà trung tâm Nam Đàn là tỉnh lỵ của tất cả
các đời. Trung tâm. Nam Đàn qua nhiều đời để lại nhiều di tích lịch sử quan
trọng, để lại những trung tâm văn hoá chính trị, kinh tế quan trọng. Tính chất
trung tâm đã tạo cho dân cư ttrong vùng một trình độ văn hoá nhất định, tạo ra
những đầu mối giao thông thuận lợi, những luồng thông tin nhanh chóng để ngày
càng nâng cao trình độ nhận thức của con người nơi đây. Trung tâm này được kế
tục qua nhiều đời và chiều dày của trình độ con người ngày càng được bồi đắp.
Nh vậy vùng trung tâm chính trị văn hoá này tạo ra cho Nam Đàn nhiều mặt tíên
bộ, mặt khác do thiên nhiên không u đãi cuộc sống con người nơi đây khốn khó
nên truyền thống cần cù hiếu học, chịu thương chịu khó, bền gan chăt ý là đặc
trng tiêu biểu của người xứ Nghệ. Chỉ tính về mặt khoa cử và người đỗ đạt ta


thấy: nhà Nguyễn từ năm 1903 đến 1919 cả Nghệ Tĩnh có 90 tiên sĩ và phó bảng
thì Nam Đàn có 14 tiến sĩ và 15 phó bảng. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở

Nam Đàn có "Nam Đàn tứ hổ" và được bà con ca tụng:
" Uyên bác bất như Sang
Tài hoa bất như Quý
Cường kỳ bất như Lương
Thông minh bất như Sắc"
làng Sen chiếm đến 3 người: Vương Thúc Quý, Trần Văn Lương, Nguyễn Sinh
Sắc chỉ có Phan Bội Châu ở làng Đan Nhiệm. Mang trong mình truyền thống
hiếu học của quê hương Hồ Chí Minh ra đi tìm đờng cứu nước và đức tính tôt đẹp
này của người Nghệ Tĩnh luôn được Bác ghi nhớ dù ở đâu? làm gì? ở cương vị
nào Người cũng không ngừng học tập, trao dồi kíên thức, nâng cao phẩm chất
đạo đức của mình để lại tấm gương sáng về tinh thần hiếu học. Và chủ tịch Hồ
Chí Minh trở thành một trong ít những vĩ nhân, bằng con đờng tự học, tự nghiên
cứu.
c. Giàu đức hi sinh :
Nói đến Nghệ Tĩnh, về mặt địa lý, người ta thờng hình dung ra một vùng
đất nghèo nàn, cằn cỗi, với những cơn gió Tây nam, nóng nh thiêu nh đốt. Nói
đến Nghệ Tĩnh, về mặt nhân văn, người ta thờng nghĩ đến những con người cần
cù nhẫn nại, gan góc vật lộn với thiên nhiên. Về mặt xã hội, nói đến Nghệ Tĩnh,
người ta thấy yêu mến cái đức hiếu học, mặc dầu cuộc sống rất nghèo, nghèo đến
nỗi phải chắt chiu tiết kiệm và có lúc đến mức hà tiện, nhng có lẽ hà tiện với
mình chứ đâu có kém phần rộng rãi với Người.
Nói đến Nghệ Tĩnh người ta còn nghĩ đến cái đức hy sinh của người dân xứ này.
Đức hy sinh ấy bao gồm hai mặt: hy sinh cho tơng lai và hy sinh cho nghĩa lớn.
Đâu phải riêng Nghệ Tĩnh mới có đức hy sinh ấy, những nơi khác cũng có nhng
không phải là tất cả. Nghệ Tĩnh đã có những hy sinh thật xứng đáng cho sự sống
còn của dân tộc, cho nền độc lập của Tổ quốc, cho sự vững bền vững của giang
sơn.


Vào thế kỷ XII, khi phải đương đầu quyết liệt với sự xâm lăng ồ ạt của

giặc Nguyên, nhiều người con u tú của Nghệ Tĩnh đã góp xơng máu bảo vệ nền
độc lập của dân tộc mà tên tuổi còn ghi nh Hoàng Tá( ....), Lê Thạch, Hà Anh.
Trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh, do Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng lãnh
đạo, đất Nghệ Tĩnh xuất hiện nhiều gương hy sinh oanh liệt nh Đặng Tất, Đặng
Dung, Nguyễn Biểu...
Đến thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta, qua các phong trào Văn
Thân, Cần Vương, nhân dân Nghệ Tĩnh đã hy sinh nhiều xương máu trong cuộc
kháng chiến chống Pháp: những người con ưu tú Trần Tấn, Đặng Như Mai, Phan
Đình Phùng, Cao Thắng, Lô Minh ... tên tuổi sẽ còn mãi trên những trang sử vẻ
vang của dân tộc. Từ khi có Đảng, bao chiến sĩ trong phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh đã ngã xuống: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Thị Minh
Khai, Phan Đăng Lưu, Lý Tự Trọng, Hà Huy Tập, Nguyễn Sĩ Sách.
Đánh giá sự hy sinh và cống hiến to lớn của người Nghệ Tĩnh trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp: Đồng chí Lê Duẩn nói: "Không có Thanh Nghệ Tĩnh thì không có chiến thắng Điện Biên Phủ" ( Bác Hồ với quê hương tr.
289).
Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện lời dạy của Bác Hồ
"quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn", "không có gì quý hơn độc lập
tự do" nhân dân Nghệ Tĩnh đã thực hiện bằng hành động thực tế "Thóc không
thiếu 1 cân, quân không thiếu 1 người", "xe cha qua người không tiếc", "địch phá
ta cứ đi" dới ma bom bão đạn của Mỹ để đa hàng nghìn chuyến xe, hàng trăm
đoàn quân vợt qua "yết hầu", vợt qua cửa tử Bến Thuỷ, Thành Vinh, Ngã Ba
Đồng Lộc để vào chia sẻ giải phóng miền Nam, nhân dân Nghệ Tĩnh đã phải chịu
đựng sự hy sinh to lớn vì độc lập tự do của Tổ Quốc. 57.615 gia đình có con em
hy sinh, trong đó 7.146 gia đình có 2 người con hy sinh, 447 gia đình có 3 con hy
sinh, 36 gia đình có 4 người và 7 gia đình có 5 người con hy sinh vì Tổ Quốc. Đó
là cha kể những hy sinh thiệt thòi khác nh các cháu nhỏ không có điều kiện cần
thiết để học hành, việc cấy cày sản xuất gặp nhiều khó khăn hầu hết do phụ nữ
đảm nhiệm... Nhng người dân Nghệ Tĩnh đã biết hy sinh và dám hy sinh vì nghĩa



lớn. Đức hy sinh ấy đáng được trở thành truyền thống quý báu của người dân
Nghệ Tĩnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem cả cuộc đời hy sinh trọn vẹn lợi ích
của bản thân mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người.
Tóm lại: quê hương ảnh hưởng lớn đến tuổi nhỏ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Những ảnh hưởng đó để lại từ buổi bình minh của đời Bác một truyền
thống cách mạng sâu sắc, những trăn trở về hành động cứu nước, cứu nhà, những
tìm tòi học hỏi từ rất sớm. Về gia đình làng xóm, từ thủa nhỏ đã sống trong hàn vi
của vùng bùn lầy nước đọng, trong gia đình có nhiều trăn trở tạo thêm cho
Nguyễn Tất Thành có nhiều suy nghĩ rất sớm, về trí tuệ, về tâm sinh lý tuổi thơ,
đời sống, nơi dòng sông quê hương, với vùng xã hội phát triển lâu đời, với trung
tâm thị trấn trong xứ đã để lại những cơ sở cho tư duy, cho năng khiếu thông
minh, cho tầm nhìn xa thấu rộng sau này. Và từ những dấu ấn sâu sắc, những cơ
sở chắc chắn đó được tu luyện trong luồng gió mới muôn phương của năm châu,
bốn biển thì những cơ sở bớc đầu này có đầy đủ điều kiện nghị lực và trí tuệ trở
thành con người vĩ đại của thời đại, vị lãnh tụ vô cùng quý mến của nhân dân ta.
Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta có vinh dự sinh ra Chủ tịch
Hồ Chí Minh, trong vinh dự đó sông núi Nghệ Tĩnh của chúng ta có được vinh dự
là đã sinh ra và nuôi lớn Người.
II. Đặc điểm và truyền thống gia đình :
1. Đặc điểm gia đình:
a. Nhà Nho có tư tưởng tiến bộ :
Nguyễn Sinh Sắc (1863 - 1929) - phụ thân Hồ Chí Minh, thuộc tầng lớp xã
hội độc đáo ở làng quê Việt Nam - tầng lớp nhà Nho. Theo truyền thống, người ta
gọi tầng lớp ấy là nho sĩ, họ là đồ đệ của học thuyết Khổng Mạnh, một học thuyết
Trung Quốc đã du nhập vào Việt Nam, và từ thế kỉ XV đã trở thành tôn giáo về
hệ tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam. Thế nhng, tên gọi
trên không hoàn toàn chính xác bởi vì theo ý kiến các sử gia hiện đại Việt Nam,
đạo Khổng Mạnh khi vào Việt Nam đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền



thống và lí tưởng yêu nước của dân tộc Việt Nam, được bổ sung thêm nhiều yêú
tố tiêu biểu, hoàn toàn không phụ thuộc vào bản chất của nho giáo.
Nếu bọn xâm lược Trung Quốc và những kẻ phản bội người Việt hợp tác
với chúng, tìm mọi cách khẳng định tính chất phản động của Nho giáo – phục
tùng quyền lực của nhà vua một cách mù quáng, bảo thủ, giáo điều, những hình
thức kinh viện trong giáo dục thì những đại biểu có tư tưởng yêu nước và tiêu
biểu của giới trí thức phong kiến Việt Nam lại nhấn mạnh những yếu tố hợp lí và
tích cực vốn có trong nho giáo. Hơn nữa, họ còn làm cho nho giáo phù hợp với
những nhu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và
cải biến nó thành một học thuyết mang tinh thần dân tộc yêu nước, thậm chí
mang tính chất phản phong nữa.
Một trong những tín điều chi phối toàn bộ các phép tắc của nho giáo là chữ
" trung". Theo Khổng Tử, thần dân phải trung với vua vô điều kiện. Nhng chữ "
trung" của Việt Nam thờng kèm theo một loạt điều kiện, mà điều kiện cơ bản là
thái độ của vua đối với Tổ quốc. Nếu vua là người yêu nước thì theo truyền thống
Việt Nam " trung quân" gắn liền với " ái quốc". Nếu vua đầu hàng kẻ thù, phản
bội Tổ quốc thì " trung quân" và " ái quốc" không gắn liền với nhau nữa. Lúc ấy,
trung với vua không còn là điều bắt buộc thần dân.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược, tính chất đặc biệt của nho giáo Việt Nam
thể hiện hết sức rõ nét khi chế độ quân chủ còn đứng đầu cuộc kháng chiến thì
nhà nho là chỗ dựa cơ bản của chế độ ấy. Nhng khi phong trào Cần Vơng bị thất
bại, triều đình nhà Nguyễn trở thành tay sai, phục vụ bọn xâm lược thì phần đông
nho sĩ đã kiên quyết chống lại nhà vua.
Nguyễn Sinh Sắc sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân
Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn yếu hèn, bạc nhợc, đất nước dần dần rơi
vào tay Pháp, đời sống nhân dân ngày càng bần cùng đói khổ. Là một người
thông minh, hơn nữa được sự dạy bảo chân tình của cụ Hoàng Đường cũng là
một nhà nho tiến bộ. Nguyễn Sinh Sắc nhận thấy "trung quân" không gắn liền với
"ái quốc". Lúc này yêu nước là phải chống Pháp, tìm ra con đờng cứu nước cứu

dân.


Nguyễn Sinh Sắc hoàn toàn đứng về phe nho giáo, yêu nước chống Pháp. "Ông
tìm mọi cách làm cho con cái mình thấm nhuần tinh thần yêu nước ấy. Chính nhờ
ảnh hưởng quý báu đó nên tuy nghiền ngẫm sách vở nho giáo nh những thiếu
niên khác nhng Nguyễn Tất Thành lại hấp thụ một hệ thống quan điểm chính trị
tư tưởng hơi khác, có thể nói đó là một biến thể độc đáo của nho giáo đã được
chắt lọc và thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước Việt Nam" ( Đồng chí Hồ Chí Minh –
Ecôbêlop, N, HCM; NXB tiến bộ, matxcơva- trg 15,16).
Quan niệm về chữ "hiếu" của ông cũng khác. Chữ "hiếu" trong quan hệ
cha - con thời phong kiến là : làm con phải chăm sóc, phụng dỡng cha mẹ lúc già
yếu, bệnh tật. Nguyễn Tất Thành trớc khi ra nước ngoài tìm đờng cứu nước có
đến Bình Khê thăm cha. Thấy con trai đến, ông Sắc hỏi con : "Con đến đây làm
gì? Nước mất không lo di tìm, tìm cha phỏng có ích gì". Nguyễn Sinh Sắc đặt
chữ "quốc" lên trên chữ "hiếu", ông khuyên con trai trong thời buổi nước mất nhà
tan, hãy đi tìm đờng cứu nước, lấy quốc gia làm trọng, tình nhà gác lại. Cuộc gặp
gỡ này cũng thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đờng cứu nước và lời dạy của
cha luôn được Thành ghi nhớ và làm theo.
b. Nhà tan nước mất :
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa
đế quốc. Các nước tư bản tăng cờng xâm chiếm thuộc địa. Tình hình quốc tế nổi
bật hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai cấp Vô sản và giai cấp tư sản; mâu
thuẫn gay gắt giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Việt
Nam bị thực dân Pháp xâm lược và biến thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Lúc này, mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc ta với tư bản Pháp xâm lược. Phong trào yêu nước chống Pháp
diễn ra mạnh mẽ nhng đều thất bại nh : phong trào Cần Vơng, phong trào Đông
Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế... Sự thất bại của các
phong trào yêu nước bộc lộ rõ tình trạng khủng hoảng về đờng lối cứu nước và cả

giai cấp lãnh đạo. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho dân tộc, cho mọi người yêu nước
Việt Nam khi đó là phải tìm ra đờng lối cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống
trị của đế quốc và tay sai.


Khoảng thời gian này, Thành chịu nỗi đau lớn : mất mẹ và đứa em trai thân
yêu (1901). Cha thôi không làm quan và bặt tin tức (1906). Chị Nguyễn Thị
Thanh (1884-1954) và anh Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950) ở quê nhà bị tù đày,
tra khảo. Hoà vào nỗi nhục của một người dân mất nước, nỗi đau của gia đình,
thôi thúc Thành phải ra đi cứu nước, cứu dân. Mặc dầu anh cha biết cứu nước,
cứu dân bằng cách nào? Bằng con đờng nào? Và ngày 5/6/1911 con tàu Amital
Latouche Tre’villa rời bến nhà Rồng mang theo người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành.
2. Truyền thống gia đình
a. Giàu lòng yêu nước, thương dân:
Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 15 tháng 9 năm
1890 tại quê ngoại – xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra và lớn
lên trong một gia đình giàu lòng yêu nước, thương dân. Truyền thống này của gia
đình chi phối toàn bộ hoạt động và tưởng sau này của Hồ Chí Minh. Yêu nước,
thương dân được thể hiện qua gia phả của họ nội - ngoại.
Theo gia phả họ Nguyễn Sinh ở làng Sen cách đây trên bốn ngàn năm, ông
Nguyễn Bá Phổ đến làng Sen và khởi dựng ra dòng họ Nguyễn nơi đây. Nguyễn
Sinh Dân - thế hệ thứ tư của dòng họ đã đổi tên lót Nguyễn Bá ra Nguyễn Sinh.
Họ Nguyễn Sinh có bắt đầu từ đó. Dòng họ này không chỉ nổi tiếng học giỏi, mà
còn là dòng họ có truyền thống yêu nước nồng nàn. Nguyễn Sinh Quyến tham gia
Chung Nghĩa binh do Vương Thúc Mậu chỉ đạo. Sau khi cụ Vương tử tiết, ông
đem một bộ phận Chung Nghĩa binh vào núi Vũ Quang tham gia cuộc khởi nghĩa
của Phan Đình Phùng. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt, đưa về làng Sen xử
chém trước lưỡi dao của giặc, ông vẫn thể hiện một khí phách hiên ngang, bất
khuất.

Theo tộc phả họ Hoàng Xuân để lại: họ Hoàng Xuân vốn gốc ở làng Hoàng
Vân, tổng Yên Lạc, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam thượng
nay là làng Hoàng Vân, huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên.Dòng họ Hoàng Xuân
nổi tiếng học giỏi đỗ cao, làm quan to dưới triều Lê. Khi nhà Mạc cướp ngôi,
Hoàng Nghĩa Giá cùng con trai kéo quân vào Nghệ Tĩnh xây đồn luỹ chống nhà


Mạc. Sau đó họ không trở lại Hoàng Vân mà ở lại Nghệ An,lập nên họ Hoàng
Nghĩa ở làng Dương Xá. Đến thế hệ thứ chin Hoàng Phác Cẩn chuyển lên làng
Hoàng Trù lập ra chi họ Hoàng Xuân. Họ Hoàng Xuân cung nổI tiếng yêu nước.
Nhân dân làng Sen sẽ còn mãi kính trọng "con người thần thoại" Hoàng Xuân
Khanh – Bác của mẹ Cung. Ông hoạt động sôi nổi trong phong trào Văn Thân rồi
tham gia nghĩa quân Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, Bắc Giang. Sau trở về Nghệ
An lặp căn cứ ở vùng Bố Lư thuộc huyện Thanh Chương để chống Pháp,khi bị
bắt, giặc Pháp tra tấn,hỏi cung, ông liền tự cắt đứt một khúc lưỡi làm chúng phải
khiếp sợ.Ngay từ nhỏ tâm hồn bé Cung được nuôi dưỡng bằng những tấm gương
oanh liệt của cha, ông qua lời kể của ông bà, cha mẹ.
Truyền thống này được thể hiện qua cuộc đời hoạt động của các thành viên
trong gia đình Hồ Chí Minh. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một tấm gương
của lòng yêu nước thương dân.Nguyễn Tất Thành ảnh hưởng trực tiếp từ cha
nhân cách cao thượng này. Yêu nước trong gia đình chủ tịch Hồ Chí Minh gắn
liền với hành động cứu nước.Nguyên Sinh Sắc thường đi khắp các vùng trong
tỉnh gặp gỡ các sĩ phu yêu nước để bàn luận: làm cách nào để đuổi Pháp, giải
phóng đất nước, làm sao cho dân hết khổ?. Có lần ông ra tận Thái Bình đàm đạo
thời cuộc với các sĩ phu ở ngoài Bắc, trong đó có người con trai lãnh tụ chống
Pháp Nguyễn Quang Bích là cậu ấm Nguyễn Quang Đoan. Những nơi ông đến là
những nơi có phong trào chống Pháp sôi nổi và anh dũng. Những người ông kết
giao đều là những người có lòng yêu nước, có chí cứu nước, Những cuộc đàm
luận này có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng yêu nước Nguyễn Tất Thành, góp
phần giúp cậu có nhiều suy nghĩ về con đường sẽ lựa chọn. Muốn cứu nước là thể

hiện tư tưởng thương dân vì cứu nước là cứu dân. Nguyễn Sinh Sắc yêu dân thể
hiện qua lời nói, việc làm cụ thể. Vốn là một nhà nho có tư tưởng yêu nước tiến
bộ, Nguyễn Sinh Sắc nhận thấy trong thời buổi loạn lạc rối ren này làm quan chỉ
là bóc lột dân, đè nán dân do đó ông chủ trương học để hiểu đạo lý làm người, cư
xử với mọi người xung quanh cho tốt chứ không nên làm quan " quan trường thị
nô lệ, trung chi nô lệ hữu nô lệ" (Quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ, lại
càng nô lệ hơn). Xuất phát từ nhận thức này, Nguyễn Sinh Sắc sau khi đỗ phó


bảng đã từ chối lời mời ra làm quan của triều đình nhà Nguyễn với lí do " bị bệnh
ở lại quê uống thuốc". Khi không thể từ chối mãi được ông ra làm quan tri huyện
tại Bình Khê, Bình Định ( 1906). Ông thường bỏ huyện đường đi chơi hoặc tìm
mọi cách thả những người tù chính trị bị bắt trong phong trào chống thuế ở Huế
năm 1908, ông không bắt tội những người mắc nợ, ghét bọn cường hào, ác bá ở
địa phương chuyên áp bức bóc lột dân. Ông không xét xử các vụ kiện cáo của
bọn này ở địa phương. Vì thế ông bị bọn này hãm hại, tháng 9 năm 1910 ông thôi
không làm quan nữa đi thẳng vào Nam làm nghề thuốc chữa bệnh cứu người.
Thương dân ông không muốn làm dân hao tốn, vất vả cực nhọc. Việc ông từ chối
không tổ chức ăn mừng khi đỗ đạt, khước từ cả nghi thức " Bái tổ vinh quy" nói
lên điều đó. Ông lấy quỹ làng khao thưởng cho mình khi đậu phó bảng chia cho
dân nghèo làm vốn. Dân lấy tiền đó mua vật liệu về làm nghề thủ công đan thúng
mủng, rổ rá bán lấy tiền sinh sống. Bán một phần đất gia đình lấy tiền cứu giúp
những gia đình có người thân bị bắt phu trong việc làm con đường Cửa Rào tại
quê ông. Nguyễn Sinh Sắc là tấm gương sáng người về lòng yêu nước thương
dân. Nguyễn Tất Thành đã ảnh hưởng từ cha nhân cách cao thượng này.
Chị gái Nguyễn Thị Thanh ( 1884 – 1954) và anh trai Bác Nguyễn Sinh
Khiêm ( 1888 – 1950) đều dành cả cuộc đời cho cách mạng, mục đích là cứu
nước cứu dân. Nguyễn Thị Thanh một cô gái đẹp, thong minh, có nhiều tài năng,
đáng lẽ cuộc đời cô trải qua những năm tháng ấm êm hạnh phúc bên chồng con.
Nhưng không, cô không lập gia đình và phần lớn thời gian trong cuộc đời bị thực

dân Pháp và phong kiến Nam triều nhốt trong tù. Vì tội tham gia tích cực vào đội
Quyên, đội Phấn - một tổ chức chống Pháp tại quê cô. Năm 1918, tổ chức lấy
trộm súng, bị Pháp bắt dẫn vào tổng đốc An Tĩnh lúc đó là Tôn Thất Đạm, y kinh
ngạc chỉ vào cô nói: "người ta chửa thì đẻ ra con, còn mày chửa thì đẻ ra súng”
Anh trai Nguyễn Sinh Khiêm khi mới 24 tuổi nghe tin toàn quyền Đông Dương
Anbexaro đi kinh lý qua Nghệ Tĩnh đã viết một bản điều trần trục tiếp đưa cho
Xaro, dũng cảm đòi quyền tự do, dân chủ, giảm bớt sưu thuế, mở mang việc học
hành cho nhân dân. Năm 25 tuổi cậu hăng hái đứng ra gánh vác việc làng cũng là
để bênh vực quyền lợi cho nhân dân làng Sen. Sau đó cậu trải qua một cuộc đời


tù đày kéo dài 24 năm. Cả cuộc đời đấu tranh của cậu cũng xuất phát từ lòng yêu
nước thương dân.
Những người thân trong gia đình Bác đã cống hiến cả cuộc đời cho sự
nghiệp cách mạng vì thế con đưòng mà Bác lựa chọn tất yếu không thể đi khỏi
quỹ đạo của gia đình.
b. Giàu lòng nhân ái, giàu đức hy sinh:
Truyền thống này thể hiện rất rõ qua việc làm của cụ Hoàng lược_ ông
ngoại Hồ Chủ tịch. Cụ đem lòng yêu mến cậu bé Sắc sớm mồ côi cha, mẹ phải ở
với người anh không có điều kiện đến trờng học nên cụ đến gặp ông Nguyễn Sinh
Trợ- anh trai cùng cha khác mẹ với Săc xin đứa bé Sắc về nhà mình nuôi cho ăn
học. Vì hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn và tin tưởng ở cụ Hoàng Đường,
vợ chồng ông Trợ đồng ý. Nhờ có điều kiện học hành và sự chăm sóc, dạy dỗ cuả
cụ Đường, Sắc học tập tấn tới rất nhanhvà ngày càng bộc lộ rõ thiên t của mình,
hứa hẹn một tơng lai tươi sáng trên con đờng cử nghiệp. Cụ Đường thương Sắc
chẳng khác gì con ruột. Và vì thương người, thương con nên cụ Hoàng Đường và
Nguyễn Thị Kép đã vượt ra khỏi ràng buộc của quan niệm phong kiến đương
thời,xây dung hạnh phúc lứa đôi cho con cái. Năm 1881 anh học trò nghèo
Nguyễn Sinh Sắc kết hôn với Hoàng Thị Loan – con gái yêu của cụ tú tài Đường.
Gia đình cụ là một gia đình nho giáo ,có địa vị trong làng xã nhng cụ đã mạnh

dạng quyết định cho con gái đầu lòng gắn bó đời mình với anh học trò nghèo mà
gia đình đang cưu mang. Ông, bà còn dựng ngôi nhà tranh ba gian trong vườn
nhà mình để cho đôi vợ chồng mới cới có chỗ ở riêng. Kết quả tấm lòng thương
con người của cụ, tại ngôi nhà tranh 3 gian tại xã Kim Liên – 3 đứa cháu thân yêu
lần lợt ra đời- sau này đều là những người con ưu tú của đất nước. Trong đó có
chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Từ nhỏ Nguyễn Sinh Cung được giáo dục lòng nhân ái. Cụ Kép luôn dạy
cháu làm người phải biết điều nhân nghĩa thuỷ chung. Đặc biệt bà Hoàng Thị
Loan đã dạy cho con biết cách cư xử, sống vì mọi người trong tình làng nghĩa
nước, thương yêu, giúp đỡ những người nghèo khổ , sống chan hoà với mọi
người, biểu hiện của đạo lý thương người như thể thương thân. Việc ông sấc lấy


một phần quỹ làng khao thưởng cho mình để cấp cho các gia đình nghèo là biểu
hiện cuả tấm lòng thương người cao cả, một gía trị văn hoá tốt đẹp của đời sống
nhân dân. Đức tính tốt đẹp đó tác động sâu sắc đến Hồ Chí Minh. Gia đình không
chỉ giàu lòng nhân ái mà còn giàu đức hy sinh. Đức hy sinh của bà Hoàng Thị
Loan xuất phát từ tình yêu thương chồng, con bao la sâu nặng. Bà rời quê vào
Huế (1895) để lại nhà mẹ già và đứa con gái nhỏ mới 7 tuổi, chấp nhận một cuộc
sống thiếu thốn về vật chất, và tình cảm họ hàng để cho chồng ăn học. Với tấm
lòng cao đẹp của một người mẹ không muốn cho con mình quá thiếu thốn, với
quyết tâm của một người vợ không muốn chồng phải ngừng học tập vì thiếu cơm
áo nên hơn 5 năm trời, khung cửi của bà rộn tiếng thoi đưa . Có thể nói bằng lao
động, bằng cả tấm lòng yêu chồng thương con bà đã dệt nên cuộc đời, sự nghiệp
đẹp đẽ cho chồng và những đứa con.Bà hy sinh tất cả cho chồng, con, thậm chí
ngay cả khi têt đến, xuân về bà cũng không may cho mình quần áo mới. Chính
nhờ lòng yêu thương cao cả của bà con. Sự lao động cực lực của bà là nguồn
động viên, chỗ dựa vững chắc cho chồng yên tâm thi cử. Nhờ vậy năm 1901,
khoa thi Tân Sửu ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng và Nguyễn Tất Thành mới
có điều kiện sống giữa đế đô , sào huyệt của bọn thống trị, nơi tập trung cao độ

mâu thuẫn của xã hội đương thời sớm làm cho nhận thức xã hội của Nguyễn Tất
Thành phát triển nhanh. Bà Hoàng Thị Loan đã hy sinh cả cuộc đời cho chồng
học tập, con trưởng thành thì ba người con của bà cũng giành toàn bộ thời gian
của cuộc đời cho hoạt động cách mạng, không ai có gia đình. Và như chúng ta đã
biết đó là điều hy sinh lớn nhất của con người. Truyền thống nhân ái , giàu đức hy
sinh của gia đình ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nhân cách, đạo đức của Hồ
Chí Minh. Truyền thống này được người nâng lên thành ước mơ khát vọng nước
được độc lập dân được tự do.
c. Yêu lao động và có tinh thần vượt khó:
Trong gia đình, Nguyễn Tất thành chiu ảnh hưởng nhiều từ người cha,
đồng thời là người thầy đầu tiên của mình. Nguyễn Sinh Sắc là tấm gương sáng
người về tinh thần yêu lao động. Từ nhỏ Nguyễn Sinh Sắc mồ côi cả cha lẫn mẹ
phải về sống với người anh trai cùng cha khác mẹ Nguyễn Sinh Trợ. Gia đình anh


Trợ không mấy khá giả, cả nhà phải quần quật mới có miếng ăn, Sắc tiếp anh chị
không hở tay. Trong nhà thì trông em, xách nước, quét nhà trông em, ngoài đồng
thì nhổ cỏ, cắt lúa, bới lạc, chăn trâu. Sắc không có điều kiện học hành và cũng
không rong chơi như bạn bè cùng trang lứa. Dẫu vậy cậu Sắc vẫn tìm thấy thích
thú trong công việc nhất là chăn trâu. lao động vừa kiếm miếng ăn, vừa mong
muốn có tiền đến lớp.Sau lao động nuôi sống gia đình và để có điều kiện học tập
tốt nơn, cụ vừa dạy vừa học, thời gian còn lại trồng rau, cuốc đất, khi đỗ đạt cụ
vẫn giữ thói quen lao động như cũ. Hình ảnh người cha thân yêu sau giờ dạy cần
mẫn miệt mài trồng rau, cuốc đất in đậm trong tâm hồn Nguyễn Tất Thành.
Nguyễn Sinh Sắc không chỉ yêu lao động mà còn có tinh thần vượt khó, ông là
tấm gương tiêu biểu cho việc tự học, quyết tâm thực hiện mục đích mà mình đề
ra. Điều này được Nguyễn Tất Thành tiếp thu, vận dụng và sau này đã trở thành
một vĩ nhân bằng con đường tự học, tự lao động. Nguyện vọng ông Sắc là đỗ đạt
để đền đáp công ơn dạy dỗ, nuôi dỡng của gia đình vợ và làm vui lòng người vợ
quá cố. Vì thế mặc dù rất đau lòng trớc việc ra đi đột ngột vĩnh viễn của người vợ

hiền. Ông gửi lại 4 đứa con thơ cho bà Nguyễn Thị Kép nuôi lúc này đã già yếu
để vào Huế dự thi lần hai. Khoa thi năm ấy ông đỗ phó bảng . Việc làm đầu tiên
là đặt ngay bàn thờ người vợ quá cố của mình - đó là tình cảm, tấm lòng, sự vẹn
nghĩa chung tình của ông đối với người vợ thân yêu đã quá cố. Hồ Chí Minh ảnh
hưởng chủ yếu từ những đức tính quý báu đó của ông.
III. QUÊ HƯƠNG, GIA ĐÌNH ẢNH HƯỞNG ĐẾN CUỘC ĐỜI, SỰ
NGHIỆP , TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống quê hương, gia đình.
Nhân Hội nghị các nước thắng trận họp ở VecXây, thay mặt những người
dân yêu nước ở Pháp, Nguyễn Tất Thành trực tiếp tới lâu đài VecXây trao bảng
yêu sách gồm 8 điều cho văn phòng hội nghị. Sau đó, lần lượt gởi bảng yêu sách
đến các đoàn Đại biểu các nước đồng minh nói chung và chính phủ Pháp nói
riêng trả lại những quyền cơ bản, chính đáng thiết thực cho nhân dân An Nam.
Dưới bảng yêu sách ghi: Thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước: Nguyễn ái
Quốc. Nguyễn ái Quốc nghĩa là người yêu nước, Nguyễn Tất Thành cùng Phan


Châu Trinh, Văn Trường chọn tên Nguyễn ái Quốc thể hiện lòng yêu nước khát
khao cháy bỏng của mình, và cũng chính vì lòng yêu nước Nguyễn Tất Thành
mới rời xa tổ quốc, bỏ lại người Cha già thân yêu của mình đi ra nước ngoài, mục
đích "về giúp đồng bào"... Như vậy, từ tình yêu làng nước, xóm giềng - được hình
thành từ truyền thống quê hương, gia đình đã biến thành khát vọng lý tưởng
muốn cứu dân, cứu nước của Thành. Vì yêu nước thương dân mà Thành chấp
nhận mạo hiểm như lời Anh nói với người bạn"...Nếu đi một mình, thật ra cũng
có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm..." (Hồ Chí Minh tiểu sử, trang 41). Vì yêu
nước thương dân Nguyễn chấp nhận bôn ba nơi xứ lạ quê người 30 năm, đi khắp
các châu lục để xem xét, khảo sát nghiên cứu...để về giúp đồng bào. Có thể nói,
lòng yêu nước ở Nguyễn chính là lòng kết tụ lòng yêu nước không chỉ có ở quê
hương, gia đình mà còn có cả truyền thống của văn hóa Việt Nam hơn 1000 năm
văn hiến. Điều này được Người nhắc lại "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước

chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lên nin, tin theo quốc tế ba"
(Văn Hồ Chí Tịch - Huỳnh Lý - NXB giáo dục Hà Nội - năm 1971). Tinh thần
yêu nước đã trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là một nhân tố đứng đầu trong
bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước..." (Văn Hồ Chủ tịch, NXB Giáo
dục Hà Nội, năm 1971), truyền thống yêu nước đó không chỉ là một tình cảm một
phẩm chất tinh thần mà đã phát triển thành một chủ nghĩa - chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa dân tộc chân chính, thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên
suốt lịch sử của dân tộc. Tiếp thu truyền thống quý báu dân tộc: Hồ Chí Minh đã
xem "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất để cứu nước". Vì thế vì xác định
phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam, Người chủ trương: làm tư sản
dân quyền cách mạng trước, thổ địa cách mạng làm sao cuối cùng đi tới xã hội
Công sản. Từ việc xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam
người xác định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:


Về chính trị: Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, phong kiến làm cho nước
Nam hoàn toàn được độc lập, dựng ra một chính phủ công nông binh, tổ chức
quân đội công nông.
Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho
chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và
chia cho dân cày nghèo.
Về văn hóa - xã hội: Dân chúng được tự do và tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả nội dung dân tộc, dân chủ, chống đế
quốc, chống phong kiến. Song đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc giành
độc lập dân tộc.

Về lực lượng cách mạng: Công nông là gốc cách mạng lôi kéo tiểu tư sản,
trí thức, trung nông đi vào phe vô sản giai cấp, đối với phú nông trung tiểu địa
chủ, tư bản Việt nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng, thì phải lợi dụng hoặc làm
cho họ ít nhất đứng trung lập.
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do Bác soạn thảo là một Cương
lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo trên lập trường chủ nghĩa Mác Lênin, phù hợp với xu thế phát triển mới của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách
quan của lịch sử đặt ra... Việc Bác đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc trước, giai
cấp sau, xem tiểu tư sản, tư sản... là bầu bạn cách mạng đã đi ngược lại chủ
trương của Quốc tế cộng sản, Người bị đánh giá là dân tộc chủ nghĩa, ấu trĩ về
chính trị: biểu Đảng ta liên minh với kẻ thù giai cấp thật sự là một ấu trĩ về chính
trị hữu khuynh về giai cấp, sự bất đồng quan điểm giữa Nguyễn với Quốc tế
Cộng sản dẫn đến Nguyễn không được tiếp làm nhiệm vụ mà giao cho nhiệm vụ
đi học. Đây là giai đoạn đau buồn của Nguyễn vì không được hoạt động đứng
ngoài Đảng. Mục tiêu của Nguyễn ái Quốc là cứu nước, cứu dân những hiện tại
Nguyễn chưa thực hiện được, bây giờ lại không làm được gì thì làm sao khỏi
buồn. Đồng thời thể hiện sức chịu đựng, nghị lực phi thường của người Nghệ Tỉnh.


Tư tưởng yêu nước thương dân, chi phối mọi hoạt động yêu nước của Hồ
Chí Minh. Vì yêu nước thương dân mới sáng lập ra Đảng, thành lập ra nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ...
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng nhân ái của quê hương, gia đình, về yêu
thương con người nên Hồ Chí Minh có mong muốn tột bật: ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành…
Hồ Chí Minh tiếp thu đức tính hy sinh của quê hương gia đình, người dân
Nghệ Tỉnh đã biết hy sinh và dám hy sinh vì nghĩa lớn. Đức hy sinh ấy thấm vào
máu thịt đã trở thành truyền thống quý báu của người dân Nghệ Tĩnh. Mang trong
mình truyền thống của quê hương, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về đức hy
sinh cao cả không gì sánh nổi. Có thể nói một cách khái quát rằng cả cuộc đời
của Người đã hy sinh trọn vẹn lợi ích và hạnh phúc riêng của mình cho sự nghiệp

giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Với Nguyễn Tất Thành với cuộc ra đi năm 1911 là một sự hy sinh lớn bởi
lẽ dù sao Anh cũng là con một quan Phó bảng, tri huyện; Anh lại được học hành
và có vốn chữ Hán, chữ Pháp đủ để có một công ăn việc làm không khó, chưa nói
đến thời điểm Anh ra đi cũng là thời điểm phụ thân anh gặp khó khăn. Song
Nguyễn Tất Thành tạm gác chữ hiếu với Cha sang một bên để thực hiện chữ
“hiếu với dân” bằng cuộc ra đi đầy gian khổ của mình.
Mười năm đi khắp năm châu tìm đường cứu nước cũng là những năm
Nguyễn Tất Thành chấp nhận hy sinh gian khổ về vật chất. Nếu không có cái đức
hy sinh của người Nghệ Tĩnh thì làm sao khỏi dao động và thậm chí bỏ cuộc
trước lời nói của Bùi Quang Chiêu "Những người như con sao lại làm nghề khó
nhọc này, hãy tìm một nghề khác danh giá hơn" hoặc trước quyết định của ông
Elxcopphie: "Hãy bỏ ý nghĩ cách mạng ấy của Anh đi. Tôi sẽ dạy cho Anh cách
làm bánh và Anh sẽ được nhiều tiền".
Cũng phải nói cho rõ ràng rằng 10 năm đi khắp Châu Âu, Châu Phi, Châu
Mỹ,... chính là thời thanh niên trai trẻ, thời kỳ mà theo lẽ thường là lúc tình yêu
và hạnh phúc đến với con người mãnh liệt nhất. Tác giả Trần Dân Tiên đã từng kể
về những người cùng làm tàu với với Văn Ba đã dùng hết tiền lương để "bao" cho


các cô gái tình nhân đó sao? Còn Nguyễn Tất Thành, qua tài liệu mật thám theo
dõi chặt chẽ thì kết luận "những Người Việt Nam sang Pháp đều có tình nhân,
riêng Nguyễn ái Quốc không yêu gì cả. Ông dành toàn bộ cả thời gian cho hoạt
động cách mạng và cũng như chúng ta đã biết đó là điều hy sinh lớn nhất, hy sinh
cả hạnh phúc riêng tư của mình" cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
Đức hy sinh của Bác gắn liền với lý tưởng, gắn với sự ham muốn tột bậc
của Người: làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành...
Bác Hồ cũng chịu ảnh hưởng của cuộc sống quen chịu đựng của người

nông dân xứ Nghệ. ở Bác có ham muốn tột bậc: nước độc lập, dân tự do, ai cũng
có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học hành. Bác chăm lo cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, không chịu cúi đầu trước bất cứ thế lực tàn bào
nào. Cuộc sống thanh bạch giản dị của Bác nhằm giữ gìn cho đạo đức xã hội tốt
đẹp, không phải vì ham muốn vị kỷ mà suy thoái nhân tâm. Chính Bác đã nói
"người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng
hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng
hưởng ăn ngon mặc đẹp là không có đạo đức". Như vậy có thể nói: Bác đã tiếp
thu lối sống cần kiệm quen chịu đựng trước những khó khăn thiếu thốn của bà
con quê nhà. Những Bác lại vươn cao, vươn xa hơn ở sự sáng suốt tìm con đường
đúng đắn để vượt lên dành cuộc sống tươi đẹp hơn.
Tư tưởng dân chủ của Bác bắt nguòn từ lòng yêu quý dân của cụ Nguyễn
Sinh Sắc, tuy là quan phó bảng nhưng cuộc sống của gia đình cụ không khác gì
với người dân, cuộc sống gia đình gần gũi chan hoà với người dân. Giữa gia đình
quan Phó bảng không có khoảng cách với dân làng Kim Liên. Tuy đã Phó bảng
nhưng cụ Sắc vẫn ngày ngày lao động vẫn ngày ngày cuốc đất, trồng rau, cuộc
sống thanh bạch của Bác từng làm xúc động mọi người Việt Nam và bạn bè quốc
tế: mặc quần áo nâu giản dị mang đôi dép cao su, thích món ăn có phong dị quê
nhà, dành thời gian trồng rau, nuôi cá... Lối sống ấy bắt nguồn từ nếp nhà quen
thuộc, lối sống ấy bắt nguồn từ nhân sinh quan cách mạng: người cách mạng


không thể sống cuộc sống xa cách nhân dân, thể hiện tác phong quần chúng dễ
gần gũi với mọi người. Đảng viên không được rời xa gốc gác của mình. Đó là
một quan điểm, một tư tưởng chính trị thẩm mỹ nhằm giữ tinh hoa cốt cách cha
ông.
Tóm lại Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống quê hương, gia đình và nhờ
tiếp thu những truyền thống ấy mà cuộc đời sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mãi là tấm gương, mãi mãi toả sáng cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau noi
theo.

2. Hồ Chí Minh phát huy truyền thống quê hương, gia đình.
Hồ Chí Minh là người yêu nước mãnh liệt nhất, nồng nàn nhất trong những
người yêu nước Việt Nam. Lòng yêu nước đó bắt nguồn từ lòng nhân ái, tình yêu
gia đình, yêu làng quê thiết tha. Tình yêu quê hương như con suối đầu nguồn của
dòng sông ái Quốc cuồn cuộn chảy ra đại dương tình hữu nghị các dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, tình yêu quê hương và gia đình phải gắn với tình đất
nước. Nói đến gia đình và đất nước là nói đến mối quan hệ giữa hiếu và trung.
Quan niệm của người xưa: trung là trung với vua, nước gắn liền với vua, mất vua
coi như mất nước, còn hiếu người xưa chủ trương là hiếu với cha mẹ. Trong quan
hệ trung hiếu người xưa không nghĩ đến dân. ở Bác cũng chủ trương trung hiếu
nhưng trung hiếu ở trong Bác mới hơn, rộng hơn: Bác chủ trương trung với nước,
hiếu với dân (trong dân có cha mẹ và những người thân khác). Do đó khi nghe tin
anh cả của Bác mất, Bác đã viết: "nghe tin anh cả mất lòng tôi rất buồn rầu. Vì
việc nước nặng nhiều, đường xá xa cách mà lúc anh đau yếu tôi không thể trông
nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu... Tôi xin chịu tội bất đễ trước linh hồn
anh" (Bác Hồ với quê hương - trang192). Cử chỉ đầy cảm động đó nằm trong
toàn bộ cuộc đời sáng người đức tính trung với nước, hiếu với dân của Bác.
Trung với nước, hiếu với dân chủ trương gắn liền tình yêu gia đình, quê hương và
tình yêu đất nước. Bác Hồ của chúng ta đã tồn tại trong người giữa truyền thống
và đổi mới cách mạng, giữa cái bình thường và cái vĩ đại. Không ngờ một người
xa quê lâu như Bác mà vẫn còn giữ được tiếng nói quê hương. Đó là những yếu
tố tạo nên con người văn hoá Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đưa tình yêu quê hương


×