LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp ngoài sự nỗ lực, cố
gắng của bản thân, tôi còn nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của
các tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy, cô giáo trong khoa Nông
học, Học Viện nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các giảng viên, cán bộ trong
bộ môn bệnh cây và phòng thí nghiệm bộ môn đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đề tài này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của Ths. Nguyễn
Thị Thanh Hồng đã hết lòng quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn tận tình để tôi hoàn
thành báo cáo tốt nghiệp này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, anh chị khóa trên
và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2017
Người thực hiện
NGUYỄN CHIẾN THẮNG
1
1
MỤC LỤC
2
2
DANH MỤC BẢNG BIỂU
3
3
DANH MỤC HÌNH ẢNH
4
4
Phần I
Mở đầu
1.1 Đặt Vấn Đề
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của đất nước ta. Việt Nam là
một trong những nước có nền nông nghiệp ngày càng phát triển và đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Trước đây Việt Nam là nước có nền nông nghiệp nghèo
nàn, thô sơ những trải qua bao nhiêu năm tìm tòi và phát triển nền nông nghiệp
nươc ta đã được nâng lên một tầng cao mới, hiện nay năng suất chất lượng cây
trồng tăng lên rõ rệt, góp phần khẳng định vị thế của nền nông nghiệp nước ta
trên thị trường khu vực và thế giới. Sản phẩm nông nghiệp làm ra ngày càng đa
dạng trong đó cay trồng trên cạn chiếm một tỉ lệ lớn và đang đáp ứng được nhu
cầu trong và ngoài nước.
Nền nông nghiệp càng phát triển mạnh mẽ thì đi kèm theo đó cũng là
muôn vàn khó khăn. Một trong những khó khăn mà nông nghiệp chúng ta đối
mặt đó chính là dịch bệnh hại ngày càng gia tăng và chúng làm ảnh hưởng trực
tiếp và gây thiệt hại nặng nề tới năng suất và chất lượng cây trồng. Và trong đó
bệnh hại do tuyến trùng gây ra đang có xu hướng gia tăng và đây đang là mối lo
ngại cho việc sản xuất nông nghiệp vì tuyến trùng tập chung khá chủ yếu sống
trong đất nên khả năng phòng trừ và chữa trị gặp rất nhiều khó khăn.
Tuyến trùng là loài động vật hạ đẳng thuộc ngành giun tròn
( Nemathelminthes). Chúng sống chủ yếu trong đất, là một trong những đối
tượng gây hại nguy hiểm cho cây trồng, chúng có số lượng lớn, trong đó tuyến
trùng kí sinh thực vật hại cây trồng chiếm đa số, chúng có mặt ở nhiều nơi trên
các cây trồng và các loại đất khác nhau. Tuyến trùng có kích thước rất nhỏ, mắt
thường chúng ta không thể thấy được, chúng có khoảng hơn ngàn loài.
Trong nhiều loại cây trồng bị tuyến trùng ký sinh gây bệnh thì cà chua là
một trong những loai cây bị tuyến trùng ký sinh gây bệnh phổ biến nhất. Cà
chua là một loại rau quả lam thực phẩm, cà chua được trồng và sử dụng rộng rãi
5
5
trên toàn thế giới. Cà chua được trồng phổ biến nhất là loại có đường kính 5-6
cm. Hầu hết các giống cà chua đều cho ra quả màu đỏ nhưng một số khác cho ra
quả màu vàng, cam, hồng, tím…
Khoảng 150 triệu tấn cà chua đã được sản xuất ra trên thế giới trong năm
2009, Trung Quốc là nước trồng cà chua lớn nhất, chiếm khoảng một phần tư
sản lượng toàn cầu, tiếp theo là Mỹ và Ấn Độ. Ở Việt Nam, cây cà chua được
xếp vào các loại rau có giá trị kinh tế cao, diện tích trồng cà chua lên đến
chục ngàn ha, tập trung chủ yếu ở đồng bằng và trung du phía Bắc. Hiện
nay có một số giống chịu nhiệt mới lai tạo chọn lọc có thể trồng tại
miềnTrung,Tây Nguyênvà NamBộ nên diện tích ngày càng được
mở rộng. Một số giống cà chua chất lượng đã được xuất khẩu ra thị trường thế
giới, đem lại nguồn thu nhập cho người dân. Tuy nhiên do thâm canh cao đã làm
xuất hiện nhiều dịch bệnh hại cà chua gây giảm thiệt hại năng suất cũng như
chất lượng nông sản, trong đó có tuyến trùng nốt sưng (Meloidogyne sp.) là đối
tượng dịch hại khá phổ biến trên cây cà chua và gây thiệt hại nghiêm trọng đến
năng suất và sản lượng cà chua. Tuyến trùng sống trong đất và ăn dịch rễ cây,
gây ra những vết sưng trên rễ cây cà chua. Tuyến trùng cái đẻ trứng trên và trong
rễ hoặc phía trong những rễ mục. Tuyến trùng non nở ra từ trúng và di chuyển
về phía đầy rễ hoặc những vết thương nhỏ. Chúng ăn những tế bào rễ. Tuyến
trùng tấn công ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây. Triệu chứng phía trên
mặt đất thường phát triển chậm và có thể không nhận thấy. Các triệu chứng bao
gồm cây phát triển còi cọc, héo rũ và vàng. Cây trưởng thành cho hoa và quả ít.
Cây bị nhiễm có thể héo hoặc chết trong điều kiện thời tiết nóng khô. Dưới mặt
đất, rễ sẽ xuất hiện những nốt sưng. Khi nhổ cây lên, quan sát thấy rễ có nốt
sưng với kích thước khác nhau. Những nốt sưng có kích thước lớn và dày đặc
hơn khi mật số tuyến trùng nhiều. Những nốt sưng này ngăn cản sự di chuyển
nước và dinh dưỡng đến các phần còn lại của cây dẫn đến sự phát triển còi cọc.
6
6
Cây bị nhiễm bệnh tuyến trùng nốt sưng thường dễ bị nhiễm các bệnh khác
trong đất gây ra bởi Ralstonia solanaceảum (héo rũ vi khuẩn), Sclerotium rolfsii
(héo rũ gốc mốc trắng), Fusarium, Pythium, hoặc Rhizoctonia. Sự lây nhiễm thứ
cấp này có thể dẫn đến chết cây nhanh chóng. Hiện nay biện pháp phòng trừ
tuyến trùng chủ yếu vẫn là biện pháp hóa học.
1.2 Mục đích và yêu cầu
1.2.1 Mục đích:
Nghiên cứu tuyến trùng nốt sung (Meloidogyne SPP), hại một số cây
trồng cạn phổ biến.
1.2.2 Yêu cầu:
- Đánh giá tính gây hại của tuyến trùng nốt sung Meloidogyne trên một số
cây trồng cạn
- Điều tra tình hình bệnh tuyến trùng nốt sung gây hại trên một số cây
trồng cạn khác nhau.
- Điều tra thành phần tuyến trùng trên đất cây trồng cạn
- Xác định đặc điểm sinh học của tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne spp.
7
7
PHẦN II
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Tuyến trùng kí sinh thực vật có 10 chi tuyến trùng được coi là nhóm kí
sinh quan trọng nhất trên phạm vi toàn thế giới là: Meloidogyne, Pratylenchus,
Ditylenchus, Globodera, Tylenchulus, Xiphinema, Radopholus, Rotylenchulus
và Helicotylenchus (Sasser & Freckman, 1987). Borellox (1656) đã
mô tả kĩ về tuyến trùng dấm cùng với tuyến trùng rượu vang Turbatrix xti. Các
nghiên cứu về tuyến trùng học do giáo sư Needham (1743) phát hiện các động
vật dạng sợi chuyển động xoắn vặn trong nước khi ông đã bóc 1 vài hạt lúa mỳ
bị dị tật đưa vào giọt nước và kiểm tra dưới kính hiển vi được gọi là giun hoặc
lươn (Decker, 1969 trích dẫn). Theo Hardy (1850) cho biết loài tuyến trùng kí
sinh trên hòa thảo vibriograminis. Divine (1857) đã nghiên cứu vòng đời phát
triển của nó.
Tuyến trùng ký sinh thực vật gồm 4 nhóm liên quan đến 4 bộ tuyến trùng:
Bộ Tylenchida, bộ Aphelenchida, các loài Longidoridea của bộ Dorylaimida, các
loài Trichodoridae của bộ Aphelenchida. Trong nhóm tuyến trùng ký sinh trên
thì nhóm loài thuộc bộ Tylenchida là nhóm tuyến trùng ký sinh đông đảo nhất và
có tầm quan trọng nhất đối với nông nghiệp. Tuyến trùng ký sinh có thể làm
giảm 12% sản lượng cây trồng và thiệt hại do tuyến trùng ký sinh đối với cây
trồng nông nghiệp ước tính là hàng trăm tỷ USD mỗi năm.
Tuyến trùng là bệnh phổ biến ở nhiều nước Brazil, Ấn Độ, Indonesia…
(Ramana, 1987). Winoto 1972, Mustika 1978 v.v..). Theo Winoto (1972) ở
Sarawak, tại Malaysia, tuyến trùng Meloidogyne spp. gây hại hàng loạt làm cho
cây bị vàng lá, còi cọc và có triệu chứng thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng. Triệu
chứng bệnh tăng thêm khi có sự kết hợp giữa sự nhiễm Meloidogyne incognita
và Fusarium solani, trong điều kiện khô hạn và đất nghèo dinh dưỡng.
Fieldphoto (2004) cho biết, tuyến trùng Meloidogyne spp. có hầu hết trên thế
8
8
giới và đặc biệt là ở những nước có khí hậu ẩm. Ở Hy Lạp tuyến trùng
Meloidogyne spp. gây nguy hiểm cho nền nông nghiệp (D. Prophetou, 2003).
Số loài tuyến trùng nốt sưng được phát hiện tăng lên nhanh chóng. Wilson
(1962) đã công bố lần đầu danh sách mục tuyến trùng nốt sưng ở Nigeria. 6 năm
sau White-head (1968) đưa ra một danh sách gồm 23 loài tuyến trùng nốt sưng.
Các công bố khác về tuyến trùng nốt sưng: Trueb (1885) đã tìm ra loài kí
sinh trên cây mía ở Java gọi tên là Heterodera javanica. Neal (1889) đã mô tả
loài H. arenaria ở Florida. Theo Goeldi (1887) là nhà tuyến trùng học đầu tiên
xác nhận TTNS khác với tuyến trùng bào nang, ông mô tả loài TTNS
Meloidogyne exigua trên cây cà phê ở Brazil. Marsinoboki (1909), Micoletsky
Cobb (1919-1920) đã góp phần vào hệ thống phân loại tuyến trùng và mở đường
cho khoa học nghiên cứu tuyến trùng kí sinh loài thực vật phát triển. Skarbilovik
(1959) họ phụ mới Meloidogyne được đề suất
Franklin (1961) cho biết loài M. artiellia xuất hiện ở Châu Âu và tiếp theo là loài
M. naasi và năm 1965. Sledge và Golden (1964) đã mô tả loài tuyến trùng nốt
sung và xếp sang giống Hypsoperine graminis. Whitehead (1968) đã công bố tài
liệu phân loại đầu tiên về giống Meloidogyne nói chung, ông không công nhận
giống Hypsoperine và mô tả 4 loài mới đưa ra danh mục 23 loài tuyến trùng nốt
sưng. Wouts (1973) đã đưa ra dự đoán về họ Meloidogyne. Cả hai đơn vị phân
loại này được nhiều nhà nghiên cứu thừ nhận và khẳng định nhờ sự kiểm tra
chỉnh lí các nhóm trùng lặp bộ Tylenchida. Số loài tuyến trùng nốt sưng được
tăng lên nhanh chóng. Frankliu (1972) sau khi nghiên cứu đặc điểm phân loại đã
đưa số loài tuyến trùng nốt sưng lên 32 loài trong giống Meloidogyne và 4 loài
thuộc giống Hypsoperine. Saser và Taylor (1978), Lambertie và Taylor (1979)
đưa số loài trong giống Meloidogyne lên đến 36. Ichinohe (1972) giới thiệu 16
loài hại lúa, 4 loài TTNS: M. incognita; M. graminicola; M. javanica; M.
thamesi. Loài M. graminicola phân bố ở Mỹ, Lào, Thái Lan, Ấn Độ. Một báo
cáo khác của Viglierchio (1971) cho rằng dù loại auxin nào của tuyến trùng đều
9
9
có thể tiết cây ký chủ nếu hàm lượng auxin thông thường cao. Điều này giải
thích rằng các cây ký chủ khác nhau phản ứng với M.graminicola là khác nhau
(Soomro và Hague,1992). (Slineger và Brird, 1978; O’Brien và Fisher, 1981) đã
cho rằng rễ bên xuất hiện chậm chứ không phải bị ức chế. Sự tăng nhanh của các
rễ bên sau khi tuyến trùng xâm nhập cũng đã được quan sát (Bridge và Hague,
1974; Price, 1979: Rawsthorne và Hague, 1985), và các rễ bên có hiện tượng
cụm lại thành bụi được báo cáo bởi Soomro và Hague (1990) trong khi Roy
(1973) quan sát thấy lông hút trên nốt sưng bị tuyến trùng xâm nhập các rễ bên.
Cũng trong thí nghiệm này các rễ bên phát triển trên nốt sưng nhưng tương đối
dày và có thể dài ra tùy thuộc vào điều kiện môi trường như nhiệt độ và thời
gian qua sát. Sự phát triển của rễ bên trên nốt sưng góp phần tăng thêm tổng số
rễ. Kết quả tương tự của Niblack và cộng sự (1986) trên đậu tương nhiễm
Meloidogyne incognita và Heteroderag lucines, trong khi đó Shane và Barker
(1986) tìm thấy tuyến trùng nốt sưng M.incoginta làm giảm số lượng chiều dài
rễ đậu tương. Powell (1984) công bố 3 loài TTNS M. arenaria, M. javanica và
M.incognita trong đó có loài M. incognita kí sinh gây hại nặng trên thuốc lá
Griffin và ctv (1986) tìm thấy loài M. hapla là loài gây hại ở Lohontana
vàMoapa. Jepson (1987) cũng đưa ra tài liệu phân loại khác so với số loài TTNS
là 51 trong đó có 2 loài mới Feng Ruzhen (1989) cho biết các loài M. incognita;
M arenaria; M. hapla và M. javanica gây hại rễ quan trọng nhất (trên 98% từ
1984-1988), trong đó M. incognita xuất hiện vào tháng 1 ở phía Bắc và tháng 7
ở Miền Nam Trung Quốc. Hai loài M. hapla và M. javanica tìm thấy ở Quảng
Tây, Quảng Đông. Toida và cộng sự (1996) cho biết có 4 loài: M. graminicola,
M. hapla, M.incognita và M. javanica trong 24 giống tuyến trùng kí sinh thực
vật ở Thái Lan từ1987-1990. Số lượng loài trong giống Meloidogyne được xác
định ngày một tăng. Cuối năm 1994 đã phân loại được 79 loài (phần lớn do
Kleynhans, 1991 giám định), 75 loài o Eisenback và 62 loài do Hischmann
Triantaphyllou (1991) giám định; năm1995 là 80 loài.
10
10
Chất kích thích sinh trưởng đã được ghi nhận có liên quan đến việc hình
thành nốt sưng do Meloidogyne spp là auxin đã được tìm thấy trong nốt sưng
(Balasubramania và Rangaswani, 1962; Setty và Wheeler, 1986) VIglierchio và
Yu (1968) tìm ra auxin trong tuyến trùng tuổi 2 và bọc trứng của một vài loài
tuyến trùng sưng rễ. Nhưng Sandstedt và Schuster (1996) kết luận rằng auxin
không thoát ra từ mô thực vật cũng không phải từ tuyến trùng (M.incognita) thay
vào đó họ đề xuất rằng tuyến trùng kích thích cây sử dụng auxin nội sinh. Chất
kích thích sinh trưởng có thể kết hợp một loài tuyến trùng đặc biệt dù cây ký chủ
khỏe mạnh chứa auxin thông thường (Viglierchio và Yu, 1986). Một báo cáo khác
của Viglierchio (1971) cho rằng dù loại auxin nào của tuyến trùng đều có thể tiết
cây ký chủ nếu hàm lượng auxin thông thường cao. Điều này giải thích rằng các
cây ký chủ khác nhau phản ứng với M.graminicola là khác nhau (Soomro và
Hague,1992).(Slineger và Brird, 1978; O’Brien và Fisher, 1981) đã cho rằng rễ
bên xuất hiện chậm chứ không phải bị ức chế. Sự tăng nhanh của các rễ bên sau
khi tuyến trùng xâm nhập cũng đã được quan sát (Bridge và Hague, 1974; Price,
1979: Rawsthorne và Hague, 1985), và các rễ bên có hiện tượng cụm lại thành bụi
được báo cáo bởi Soomro và Hague (1990) trong khi Roy (1973) quan sát thấy
lông hút trên nốt sưng bị tuyến trùng xâm nhập các rễ bên. Cũng trong thí
nghiệm này các rễ bên phát triển trên nốt sưng nhưng tương đối dày và có thể dài
ra tùy thuộc vào điều kiện môi trường như nhiệt độ và thời gian qua sát. Sự phát
triển của rễ bên trên nốt sưng góp phần tăng thêm tổng số rễ
Feng Ruzhen (1986) xác định 4 loài TTNS gây hại nhiều vùng ở Quảng
Tây, Trung Quốc trong đó chủng 1 của loài M. incognita hại trên đậu, hồ tiêu, cà
chua, đay, giền; chủng của1 M. javanica trên mướp; chủng của 1 M.arenaria hại
trên cây lạc.Ge roges (1983)de Guiran giới thiệu 4 loài tuyến trùng nốt sưng gây
hại trên cà rốt, củ cải, thuốc lá, cà chua và mốt số cây dại
Griffin và ctv (1986) tìm thấy loài M. hapla là loài gây hại ở Lohontana
và Moapa. Jepson (1987) cũng đưa ra tài liệu phân loại khác so với số loài
11
11
TTNS là 51 trong đó có 2 loài mới Feng Ruzhen (1989) cho biết các loài M.
incognita; M arenaria; M. hapla và M. javanica gây hại rễ quan trọng nhất (trên
98% từ 1984-1988), trong đó M. incognita xuất hiện vào tháng 1 ở phía Bắc và
tháng 7 ở Miền Nam Trung Quốc. Hai loài M. hapla và M. javanica tìm thấy ở
Quảng Tây, Quảng Đông. Toida và cộng sự (1996) cho biết có 4 loài: M.
graminicola, M. hapla, M. incognita và M. javanica trong 24 giống tuyến trùng
kí sinh thực vật ở Thái Lan từ 1987-1990.
2.1.2. Kí chủ và phạm vi phân bố.
Tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne spp. được coi là nhóm tuyến trùng ký
sinh quan trọng nhất cho nền kinh tế nông nghiệp trên toàn thế giới và ký sinh
hầu hết ở các cây trồng quan trọng ở các vùng khí hậu khác nhau. Đây cũng là
loài ký sinh gây hại phổ biến nhất trên cây trồng Việt Nam, tuyến trùng nốt sưng
ký sinh trên 100 loài thuộc 76 họ thực vật, trong đó chúng ký sinh gây hại phổ
biến nhất ở hồ tiêu, cà phê, cà chua, bí đỏ, đu đủ, các cây họ cà, họ đậu, chuối.
TTNS gây hại quan trọng trên giống chuối Dwarf Cavendish ở Nam Phi.
Milne và Kuhn (1968) tìm ra loài M. javanica, loài M. javanica và M. arenaria
trên chuối ở Zimbabwe và M. incognita ở Nam Phi. Có 84% trong 369 mẫu rễ
xác định có tuyến trùng nốt sưng với số lượng trung bình là 153 ấu trùng tuổi 2
trong 5g rễ chuối (Jones và Milne, 1982). M. javanica là loài ưa nóng, có ý
nghĩa kinh tế trong sản xuất nông nghiệp nhiệt đới và cận nhiệt đới. Loài M.
incognita và M. arenaria đều cùng có mặt và gây hại bộ rễ trên cây cà chua
(Stoyanov, 1980). Taylor, Sasser và Nelson (1982) công bố các loài TTNS có
phạm vi kí chủ rộng nhất thế giới, làm giảm năng suất của các cây trồng nhiệt và
cận nhiệt đới. Hedwig Hirschmann (1986) cho biết loài M. hispanica hại rễ đào,
ớt, dưa hấu, thuốc lá ở Tây Ban Nha, bông và đậu không phải là kí chủ.
Song Xie Song và Sharma (1993) chỉ ra rằng trong các đất trồng lạc ở
Trung Quốc tuyến trùng nốt sưng M. arenaria, M. hapla gây hại nặng trên đất cát
pha hơn là đất thịt ở những vùng chuyên canh từ năm 1958. Trong 4000 giống
12
12
lạc được thử nghiệm với loài M. hapla ở Trung Quốc thì có 2 giống có khả năng
chống bệnh cao, 18 giống ở mức trung bình. Các loài M. javanica, M. arenria,
M. incognita và M. megadora phân bố ở các vùng trồng chuối của Phúc Kiến
( Trung Quốc) có tỉ lệ bệnh cao, làm giảm năng suất lớn (Zhou và Xie, 1992).
Theo Gowen (1995) cho biết các giống chuối ở nhiều vùng trên thế giới đều
mẫn cảm với TTNS và thường kết hợp với một số loài tuyến trùng khác cùng
gây hại như Pratylenchus coffeae, Helicotylenchus multicinctu. Toida và cộng
sự (1996) cho thấy: loài M. graminicola gây hại cây lúa; M. hapla trên khoai tây;
M. javanica trên đậu xanh và thuốc lá vùng Chiang Mai; M. incognita trên cây
mướp đắng ở Nonthan Buri (Thái Lan).
2.1.3. Đặc điểm sinh học của tuyến trùng nốt sưng.
Trứng của tuyến trùng nốt sưng được con cái đẻ ra ngoài trong một bọc
gelatin (còn gọi là bọc trứng) nằm trên bề mặt của sần rễ. Đôi khi các bọc trứng
này cũng có thể nằm bên trong nốt sưng. Sau quá trình phát triển của phôi thai,
trứng phát triển thành ấu trùng tuổi 1 ngay bên trong trứng. Lần lột xác thứ nhất
xảy ra trong trứng và phát triển thành ấu trùng tuổi 2 dạng cảm nhiễm (IJ2)
không cầm có sự kích thích của rễ thực vật.
Ấu trùng cảm nhiễm có thể xâm nhập vào rễ ngay cạnh nốt sưng hoặc có
thể xâm nhập vào rễ mới. Khi chưa gặp cây ký chủ thích hợp chúng có thể tồn
tại một thời gian ngắn, thậm chí chúng có thể tồn tại trong thời gian tương đối
dài trong đất. Như vậy,thực tế chỉ có thể tìm thấy IJ2 của tuyến trùng này có mặt
ở trong đất.
Khi chuẩn bị xâm nhập vào rễ IJ2 tập trung dọc theo các tế bào non ngay
tại phía sau vùng đỉnh rễ. IJ2 tấn công vào các mô phân sinh ở đỉnh rễ, nơi các
rễ bên mọc ra tạo nên điểm xâm nhập cho các IJ2 khác làm cho bề mặt rễ bị tổn
thương. Có sự khác nhau về tính chất dẫn dụ giữa các thực vật mẫn cảm và
kháng chịu đối với IJ2, nếu cả 2 loại cùng hiện diện thì rễ cây mẫn cảm bao giờ
cũng hấp dẫn hơn cho sự xâm nhập của IJ2. Tuy nhiên, bản chất của tính dẫn dụ
13
13
do các chất tiết ra từ rễ để kích thích sự xâm nhập của IJ2 chưa được làm rõ.
Nhiều chất vô cơ và hữu cơ được tiết ra tạo thành sự chênh lệch giữa bề mặt rễ
và đất có ảnh hưởng đến tuyến trùng. CO2 được tiết ra từ rễ là chất có vai trò
quan trọng nhất cho sự tấn công của tuyến trùng. Khi IJ2 tiếp xúc với bề mặt rễ
chúng thường dùng kim chích hút chích và xâm nhập vào rễ cây. Sự xâm nhập
của chúng có thể xảy ra ở bất cứ phía nào của rễ và sự phát triển của rễ sẽ dừng
lại trong một thời gian ngắn.
Sau khi xâm nhập vào trong rễ tuyến trùng di chuyển giữa các tế bào vỏ rễ
để đến vùng kéo dài của tế bào làm cho tế bào bị tách dọc ra, sau đó tuyến trùng
định vị tại vùng mô phân sinh của vỏ rễ và bắt đầu quá trình dinh dưỡng. Khi
dinh dưỡng tuyến trùng cắm phần đầu vào các tế bào mô mạch của rễ, tiết men
tiêu hóa làm cho quá trình sinh lý sinh hóa của mô rễ thay đổi và hình thành các
điểm dinh dưỡng cho tuyến trùng. Nốt sưng thường được hình thành 1–2 ngày
sau khi tuyến trùng xâm nhập.
Bản thân tuyến trùng cảm nhiễm, sau khi xâm nhập vào rễ cũng bắt đầu
một cách nhanh chóng quá trình thay đổi về hình thái : cơ thể chúng phình ra và
các nội quan cũng dần được phát triển. Qúa trình phát triển của tuyến trùng
trong rễ từ IJ2 trải qua 3 lần lột xác và đạt đến trưởng thành. Lần lột xác cuối
cùng là sự biến thái đối với con đực, từ dạng cuộn gấp khúc trong IJ4 chúng
được nở ra và có dạng hình giun, trong khi đó con cái có dạng hình tròn như quả
lê hay quả chanh yên
Tuyến trùng Meloidogyne spp. sinh sản bằng 2 cách : một vài loài sinh
sản hữu tính giao phối bắt buộc và phần lớn là sinh sản lưỡng tính không cần
con đực. Ở những loài này tỷ lệ tuyến trùng đực và cái trong một quần thể
thường không công bằng và có thể thay đổi, trong đó tỷ lệ con đực phụ thuộc
vào vật chủ và các điều kiện môi trường.
Tuyến trùng nốt sưng có quan hệ mật thiết với điều kiện môi trường trong đó
cây kí chủ, nhiệt độ và các yếu tố sinh thái như độ ẩm, cấu trúc đất, độ thoáng
14
14
khí, độ kiềm… có ảnh hưởng lớn đến sự sống sót, khả năng sinh sản, số thế hệ
trong năm và hiệu quả gây hại dối với thực vật do tuyến trùng gây ra
2.1.4 Biện pháp phòng trừ
Ngăn ngừa và phòng ngừa tuyến trùng là giải pháp đầu tiên quan trọng
nhất trong quản lý tuyến trùng, vì nó là biện pháp đơn giản để giải quyết tuyến
trùng trước khi chúng trở thành vật hại được xác định trên đồng ruộng, để rồi
sau đó phải diệt trừ hoặc quản lý chúng. Ngăn ngừa cũng được coi như phòng
bệnh, chúng bao gồm nhiều biện pháp khác nhau như sản xuất nguồn giống
sạch, sử lý giống bị nhiễm tuyến trùng trước khi gieo trồng, kiểm tra và vệ sinh
đồng ruộng trước khi trồng, ngăn ngừa tuyến trùng lan truyền theo người, máy
móc, dụng cụ nông nghiệp hoặc lan truyền theo nước tưới.
các biện pháp phòng trừ khác như phơi ải, ngâm dầm đất ruộng, thay đổi cơ cấu
giống cây trồng, xử lí đất kết hợp với bón phân hữu cơ mang lại hiệu quả đáng
kể, các biện pháp sinh học, hóa học, vật lí củng được áp dụng hiệu quả.
Stephanov (1963) thực hiện việc luân canh cây thuốc lá với công thức thuốc lálúa mì-bông và thuốc lá-bông-lúa mì (thuốc lá ở cả 2 ông thức đều có nguồn
tuyến trùng) thì sản lượng thuốc lá cao hơn hẳn so với công thức trồng thuốc lá
liên tục.
Luân canh được coi là biện pháp quản lý tuyến trùng đơn giản. Trong luân
canh cây trồng để quản lý các cây trồng mẫn cảm với mọt số loài tuyến trùng đã
được trồng luân canh với các cây kháng hoặc miễn nhiễm tuyến trùng. sự luân canh
cần phải trồng như thế nào để mật độ quần thể tuyến trùng ở mức thấp nhất khi
trồng cây trồng chính. Ví dụ, cà chua là một loại cây kinh tế cao nhưng lại rất mẫn
cảm với các loài tuyến trùng gây sưng rễ (Meloidogyne) phổ biến. Sau khi thu
hoạch cà chua, quần thể tuyến trùng trong đất rất cao và vụ cà chua thứ 2 có thể bị
gây hại nặng nếu không trồng luân canh một cây trồng hợp lý. Trong trường hợp
tuyến trùng hại cà chua không phải là M. hapla hoặc 1 chủng của M. arenaria thì
có thể luân canh bằng cây lạc, là cây không có nguy cơ bị hại bởi hầu hết các loài
15
15
khác nhau của giống Meloidogyne. tuyến trùng không thể sinh sản trên rễ lạc, nhiều
ấu trùng trong đất sẽ chết hoặc trở thành ấu trùng không có khả năng nhiễm do bị
đói hoặc do tấn công của vật ăn thịt, nấm hoặc bệnh khác.
Biện pháp canh tác như làm khô ruộng, hầu hết tuyến trùng trong trạng
thái hoạt hoạt động rất mẫn cảm với sự khô nhanh. Khi chuyển chúng trực tiếp
từ nước vào một môi trường có độ ẩm tương đối thấp hặc có áp suất thẩm thấu
cao, chúng có thể bị chết trong 1 vài phút. Biện pháp bón phân hữu cơ giúp bổ
xung chất hữu cơ cải thiện đáng kể tình trạng của đất. Thực vật đang phát triển
trên nền đất giàu chất hữu cơ thường sinh trưởng tốt hơn và không bị stress. Sự
phân hủy chất hữu cơ gây độc cho tuyến trùng. Đặc biệt, sự phân giải các chất
phế thải thực vật giải phóng các chất axit hữu cơ như axetic, propionic và
butyric. Nồng độ các chất này có thể được lưu giữ một vài tuần trong đất và có
thể giết chết một vài loài tuyến trùng, nhưng không độc đối với nhóm tuyến
trùng sống tự do trong đất. Thí nghiệm dùng phân chuồng ủ hoai mục bón cho
hồ tiêu với lượng 20kg/gốc tiêu tại xí nghiệp Liên hiệp Hồ tiêu Tân Lam Quảng
Trị cho thấy mật độ tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne incognita giảm so với đối
chứng từ 45-60% (Nguyễn Ngọc Châu, 1994).
Quản lí tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne spp., bằng chất thải hữu cơ
như rác thải (RD), trấu (RH) và mùn cưa (SD) trên cà chua, chất thải hữu cơ
được áp dụng ở mức 15, 30 và 45 tấn mỗi ha. Kết quả cho thấy RD cho hiệu quả
tốt nhất (p=0.05) giảm cao nhất trong quần thể giun tròn so với dùng
nonamended, tăng năng suất cà chua tới 17-100% đối với RD, 13-84% đối với
SD và 21-63% đối với RH (M. A. Hassan1, 2010).
2.1.5. Ảnh hưởng của môi trường lên quần thể tuyến trùng.
Tuyến trùng phát triển hoàn thành một vòng đời phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện ngoại cảnh mà nhiệt độ là yếu tố có ý nghĩa to lớn nhất. Phân làm 2
nhóm sinh thái liên quan tới nhiệt độ là nhóm ưa nóng và nhóm ưa lạnh, liên
quan đến pha chuyển hóa lipit của tuyến trùng xảy ra ở 10°C. Tác hại của tuyến
16
16
trùng gây ra đối với cây trồng thường liên quan đến loại đất kiềm tạo ra các
trạng thái stress cho cây trồng. nhiều loài tuyến trùng có nguy cơ bị tiệt chủng
do nơi ở bị phá hủy hoặc do hóa chất được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp.
Tuyến trùng nốt sưng với khả năng tồn tại ở các điều kiện môi trường khác nhau
là khác nhau chúng tồn tại ở điều kiện bất lợi ở trạng thái ngỉ hoặc trạng thái
phát triển ngỉ.
Tuyến trùng nốt sưng có quan hệ mật thiết với các điều kiện môi trường,
trong đó cây chủ, nhiêt độ và các yếu tố sinh thái như độ ẩm, cấu trúc đất, độ
thoáng khí, độ kiềm…có ảnh hưởng tới sự sống sót, khả năng sinh sản, số thế hệ
trong năm và hiệu quả gây hại đối với thực vật của tuyến trùng gây ra. Phân làm
2 nhóm sinh thái liên quan tới nhiệt độ là nhóm ưa nóng và nhóm ưa lạnh, liên
quan đến pha chuyển hóa lipit của tuyến trùng xảy ra ở 10°C. Tác hại của tuyến
trùng gây ra đối với cây trồng thường liên quan đến loại đất kiềm tạo ra các
trạng thái stress cho cây trồng. nhiều loài tuyến trùng có nguy cơ bị tiệt chủng
do nơi ở bị phá hủy hoặc do hóa chất được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp.
Tuyến trùng nốt sưng với khả năng tồn tại ở các điều kiện môi trường khác nhau
là khác nhau chúng tồn tại ở điều kiện bất lợi ở trạng thái ngỉ hoặc trạng thái
phát triển ngỉ. Griffin (1986) công bố loài M. hapla gây hại ở nhiệt độ 15, 20 và
25˚C, ở 10˚C không gây hại tại vùng Lohontana và Moapa (Colombia). Loài M.
incognita phát triển ở nhiệt độ 27-28˚C các vùng phía Bắc và Nam Trung Quốc
(Yang và cộng sự, 1988). Ở Brazil, Lima và Ferraz (1985) cho biết: ở nhiệt độ
25 và 30ᵒC thời gian loài M. exigua lột xác lấn thứ nhất sang giai đoạn tuổi 2 là
10-15 ngày; 16-19 ngày ở 20ᵒC; 29-32 ngày ở 15ᵒC và không xuất hiện ở 35ᵒC.
Tuyến trùng tuổi 2 ở trong đất và di chuyển đến đầu rễ sinh trưởng ở nhiệt độ
thích hợp là 25˚C (Kuhn và Frank, 1968).
Theo Taylor và Sasser (1978) trong điều kiện bất lợi loài M. incognita
phát triển chậm và các giai đoạn phát triển của tuyến trùng này không xuất hiện
17
17
trong mô cây và tỉ lệ bệnh thấp. Tuyến trùng M. arenaria tạo các u sưng lớn trên
bộ rễ của một số giống lạc, loài M. hapla taọ các u sưng nhỏ tròn hơn.
Tuyến trùng nốt sưng M incognita trên cây thuốc lá có chu kì phát triển là
30 ngày ở 28˚C, nhiệt độ thích hợp cho quá trình trứng phát triển đến giai đoạn
ấu trùng tuổi 1 là 25-30˚C (Taylor và Sasser, 1978). Ở điều kiện nhiệt độ 20˚C
thì chu kì phát triển kéo dài 57-59 ngày. Ở nhiệt độ 15-30˚C, ẩm độ 40-60% thì
tuyến trùng nốt sưng phát triển mạnh, còn trong điều kiện khô hạn hoặc ngâm
nước thì số lượng ít hơn (Van Gundy, 1985). Cũng theo Van Gundy thì nhiệt độ
ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển của trứng, khả năng hình thành vỏ
trứng, giai đoạn phát triển và sinh sản cũng như tồn tại của tuyến trùng.
Theo Inserra và Griffin (1983) loài M. javanica phát triển trong khoảng
nhiệt độ từ 25-35˚C (chu kì phát triển dài 9-10 ngày ở 30˚C và 11-13 ngày ở
25˚C) ở nhiệt độ 10˚C thì thời gian phát triển từ trứng đến ấu trùng tuổi 1 của
loài M. chitwood là 82-84 ngày và là 95-97 ngày của loài M. hapla (Inserra và
Griffin, 1983).
Điều kiện nhiệt độ đất cao thì tuyến trùng có xu hướng di chuyển đi chỗ
khác, Carter và Williiam (1982) cho biết nhiệt độ đất 35˚C thì khả năng tồn tại
của tuyến trùng thể hiện không rõ rệt.
Griffin (1986) công bố loài M. hapla gây hại ở nhiệt độ 15, 20 và 25ᵒC
còn ở 10ᵒC thì không hại tại vùng Lohontana và Moapa (Colombia). Loài M.
incognita phát triển ở nhiệt độ 27-28ᵒC các vùng phía Bắc và Nam Trung Quốc
(Yang và cộng sự, 1988).
2.2. Nghiên cứu trong nước.
Việt Nam trước những năm 1960 những nghiên cứu về tuyến trùn nốt
sưng rất ít được quan tâm. Cho tới nay những nghiên cứu về tuyến trùng vẫn còn
nhìêu hạn chế. Nguyễn Quang Thọ (1963) đã đưa ra phương pháp phát hiện
tuyến trùng hại khoai lang bằng cách cắt dọc củ và quan sát những đường cong
queo trong ruột củ. Phương pháp tách tuyến trùng trong hạt thóc bằng phương
18
18
pháp “muỗng” và hướng dẫn mốt số biện pháp phòng trừ như xử lí nhiệt ( nước
nóng 52-54˚C). Phan Quốc Sủng (1978) nghiên cứu tuyến trùng nốt sưng hại
chè mới trồng tại Chí Linh.
Nguyễn Thị Me (1978) đã khảo sát trên 32 họ thực vật, 107 loài cây trồng
và cây dại vùng Từ Liêm Hà Nội.
Kết quả khảo sát của Bùi Lạng (1986) trên thuốc lá vàn ở Lạng Sơn
(1978-1981) cho tháy tuyến trùng nốt sưng gây hại làm giảm 21,7% chiều cao
cây và 37,2% tốc độ ra lá. TTNS hại nặng nhất ở Mai Kha và Khôn Thác. TLB
100% trên đất cát pha và đất ven sông. Còn đất thịt nhẹ và đất thịt nặng chỉ
chiếm 2,2 -16,2%. Công thức luân canh thuốc lá – khoai lang - thuốc lá có TLB
100%, rau - thuốc là 96,2%, thuốc lá – lúa mùa TLB là 38,5%.
Đoàn Cảnh (1977) đã nghiên cứu tuyến trùng nốt sưng trên lúa ở miền
Bắc Việt Nam. Nguyễn Bá Khương (1977) công bố về kết quả sự phân bố của
tuyến trùng nốt sưng trên các loại rau và xác định trên 32 loại trong đó cà chua,
thuốc lá là các cây có sự gây hại nặng của tuyến trùng.
Theo Nguyễn Bá Khương (1977) tuyến trùng nốt sưng M. javanica còn
gây hại trên nhiều loại cây: chuối vùng Thủ Đức, Hóc môn, Củ Chi và Long
Khánh; bong ở Phan Rang; cà chua, thuốc lá, củ đậu; dứa ở Di Linh và Đức
Trọng, Thành Phố Hồ Chí Minh. Số mẫu hiện diện là 16,5% trên cà chua, thuốc
lá, chuối, dứa,…và được coi là một trong ba giống tuyến trùng nốt sưng quan
trọng nhất.
Nguyễn Ngọc Châu – Vũ Thanh – Đoàn Cảnh (1985) đã công bố tài liệu
về tuyến trùng nốt sưng ở miền Bắc Việt Nam gồm 3 loài M. incognita, M.
arenaria và M. javanica.
Phương pháp tách tuyến trùng từ đất và mô thực vật Những thành tựu
khoa học kỹ thuật đưa vào sản xuất . Meloidogyne incognita là loài ký sinh gây
hại nguy hiểm nhất, có khả năng phá hủy các vườn ươm thuốc lá và hồ tiêu ở
nước ta (Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Vũ Thanh 1992).
19
19
Võ Mai, Nguyễn Hữu Huân và cộng sự, 1988, đã đưa ra một số nhận xét
về tuyến trùng hại hồ tiêu và biện pháp phòng trừ tại Đức Linh (Thuận Hải). Với
lượng mưa từ 111,6-441,6 mm trong các tháng 5-10 năm 1978 thì mật độ TTNS
tăng nhanh từ tháng 5 đến tháng 8 (236-794,7 con/200g đất) và giảm nhiều nhất
là vào tháng 10 là 131,8 con/200g đất.
Trong tổng 44 loài ở 18 giống, 13 họ và 3 bộ tuyến trùng hại khoai tây
thì có 4 loài TTNS M.incognita, M.javanica, M.arenaria và Meloidogyne sp. Có
mặt phổ biến nhất ở Việt Nam là vùng Hải Hưng, Thái Bình, Hà Tây,Nam Hà,
Đà Lạt, Hà Nội (Nguyễn Thị Minh Nguyệt, 1992). Thí nghiệm dùng phân
chuồng ủ hoại mục bón cho hồ tiêu với lượng 20kg/gốc tiêu tại Xí nghiệp Liên
hiệp Hồ tiêu Tân Lâm Quảng Trị cho thấy mật độ tuyến trùng sần rễ M.incoginta
giảm so với đối chứng từ 45-60% (Nguyễn Ngọc Châu, 1994). Một số cây trồng
hoang dại và cây hoang dại cũng đã được sử dụng làm thuốc thảo mộc phòng trừ
tuyến trùng như hạt cây củ đậu, rễ cây ruốc cá, hạt và lá cây sầu râu rừng ở Việt
Nam do chúng chứa các hợp chất phenolic, glucid hoặc các chất alkaloit có tác
dụng gây độc giết tuyến trùng và một số sâu hại khác. Thí nghiệm dùng bột quả
và bột lá cây sầu dâu rừng phòng trừ tuyến trùng sần rễ Meloidogyne incognita ở
hồ tiêu Tân Lâm (Quảng Trị) và cà chua Vân Nội (Đông Anh) cho kết quả khá
tốt, với liều lượng 40-60gr HBJ Hoặc LBJ (chế phẩm dạng bột chế biến từ quả
hoặc lá cây sầu dâu rừng)/ m² cho hiệu quả phòng trừ từ 75-98% (Nguyễn Ngọc
Châu, Nguyễn Vũ Thanh, 1993; Nguyễn Thị Yến, 1997). Hiệu quả này tương
đương hoặc cao hơn một số thuốc hóa học đặc hiệu.
20
20
PHẦN III
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Tuyến trùng nốt sưng meloidogyne spp.
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu:
- Các cây trồng cạn cây dại và giống cà chua phổ biến ngoài đồng ruộng
khu vực Hà Nội.
- Mẫu đất trồng các cây trồng cạn: cà chua, cà tím, mướp, khoai tây, bầu
bí, mồng tơi, cải ngọt, bắp cải, ngô, đậu tương
Dụng cụ nghiên cứu:
+ Kính hiển vi, kính lúp soi nổi
+ Dụng cụ lấy mẫu đất
+ Dụng cụ lấy mẫu tuyến trùng : lam, lamen, kim khêu tuyến trùng
+ Bộ khay lọc Whitehead
+ Nước cất, hóa chất cố định tuyến trùng, dung dịch ngâm và nhuộm
+ Ống nghiệm, lọ penicillin, hộp petri, túi nilon, giấy lọc, bông, rây lọc,
cốc đong, pipet
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Vùng trồng cà chua các cây trồng cạn khác tại Hà Nội.
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 1/2017 tới tháng 7/2017
3.2.3 Nội dung nghiên cứu.
Điều tra tình hình gây hại tuyến trùng nốt sưng gây hại trên các cây trồng
cạn tại Hà Nội.
-Thu mẫu các cây trồng cạn bị tuyến trùng nốt sưng gây hại tại khu vực
Hà Nội.
- Mô tả hình thái của tuyến trùng nốt sưng meloidogyne từ các mẫu thu được.
21
21
- Xác định phổ kí chủ của tuyến trùng nốt sưng meloidogyne tại vùng Hà Nội.
- Đánh giá mật độ tuyến trùng nốt sưng tuổi 2 thích hợp để lây bệnh nhân tạo.
- Đánh giá ảnh hưởng của nền đất đến tình hình bệnh tuyến trùng nốt sưng
trên cây trồng cạn.
- Đánh giá khả năng gây hại của tuyến trùng nốt sưng meloidogyne trên 1
số giống cà chua trồng phổ biến.
3.3. Phương pháp nghiên cứu.
3.3.1. phương pháp điều tra
Theo QCVN 01-38:2010/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng và phương pháp nghiên cứu
bảo vệ thực vật tập I, năm 1997 của Viện Bảo Vệ Thực Vật. Mỗi ô chọn 5 điểm
cố định nằm trên 2 đường chéo góc (đối với khảo nghiệm diện hẹp) và 10 điểm
(đối với khảo nghiệm diện rộng), mỗi điểm điều tra toàn bộ số rễ trên 10 cây cố
định, các điểm này nằm cách mép ô khảo nghiệm ít nhất 2m.
Quan sát triệu chứng điển hình của bệnh, đánh giá mức độ nhiễm bệnh
- Phương pháp thu mẫu và bảo quản:
+ Đào toàn bộ có triệu chứng u sưng. Mẫu thu được cho vào túi, ghi ngày
lấy mẫu, địa điểm, giống. Mẫu đất để đủ ẩm, mẫu rễ bảo quản ở 4ºC. Những
mẫu rễ dùng để quan sát tuyến trùng nên được giữ trong điều kiện ẩm ướt, mẫu
vật nên được bảo quản trong điều kiện lạnh 5-10 độ C, nếu cao quá hoặc thấp
quá có thể ảnh hưởng không tốt đến tuyến trùng.
3.3.2 phương pháp thu mẫu bảo quản mẫu
Những cây còi cọc 1 cách bất thường có thể có bộ rễ quá nhỏ để chứa một
số lượng lớn tuyến trùng và vì vậy để có thể thu được lượng tuyến trùng mong
muốn cần phải thu nhiều mẫu rễ hơn.
Những mẫu đất và mô thực vật dùng để quan sát tuyến trùng nên được giữ
trong điều kiện ẩm ướt .Dùng túi nylon để chứa các mẫu đất và rễ là tốt nhất .
22
22
Các phần trên của thực vật thường bị phân hủy nhanh hơn rễ và tốt nhất là
bảo quản chúng trong những túi nylon riêng nếu muốn giữ một hoặc hai ngày .Mẫu
vật nên được bảo quản trong điều kiện lạnh 5-10 độ C, nếu cao quá có thể ảnh
hưởng không tốt đến tuyến trùng .tránh tác động trực tiếp của tia nắng mặt trời
3.3.3. Phương pháp quan sát trực tiếp
- Quan sát trực tiếp tuyến trùng từ mẫu đất và mô thực vật
- Tuyến trùng có thể dễ dàng quan sát từ mô thực vật bằng kính lúp và
kính hiển vi. Để quan sát được tuyến trùng, trước hết rửa sạch toàn bộ rễ một
cách cẩn thận, sau đó đặt mô thực vật vào trong đĩa Petri và thêm vào một ít
nước sạch để quan sát. Các dạng tuyến trùng ký sinh di động có thể di chuyển từ
những mô bị nhiễm ra ngoài nước và có thể quan sát. Các dạng tuyến trùng ký
sinh di động có thể di chuyển từ những mô bị nhiễm ra ngoài nước và có thể
quan sát
-Phương pháp nhuộm màu tuyến trùng
-Đây là kỹ thuật cần thiết để quan sát trực tiếp tuyến trùng và có thể cả
trứng bên trong rễ. Dung dịch nhuộm bao gồm: axit lactic, axit axitaxetic,nước
cất, axit fuchsin, glyxerol.
- Phương pháp :
- Rửa sạch rễ với nước
- Ngâm rễ trong javel 1% trong 3 phút
- Rửa rễ với nước trong 2 – 5 phút
- Ngâm rễ trong 1ml axit fuchsin + 29ml H 2 O
- Làm nóng trong lò vi sóng 1 phút, để nguội làm nóng lần 2 khoảng 1 phút
- Rửa sạch bằng nước lã
- Mô đã nhuộm ngâm trong dung dịch 1 H 2 O : 1 axit lactic : 1 axit acetic
- Sợi rễ đã nhuộm trên kính lúp soi nổi và kính hiển vi quang học. Tuyến
trùng tuổi 2, con cái và trứng sẽ nhuộm màu đỏ còn mô thực vật hầu như trong
suốt và có thể dễ dàng quan sát.
23
23
3.3.4. Các phương pháp tách tuyến trùng từ đất và mô thực vật
Phương pháp tách tuyến trùng ra khỏi mẫu đất
- Tách tuyến trùng ra khỏi mẫu đất là việc cần thiết sau khi thu thập được
mẫu phục vụ cho công tác nghiên cứu giám định.
* Phương pháp khay lọc Whitehead :
1. Đặt 1 rây lọc lên 1 cái bát to, trên rây có lót 1 lớp giấy thấm dày.
2. Đổ nước vào rây sao cho mặt nước cách mặt rây khoảng 2cm.
3. Nhẹ nhàng đặt đất hoặc rễ trong nước rây, chú ý không làm rách giấy
lọc, tuyến trùng sẽ tập trung lại trong nước bên dưới lớp giấy thấm.
4. Sau 24h, đổ nước vào một cốc đong hoặc lọ thủy tinh và để cho lắng
xuống đáy lọ.
5. Dùng pipet hút nước từ đáy lọ sang 1 đĩa petri nhỏ để kiểm tra dưới
kính lúp soi nổi.
3.3.5 Phương pháp đếm và tính số lượng tuyến trùng
* Kỹ thuật gắp tuyến trùng
- Đa số tuyến trùng có kích thước rất nhỏ nên phải gắp tuyến trùng dưới
kính hiển vi soi nổi ở độ phóng đại thích hợp. Để có thể gắp được dễ dàng cần
điều chỉnh lượng dung dịch tuyến trùng dưới đĩa đếm ở mứcvừa phải sao cho
mức trong đĩa không quá sâu cũng không quá nông. Tay phải cầm kim gắp tuyến
trùng đưa mũi kim vào bên dưới ở giữa cơ thể tuyến trùng đẩy nhẹ để tuyến
trùng nổi lên bề mặt dung dịch. Đồng thời tay trái điều chỉnh kính bám theo sự
nổi lên của tuyến trùng, sau đó đưa kim gắp từ phía dưới vớt tuyến trùng cho
vào một giọt nước cất trên lam bằng cách nhúng nhẹ đầu kim vào giọt nước.
Trước khi gắp con tuyến trùng tiếp theo nên kiểm tra đầu kim gắp xem tuyến
trùng đã được chuyển vào giọt nước hay vẫn còn dính theo kim.
- Có thể dùng pipet để hút tuyến trùng. Đối với tuyến trùng cái hình quả lê
thì phải dùng pipet, panh siêu nhọn, hoặc chổi lông nhỏ để gắp, hút hoặc vớt
chúng.
24
24
* Phương pháp đếm và tính số lượng tuyến trùng
- Tuyến trùng được đếm và tính số lượng bằng đĩa đếm tuyến trùng và
đồng hồ đếm dưới kính lúp soi nổi.
- Trường hợp mẫu có ít tuyến trùng có thể đổ cả tuyến trùng vào đĩa để
đếm. Sau khi lắc nhẹ cho tuyến trùng dàn đều, có thể đếm tuyến trùng theo các
dãy ô cho toàn bộ đĩa hoặc có thể đếm đại diện một số ô hoặc dãy, sau đó tính
trung bình 1 ô và nhân với tổng số ô trong đĩa. Trong trường hợp mẫu có quá
nhiều tuyến trùng có thể pha loãng dung dịch tuyến trùng thành 50ml, sau đó lấy
10ml để đếm, lập đi lặp lại 2 lần đếm như vậy, tính trung bình số lượng tuyến
trùng trên và nhân với 5.
* Phương pháp giết chết tuyến trùng
- Đun nóng dung dịch có tuyến trùng trong ống nghiệm bằng cách đặt ống
nghiệm trong nước sôi (hoặc lò vi sóng). Có thể nhỏ giọt tuyến trùng vào lam để
vào tủ sấy 70ºC trong vòng 1 phút. Tuyến trùng chết sẽ duỗi thẳng trên lam kính.
3.4.Các thí nghiệm nghiên cứu
Thí nghiệm 1: Đánh giá khả năng gây hại của tuyến trùng nốt sưng
hại cây cà chua M.incognita trên một số cây dại.
-
Thí nghiệm được tiến hành trên chậu vại
Cây cỏ dạ: nhọ nồi, cỏ 3 cạnh, cỏ lồng vực cạn,mần trầu.
Thí nghiệm tiến hành 3 cây trên 1 công thức
Chỉ tiêu theo dõi: sau 60 ngày đánh giá kết quả thí nghiệm số nốt sưng, số tuyến
trùng tuổi 2 thu được.
Thí nghiệm 2: Đánh giá mức độ gây hại của tuyến trùng nốt sưng đối
với một số giống cà chua trong điều kiện chậu vại.
-
Giống: cà chua VA 125,cà chua lai VA 71, Cà chua Pear F1
Lây 200 con tuyến trùng tuổi 2 vào các giống
Mỗi giống lây tuyến trùng trên 3 cây
Chỉ tiêu theo dõi: sau 60 ngày đánh giá kết quả thí nghiệm số nốt sưng,số tuyến
trùng tuổi 2 thu được.
3.5. Các chỉ tiêu theo dõi :
25
25