Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN QLKT phương pháp kinh tế trong quản lí xã hội về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.04 KB, 31 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền kinh tế thị trường cũng như quá trình hội nhập kinh tế thế đang đặt
chúng ta trước nhiều cơ hội, thách thức lớn và tri thức về quản lý Kinh tế - xã
hội đang là một trong những vấn đề được đông đảo các nhà xã hội quan tâm.
Quản lý đã trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi
cấp độ và có liên quan đến mọi người. Hoạt động quản lý đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong đời sống xã hội và quản lý như thế nào để đạt hiệu quả
tốt nhất. Đây chúng là việc lựa chọn các phương pháp quản lý. Một trong
những phương pháp quản lý được sử dụng rộng rãi trong công tác quản lý
hiện nay là phương pháp kinh tế. Trong thực tiễn quản lý, con người đem lại
các loại phương pháp quản lý phong phú đa dạng, cụ thể hoá thành kĩ thuật
quản lý. Việc sử dụng phương pháp kinh tế trong thực tiễn đã đem lại những
hiệu quả cao trong quản lí nói chung và quản lí xã hội về kinh tế nói riêng.
Các phương pháp quản lý luôn có mối quan hệ với nhau. Vận dụng tốt
phương pháp quản lý này sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng tốt các phương
pháp kia. Trong điều kiện phát triển và hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay
thì việc sử dụng phương pháp kinh tế xét cho cùng vẫn là phương pháp quan
trọng nhất vì nó thường đem lại hiệu quả rõ rệt, là tiền đề vững chắc và lâu
dài để vận dụng các phương pháp còn lại trong quản lí kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm làm rõ nội dung và vai trò của phương pháp kinh tế, cũng như
tìm hiểu tình hình việc vận dụng phương pháp này trong QLXH về kinh tế.
Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao việc vận dụng phương pháp
kinh tế trong QLXH về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề này mặc dù đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu và cũng
đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên vấn đề này vẫn chưa được đi
sâu nghiên cứu trên một lĩnh vực cụ thể, cũng như việc áp dụng nó còn rất
hạn chế và chua thục sự khoa học, cho nên hiệu quả mang lại chưa cao.
4. Kết cấu tiểu luận


0


Tiểu luận gồm 3 phần: mở đầu, nội dung gồm 3 chương và phần kết
thúc.

1


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1.1 Một số khái niệm cơ bản
- Phương pháp quản lí xã hội về kinh tế là tổng thể các cách thức tác
động có chủ đích của các chủ thể quản lí lên hệ thống kinh tế quốc dân, nhằm
đạt được mục tiêu quản lí kinh tế - xã hội đặt ra.
- Phương pháp kinh tế là sự tác động vào đối tượng quản lí thông qua
các lợi ích kinh tế để cho đối tượng bị quản lí lựa chọn phương án hoạt động
có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động.
- Quản lí xã hội về kinh tế là sự tác động có kế hoạch, sắp xếp tổ chức,
chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn, kiểm tra của chủ thể quản lí xã hội về kinh tế
đối với các quá trình xã hội và hoạt động của con người trong quá trình tổ
chức và quản lí đối với toạn bộ nền kinh tế quốc dân, để chúng phát triển phù
hợp với quy luật, đúng ý chí, đạt được mục đích của chủ thể quản lí, với chi
phí thấp.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN.
1.2. Vai trò của việc sử dụng phương pháp kinh tế trong QLXH về

kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong công tác quản lý, việc xây dựng mục tiêu cũng như hình
thành các nguyên tắc quản lý mới chỉ giúp các nhà quản lý xác định
được những định hướng, chuẩn mực mà họ phải tuân thủ trong quá trình
thực hiện các tác động quản lý, nhưng phải làm thế nào, bằng cách thức
cụ thể nào để đạt mục tiêu đã đề ra là vấn đề chỉ được giải quyết thông
qua các phương pháp quản lý. Phương pháp quản lý nói chung và
2


phương pháp kinh tế nói riêng có liên quan chặt chẽ đến hiệu quả thực
hiện mục tiêu của quản lý, xác định con đường, biện pháp, thủ thuật…
mà các nhà quản lý cần lựa chọn, sử dụng để đạt hiệu quả cao nhất
trong quá trình thực hiện các mục tiêu đề ra.
Quản lý chỉ thành công khi các yếu tố nguồn lực được khai thác
và sử dụng hợp lý trong đó nguồn lực con người đóng vai trò quyết
định. Nhu cầu của con người bao gồm cả hai yếu tố vật chất và tinh
thần. Trong đó vật chất luôn là yếu tố đầu tiên quyết định sự tồn tại của
con người. Do đó sử dụng phương pháp kinh tế sẽ kích thích tối đa sự
tự giác, sáng tạo, tính chủ động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
các nhân viên. Mặt khác khi sử dụng phương pháp kinh tế, chủ thể quản
lý có thể giảm được đáng kể khối lượng công việc bằng việc trao quyền
chủ động cho cấp dưới, nhất là với nghiệp vụ, biện pháp tiến hành các
công việc cụ thể mang tính sự vụ mà vẫn đảm bảo được rằng nhiệm vụ
giao cho cấp dưới có thể được hoàn thành một cách tốt nhất.
Công tác quản lý nói chung, công tác quản lý kinh tế nói riêng
trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay đòi
hỏi các nhà quản lý phải tăng cường sử dụng phương pháp này xuất
phát từ vai trò quan trọng đặc biệt của phương pháp kinh tế.
1.3. Đặc điểm của phương pháp kinh tế

1.3.1. Cơ sở của phương pháp.
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động vào quan hệ kinh tế
của con người, trong đó trước hết và chủ yếu phải nói tới quan hệ về lợi
ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là động lực cơ bản thúc đẩy con người tích
cực lao động, là vấn đề quan trọng đầu tiên của các bên quan tâm trong
quá trình thiết lập và thực hiện các mối quan hệ. Phương pháp kinh tế
thông qua lợi ích kinh tế để tác động, động viên sự năng động, sáng tạo
của các đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chủ thể
quản lý giao cho họ.

3


1.3.2 Đặc trưng của phương pháp.
Việc sử dụng phương pháp kinh tế luôn gắn liền với việc sử dụng
các loại đòn bẩy kinh tế, các hình thức kích thích kinh tế, các mối quan
hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường. Thực chất của phương pháp
quản lý là tác động vào lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý. Điều đó
chỉ được thực hiện thông qua các đòn bẩy kinh tế như thuế, lãi suất, giá
cả, tỉ giá hối đoái (dưới góc độ kinh tế quản lý vĩ mô) hoặc tiền lương,
thưởng, khoán… (dưới góc độ kinh tế vĩ mô).
Phương pháp kinh tế tác động lên đối tượng quản lý không bằng
cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích. Trong đó chủ thể quản lý sau
khi xác định mục tiêu, nhiệm vụ cho đối tượng quản lý sẽ đưa ra những
điều kiện khuyến khích về kinh tế - những phương tiện vật chất có thể
sử dụng để đối tượng quản lý tự lựa chọn phương án phù hợp để thực
hiện có hiệu quả. Lợi ích đó thể hiện qua thu nhập của mỗi người, lấy
lại từ thành quả chung, phù hợp với mức độ lợi ích chung, coi nhẹ lợi
ích cá nhân của mỗi người sẽ làm triệt tiêu động lực của họ. Do đó
người quản lý phải hết sức coi trọng vận dụng phương pháp kinh tế để

đạt hiệu quả tốt nhất trong quản lý.
1.3.3 Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp kinh tế.
Phương pháp kinh tế là phương pháp sử dụng các hình thức kinh
tế khách quan để tác động đến lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý,
dùng lợi ích và thông qua lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý, dùng
lợi ích và thông qua lợi ích để định hướng, hướng dẫn và thúc đẩy hoạt
động của đối tượng quản lý đạt được mục tiêu đề ra với kết quả cao
nhất.
Ưu điểm cơ bản của phương pháp kinh tế ở chỗ nó tác động vào
lợi ích kinh tế, từ đó tạo động lực thúc đẩy con người tích cực lao động.
Động lực đó sẽ càng lớn nếu chủ thể quản lý nhận thức đầy đủ và kết
hợp đúng đắn lợi ích tồn tại khách quan trong tổ chức. Lợi ích của các
cá nhân đạt được đặt trong lợi ích chung của hệ thống. Mỗi đối tượng
4


quản lý vì lợi ích vật chất thiết thân của mình mà phát huy đến mức tối
đa khả năng sáng tạo, tính chủ động trong quá trình thực hiện những
nhiệm vụ mà cấp trên giao cho họ.
Ngoài ra phương pháp kinh tế mở rộng quyền hoạt động cho các
đối tượng quản lý đi đôi với việc tăng cường trách nhiệm kinh tế của
họ. Ý thức tổ chức kỉ luật của người lao động cũng được tăng cường,
tính tự giác được đề cao hơn là những biện pháp mang tính bắt buộc, gò
ép.
Tuy nhiên phương pháp kinh tế cũng có những hạn chế vốn có
của nó. Nếu lạm dụng phương pháp kinh tế sẽ dẫn người ta tới chỗ chỉ
nghĩ lợi dụng ích vật chất, thậm chí lệ thuộc vào vật chất, tiền của mà
quên tinh thần, đạo lý, có thể dẫn tới những hành vi phạm pháp. Động
lực từ lợi ích cá nhân của mỗi người nếu không định hướng và kiểm
soát, nó sẽ dẫn người ta đến chỗ làm ăn phi pháp, phi đạo lý.

1.4 Nội dung của phương pháp kinh tế.
1.4.1. Lợi ích kinh tế.
Nhu cầu của con người là vô cùng phong phú đa dạng, tập trung
vào 2 nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và tinh thần trong đó yếu tố
vật chất luôn đóng vai trò quyết định. Mục đích lao động của con người
là vì lợi ích vật chất. Với mong muốn làm giàu cho bản thân, cho gia
đình và cho xã hội, con người dưới tác động của các lợi ích vật chất
như tiền lương, tiền thưởng sẽ là những động lực cơ bản để thúc đẩy sự
hăng say lao động của họ. Tuy nhiên lợi ích vật chất gắn liền với nhu
cầu về tinh thần. Người quản lý phải biết kết hợp cả hai yếu tố này để
phát huy cao nhất năng lực của các thành viên trong tổ chức.
1.4.2. Thưởng phạt kinh tế.
Công tác quản lý đòi hỏi phải tạo ra và duy trì một môi trường,
mà ở đó mọi người làm việc cùng nhau trong các nhóm để hoàn thành
một mục tiêu chung. Một nhà quản lý không thể làm được việc đó nếu
không biết cái gì sẽ thúc đẩy mọi người. Yếu tố thưởng phạt kinh tế đã
5


được các nhà quản lý sử dụng như một động lực thúc đẩy các hành vi
mong muốn và xuất phát từ mức độ hoàn thành công việc của đối tượng
quản lí. Theo đó, nhân viên sẽ được thưởng nếu như họ hoàn thành tốt
công việc và sẽ bị phạt nếu như không hoàn thành nhiệm vụ mà tổ chức
giao cho.
1.4.3. Các khoản hỗ trợ kinh tế gián tiếp.
Phương pháp kinh tế lấy lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy
con người hành động vì nhu cầu vật chất là điều kiện cơ bản về cuộc
sống của mọi người. Do đó khi con người thực hiện công việc nào đó
đều quan tâm đến lợi ích vật chất, và thu nhập. Ngoài tiền lương, tiền
thưởng, phúc lợi cũng là lợi ích bổ sung cho thu nhập của con người.

Phúc lợi không liên quan đến công việc, nhưng nó có ý nghĩa củng cố
thêm mục tiêu của tổ chức, giúp thu hút và động viên các thành viên
làm việc tốt hơn cho tổ chức.

6


Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP KINH TẾ
TRONG QLXH VỀ KINH TẾ CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI Ở
NGHỆ AN HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của Nghệ An
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên
Nghệ An là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, Với diện tích 16.487km .
Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía tây giáp Lào,
phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh,
nằm cách thủ đô Hà Nội 300 km về phía nam.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Kinh tế
Hiện nay ngành công nghiệp của Nghệ An tập trung phát triển ở 3 khu
vực là Vinh - Cửa lò gắn với Khu kinh tế Đông Nam, Khu vực Hoàng Mai và
khu vực Phủ Quỳ. Phấn đấu phát triển nhiều ngành công nghiệp có thế mạnh
như các ngành chế biến thực phẩm - đồ uống, chế biến thuỷ hải sản, dệt may,
vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, chế tác đá mỹ nghệ,
đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy....
Nghệ An có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế với nhiều
tài nguyên thiên nhiên: Tỉnh Nghệ An có 1.648.728 ha diện tích đất tự nhiên.
Có diện tích rừng rộng lớn với nhiều lâm sản quý. Toàn tỉnh có 113 vùng mỏ
lớn nhỏ và 171 điểm quảng, nổi bật là than, thiếc, boxit, đá vôi, đất sét, sét xi

măng...
Toàn tỉnh có 92km bờ biển với trên 267 loài cá sinh sống trong đó có
trên 62 loài kinh tế cao, có 20 loài tôm với trữ lượng khoảng 600 tấn.
Ngoài ra Nghệ An cũng có nhiều tiềm năng du lịch: Có bãi tắm Cửa Lò
là khu nghỉ mát; Khu du lịch biển diễn Thành, huyện Diễn Châu - một bãi
biển hoang sơ và lãng mạn; khu di tích Hồ Chí Minh, khu di tích đền Cuông.
7


Năm 2008, Khu du lịch Bãi Lữ được đưa vào khai thác. Với nhiều lắm những
danh lam thắng cảnh, hệ thống di tích, văn hoá phong phú về số lượng, độc
đáo về nội dung, đa dạng về loại hình, Nghệ An đang là miền đất hứa, là địa
chỉ du lịch hấp dẫn đối với du khách.
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước, hội tụ tất cả các yếu tố
cho phát triển kinh tế đặc biệt là kinh tế biển. Với lợi thế là địa phương có
chiều dài bờ biển khoảng 82 km cùng nhiều tiềm năng về thuỷ hải sản, thắng
cảnh thiên nhiên đẹp, một cảng vận chuyển hiện đại, nằm trong hành lang
kinh tế Đông - Tây và trên các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế... đã tạo điều
kiện thuận lợi cho Nghệ An tận dụng, khai thác và phát triển mạnh các ngành
kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế.
Ngoài tiềm năng về nuôi trồng, khai thác thuỷ hải sản, phát triển công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch..., vùng ven biển Nghệ An còn có tiềm
năng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề. Trên
thực tế, ngành nghề TTCN, làng nghề ven biển Nghệ An tuy đã được chú
trọng phát triển nhưng tốc độ còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng
với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Vì thế, việc nhìn nhận một cách khách quan
thực trạng, qua đó nghiên cứu đề xuất những giải pháp cơ bản để khắc phục
tình trạng này có ý nghĩa quan trọng.
- Dân cư
Dân số Nghệ An (theo điều tra dân số ngày 01/04/2009) có 3.113.055

người, giảm so với thời kỳ điều tra đân số năm 2004 vì một bộ phận dân cư di
cư vào các địa phương khác sinh sống mà chủ yếu là các tỉnh phía Nam. Trên
toàn tỉnh Nghệ An có nhiều dân tộc cùng sinh sống như người Thái, người
Mường bên cạnh dân tộc chính là người Kinh.
2.2 Thực trạng việc sử dụng phương pháp kinh tế trong
QLXH về kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập kinh tế thế giới ở Nghệ An hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu đưa Nghệ An trở thành tỉnh công nghiệp
vào năm 2020, bên cạnh việc sử dụng phối hợp các phương pháp quản
8


lí xã hội về kinh tế tỉnh Nghệ An đã đẩy mạnh việc sử dụng các Phương
pháp kinh tế. Cụ thể là việc vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy
kinh tế, các định mức kinh tế kĩ thuật trong quản lí xã hội về kinh tế.
điều đó được thể hiện rõ thông qua việc hoạch định đưa ra các chính
sách tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế cũng như đầu tư, khuyến
khích, đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Nền kinh tế tỉnh nhà đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận thông qua
việc sử dụng hệ thống các công cụ đòn bẩy kinh tế cũng như vận dụng
các quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quan hệ thị trường…
2.2.1 Những thành tựu đạt được
-Về hệ thống các đòn bẩy kinh tế
Thực hiện chính sách tăng mức lương tối thiểu do nhà nước ban
hành. Tỉnh Nghệ An cũng đã nhanh chóng tăng mức lương tối thiểu cho
người lao động, cũng như có chính sách về tiền thưởng và trợ cấp phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
Trước khủng hoảnh kinh tế các doanh nghiệp đã gặp nhiều khó
khăn trong vấn đề thanh toán thuế. Để dảm bảo cho các doanh nghiệp,
đơn vị sản xuất kinh doanh tiếp tục hoạt đông hiệu quả chính quyền

Tỉnh cũng đã có sự hỗ trợ kịp thời, tăng mức gia hạn nộp thuế cũng như
cho nợ thuế.
Để thu hút vốn đầu tư Nghệ An đã có nhiều chính sáh ưu đãi như - Hỗ
trợ xúc tiến đầu tư với dự án FDI, trong nước là là 0,03% và 0,15% vốn đầu
tư.
Ưu đãi thuế: Các dự án hưởng ưu đãi theo quy định hiện hành, ngoài ra
còn được ngân sách tỉnh hỗ trợ bằng 100% thuế thu nhập doanh nghiệp thực
nộp trong 3 năm tiếp theo.
Hỗ trợ về mặt bằng: Ngân sách tỉnh hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt
bằng theo phương án được phê duyệt với mức: dự án nông, ngư ngiệp là 1030%; các dự án còn lại 50%...

9


Bên cạnh đó có những chính sách, kế hoạch hợp lí nhằm ổn định giá cả
thị trường. Tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa.
-Trong vận dụng phương pháp kinh tế trong QLXH về kinh tế
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII, giai đoạn 2010
- 2015 xác định: Đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, tăng tỷ trọng
công nghiệp trong sản phẩm nội tỉnh, hướng hoạt động sản xuất công
nghiệp vào các lĩnh vực phục vụ sản xuất nông nghiệp nông thôn.
Tỉnh kết hợp phát triển các ngành có thế mạnh ở địa phương với phát
triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao như: cơ khí chế tạo,
thiết bị kỹ thuật điện, điện tử công nghệ thông tin..., sớm đưa Nghệ An thành
"tỉnh khá" như mong muốn của Bác Hồ, trở thành tỉnh công nghiệp vào năm
2020.
Thực tế cho thấy, công nghiệp Nghệ An đã khởi sắc, giá trị sản xuất
công nghiệp năm 2010 đạt gần 8.500 tỷ đồng, tăng gấp 6,4 lần so với năm
2001 và tăng 18,6% so với năm 2009, đạt 101% kế hoạch. Cơ cấu ngành công
nghiệp đã chuyển từ đa ngành, manh mún sang hình thành được một số ngành

công nghiệp chủ lực (sản xuất xi măng, mía đường, sản xuất bia, sản xuất
điện, chế biến lâm sản, khai thác chế biến khoáng sản...). Tiểu thủ công
nghiệp, ngành nghề nông thôn; khôi phục phát triển nghề, xây dựng làng nghề
phát triển nhanh, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Để đạt được kết
quả đó, tỉnh Nghệ An đã xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển công
nghiệp trên địa bàn. Ngoài hai khu công nghiệp nằm trong khu kinh tế Đông
Nam, có 8 khu công nghiệp được Chính phủ đưa vào quy hoạch với tổng diện
tích 2.860 ha. Trong đó, khu công nghiệp Bắc Vinh 60 ha, cơ bản đã lấp đầy
diện tích với 23 dự án, có 16 dự án đã đi vào sản xuất; khu công nghiệp Nam
Cấm 327 ha, cơ bản đã lấp đầy với 52 dự án, đã có 22 dự án đã đi vào sản
xuất. Tỉnh đang đầu tư hạ tầng khu công nghiệp Hoàng Mai đã có 5 dự án
được cấp giấy chứng nhận đầu tư... Những lĩnh vực thế mạnh, có tiềm năng,
có sức cạnh tranh của tỉnh như: chế biến nông, lâm sản, khai thác chế biến
khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng...được tỉnh tập trung đầu tư với công
10


nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, cạnh tranh với thị trường
trong nước và quốc tế.
Đặc biệt, Nghệ An triển khai thực hiện đồng loạt nhiều giải pháp thúc
đẩy công nghiệp phát triển như: ban hành hệ thống cơ chế chính sách phát
triển trên các lĩnh vực với những cơ chế khuyến khích đầu tư thông thoáng
bằng ưu đãi về đơn giá thuê đất, giải phóng mặt bằng; hỗ trợ đầu tư xây dựng
các công trình kết cấu hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính; hỗ trợ đào tạo
nghề; tạo điều kiện vay vốn của các tổ chức tín dụng; huy động các nguồn lực
đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhất là giao thông để
phục vụ sản xuất... Nhờ đó các sản phẩm mũi nhọn đều tăng nhanh, nhất là
các sản phẩm trong sản xuất, chế biến nông, lâm sản, chế biến bột đá, thiếc,
sản xuất xi măng… Đặc biệt, năm 2010 Nghệ An đã phát triển chăn nuôi bò
sữa theo công nghệ hiện đại với quy mô lớn tại huyện Nghĩa Đàn và bắt đầu

xây dựng nhà máy sữa hiện đại nhất Đông Nam Á. Đáng lưu ý, trong phát
triển công nghiệp từ nay đến năm 2015, tỉnh Nghệ An tập trung đầu tư một số
dự án công nghiệp quy mô lớn: Trung tâm nhiệt điện Quỳnh Lập (huyện
Quỳnh Lưu), công suất 2.400 MW; nhà máy xốp KOBELCO Việt Nam, đồng
thời hoàn thành các dự án xi măng chuyển tiếp... Trong công nghiệp khai
thác, chế biến khoáng sản, từng bước mở rộng và đầu tư chiều sâu các nhà
máy chế biến ở Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Nam Cấm trong đó bột đá siêu mịn đạt
200 ngàn tấn/năm, đá xẻ 600 ngàn m2/năm; duy trì ổn định khai thác và luyện
thiếc đảm bảo sản lượng thiếc tinh luyện đạt từ 2.500 - 3.000 tấn/năm; đá
bazan đạt 300.000 tấn; tổ chức quản lý các loại quặng khác như: than, sắt,
vàng, titan; kêu gọi đầu tư xây dựng nhà máy khai thác chế biến sợi cách
nhiệt từ đá bazan tại khu công nghiệp Hoàng Mai, công suất 10.000 tấn/năm;
nhà máy khai thác chế biến đá Marble xuất khẩu tại Quỳ Hợp, công suất
60.000 m2/năm. Trong công nghiệp chế biến, tập trung đầu tư phát triển vùng
nguyên liệu mía, đảm bảo sản lượng đường sản xuất ổn định 16 vạn tấn/năm;
nâng công suất các nhà máy chè, đi đôi với tổ chức tốt vùng nguyên liệu để

11


đạt sản lượng 12.000 tấn chè búp khô, trong đó chú trọng phát triển chè chất
lượng cao...
Từ những kết quả đạt được, Nghệ An đang đẩy nhanh tiến độ đầu tư
vào các hạng mục hạ tầng như: khu kinh tế Đông Nam, khu công nghiệp
Đồng Hồi, khu công nghiệp Hoàng Mai, khu công nghiệp Nghĩa Đàn và các
khu công nghiệp nhỏ; triển khai nạo vét luồng vào cảng Cửa Lò để tàu một
vạn tấn đầy tải ra vào thường xuyên; đầu tư nâng cấp cảng nước sâu Cửa Lò,
càng Đông Hồi. Tỉnh nâng cấp mở rộng sân bay Vinh; tiếp tục xây dựng, nâng
cấp, mở rộng các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, các trục đường chính miền Tây và các
công trình trọng điểm như đường Hoàng Mai nối thị xã Thái Hòa, đại lộ Vinh

- Cửa Lò, đường ven biển Nghi Sơn - Cửa Lò, đường nối Nam Cấm - Đô
Lương - Tân Kỳ; cầu Yên Xuân (Hưng Nguyên), đường nối quốc lộ 48 - quốc
lộ 35 Thanh Hóa... Các công trình thủy nông, thủy lợi đều có kế hoạch đầu tư
nâng cấp, làm mới, nạo vét, cải tạo hệ thống kênh mương nội đồng để đảm
bảo đến năm 2015 có 85% diện lúa chủ động được nước tưới tiêu.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, đặc biệt từ khi Luật
Doanh nghiệp ra đời, doanh nghiệp Nghệ An đã có bước phát triển nhanh thể
hiện sức sống mãnh liệt của nền kinh tế tỉnh nhà. Tính đến hết tháng 6/2010,
trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã có 7.396 doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh
nghiệp Nghệ An đã đóng góp quan trọng vào việc huy động các nguồn lực xã
hội để đầu tư phát triển, góp phần tích cực cho tăng trưởng, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của tỉnh nhà, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, đóng góp
đáng kể cho thu ngân sách của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm giai
đoạn 2005-2010 là 9,74%, thu nhập bình quân đầu người tăng 2,5 lần, đạt
mức 14 triệu đồng/năm; thu ngân sách tăng nhanh từ 1.700 tỷ đồng/năm 2005
lên 5.000 tỷ đồng/năm 2010. Thu hút đầu tư tăng nhanh, nhiều dự án lớn đã
được triển khai và phát huy hiệu quả. Đạt được kết quả trên, ngoài các cơ chế,
chính sách của Trung ương, UBND tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách
phát triển doanh nghiệp như: Quyết định 10/2009/QĐ-UBND về khuyến
khích hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, Quyết định 109/2004/QĐ12


UBND hỗ trợ quỹ khuyến công, Quyết định 84/2007/QĐ-UBND quản lý nhà
nước về doanh nghiệp, Quyết định 57/2009/QĐ-UBND về ưu đãi đầu tư,
Quyết định 113/2007/QĐ-UBND về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển các
khu công nghiệp nhỏ…Hàng năm, UBND tỉnh đã trích ngân sách cùng với
tranh thủ Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp của Trung ương để hỗ trợ doanh
nghiệp đầu tư, giải phóng mặt bằng, san lấp, đào tạo nghề, phát triển nguồn
nhân lực, tập huấn nâng cao nhận thức kỹ năng cho doanh nghiệp, đầu tư
nâng cao năng lực cho Hiệp hội, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Các cơ

chế, chính sách của tỉnh đã tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển nhanh và
bền vững.
Coi công nghệ thông tin và truyền thông là công cụ quan trọng hàng
đầu và là ngành kinh tế mũi nhọn để thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ, xây dựng xã hội thông tin, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, tạo đà phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Tỉnh Nghệ An đã có sự phối hợp, đoàn kết, hợp tác với các tỉnh, thành
phố trên cả nước thúc đẩy lĩnh vực công nghệ thông tin, trong đó tập trung
vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng thông tin,
phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin trong các ngành kinh tế - xã hội, đặc biệt chú trọng việc
phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đông đảo và có chất lượng để
sớm đưa Nghệ An trở thành trở thành trung tâm phát triển Công nghệ thông
tin của vùng.
Nhờ có định hướng đúng đắn đó cộng với sự nỗ lực của ngành du lịch,
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và sự phối
hợp giúp đỡ của các ngành, các cấp; du lịch Nghệ An đã có sự phát triển vượt
bậc cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Hoạt động của ngành
Du lịch đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách của địa phương; thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội của nhiều vùng miền; góp phần thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo và cải thiện cuộc sống cho cộng đồng tại

13


các khu, điểm du lịch, đồng thời hỗ trợ cho công tác bảo đảm ổn định an ninh
và quốc phòng trên địa bàn.
Rừng là một trong những tài nguyên được xác định tiềm năng lớn phát
triển kinh tế -xã hội, bảo vệ môi trường. Trong quá trình đổi mới, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chính sách thúc đẩy nghề rừng.Cùng với chính sách

giao khoán rừng và đất lâm nghiệp, Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương
triển khai các chương trình dự án hỗ trợ trồng và bảo vệ rừng như: 327, 661,
thể chế hoá giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 163/CP gắn với phân chia 3
loại rừng, phân cấp quản lý rừng theo Nghị định 245/CP, tạo ra hệ thống rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất, từng bước làm tốt chức năng phát
triển kinh tế- xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.2. Những hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân của hạn chế
- Hạn chế
+ Về hệ thống các đòn bẩy kinh tế
Chính sách tiền lương tối thiểu hiện nay còn phân biệt đối xử giữa ba
loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, danh nghiệp
nhà nước,doanh nghiệp tư nhân) Một mặt, điều này tạo nên sự bất bình đẳng
đối với người làm công ăn lương khi xác định mức sàn tiền công trả cho
người lao động. Mặt khác, do mức lương tối thiểu áp dụng khác nhau, làm
cho chi phí đầu vào giữa các doanh nghiệp theo từng loại hình cũng khác
nhau, tạo nên sự bất bình đẳng trong kinh doanh.phải đẩy nhanh việc thực
hiện xác định lộ trình thống nhất mức lương tối thiểu, xác định cơ chế bình
đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần, phù hợp với kinh tế thị trường và
các yêu cầu của WTO”. Mức lương tối thiểu hiện nay nhìn chung là còn lạc
hậu, chậm điều chỉnh so với mức điều chỉnh của giá cả sức lao động trên thực
tế. Do vậy, tiền lương tối thiểu trở nên mang tính hình thức, không thể hiện
đầy đủ bản chất và vai trò điều chỉnh trong xã hội. Mặt khác mức lương tối
thiểu hiện nay không thực tế, chỉ có ý nghĩa khi xác định các mức an sinh xã
hội, bảo hiểm... Còn trong thực tế giao dịch lao động thì không ai dùng mức
lương tối thiểu này.
14


Việc áp dụng chế độ trợ cấp cũng như tiền thưởng còn nhiều bất cập,
chưa thống nhất và đồng loạt trong các ngành kinh tế.

Giá cả thị trường vẫn tiếp tục leo thang và không ổn định, làm phát vẫn
tăng cao, gây khó khăn cho việc quản lí cũng như cho đời sống cử người lao
động.
+ Về việc vận dụng các phương pháp kinh tế trong QLXH về kinh
tế.
Thực tế cho thấy phương pháp kinh tế chưa được vận dụng một cách có
hiệu quả trong quản lí xã hội về kinh tế của chính quyền tỉnh Nghệ An, dẫn
đến chưa phát huy hết được tiềm năng hiện có của Tỉnh. Cụ thể:
Nghệ An là tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế tuy nhiên tỉnh
chưa quan tâm đầu tư khuyến khích phát triển các ngành chủ lực mang lại
hiệu quả kinh tế lớn, tạo nên bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế. với vị trí
26/63 tỉnh thành trong cả nước, có thể nói công nghiệp Nghệ An vẫn chưa
phát triển và có chỗ đứng xứng tầm so với tiềm năng, lợi thế. Tỷ trọng công
nghiệp trong GDP còn thấp so với bình quân chung của cả nước, sức cạnh
tranh của các sản phẩm chưa cao do qui mô, trình độ công nghệ thấp kém, lạc
hậu, ít có mặt hàng chủ lực chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài tỉnh. Giá trị
tăng thêm, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu còn nhỏ. Công nghiệp
nông thôn, ngành nghề, làng nghề bước đầu mới hình thành, nên qui mô nhỏ,
thu nhập thấp, giải quyết việc làm ít, do vậy tác động đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn chậm. Đội ngũ doanh nhân của Nghệ An
còn nhỏ bé, các cơ sở công nghiệp của trung ương, của các Tập đoàn, Tổng
Công ty lớn đặt trên đất Nghệ An còn khá ít ỏi, thiếu các cơ sở công nghiệp
quy mô lớn có vai trò hạt nhân, tạo được tác động lan toả, lôi kéo, kích thích
phát triển các doanh nghiệp vệ tinh, các ngành công nghiệp hỗ trợ. Việc thu
hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp ở Nghệ An, đặc biệt là thu hút đầu
tư nước ngoài, cũng mới chỉ đạt được những kết quả ban đầu hạn chế. Nguồn
nhân lực cho phát triển tuy dồi dào về số lượng, nhưng tỷ lệ qua đào tạo còn
thấp. Ngoài ra, sự liên kết với các tỉnh bạn, trước hết là các tỉnh lân cận cũng
15



như các tỉnh thuộc nước bạn Lào, trong việc phối hợp để phát triển công
nghiệp cũng còn hạn chế. Có lẽ đây là những nguyên nhân (cùng với các
nguyên nhân khách quan khác như biến động của tình hình kinh tế thế giới và
trong nước 2 năm 2008-2009) làm cho quy hoạch phát triển công nghiệp trên
địa bàn tỉnh - mặc dù đã được phê duyệt và đang triển khai thực hiện - khó đạt
được một số mục tiêu cụ thểQuy hoạch phát triển công nghiệp Nghệ An đến
năm 2020 đã được UBND tỉnh phê duyệt năm 2008.
Nghệ An đã có 8 Khu công nghiệp, được Thủ tướng phê duyệt. Đây là
điều kiện thuận lợi để Tỉnh phát triển công nghiệp theo hướng đa ngành, đa
nghề, trong đó tập trung phát triển các ngành công nghiệp có thế mạnh của
tỉnh trên cơ sở tận dụng các yếu tố thuận lợi về địa lý và điều kiện hạ tầng
thuận lợi của KKT, các KCN. Từ đây có thể thu hút, xây dựng, phát triển các
cơ sở sản xuất công nghiệp lớn khai thác các nguồn nguyên liệu thế mạnh của
tỉnh tại KKT, KCN để tạo lực đẩy, tác động lan tỏa đến các cơ sở sản xuất nhỏ
hơn ngoài KKT, KCN. Để làm được điều này,địa phương phải giải quyết tốt 3
khâu tạo được mặt bằng, thủ tục hành chính và nguồn nhân lực tại chỗ. Đây
cũng chính là các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của mỗi địa phương
trong thu hút đầu tư. Song song với việc kêu gọi đầu tư, cần chú trọng quy
hoạch vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khuyến khích đầu tư sản
xuất nguyên liệu tham gia cổ phần vào các dự án chế biến để gắn bó trách
nhiệm, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, lâu dài, tránh được tác động xấu
khi giá nguyên liệu biến động. Một vấn đề cần chú trọng nữa là việc kêu gọi
những người Nghệ An làm ăn xa quê, đặc biệt là các doanh nghiệp, các
chuyên gia giỏi, nhà khoa học, kiều bào ở nước ngoài… tham gia tích cực vào
việc đầu tư vốn, chất xám, các mối quan hệ thị trường để phát triển công
nghiệp tại quê nhà. Tuy nhiên những vấn đề này chưa được HĐND, UBND
Tỉnh quan tâm, có kế hoạch đầu tư phát triển đúng mức. Dẫn tới chưa phát
huy hết yếu tố nội lực và ngoại lực trong phát triển kinh tế, chưa khai thác, tận
dụng hết các tiềm năng vốn có của Tỉnh.


16


Các ngành du lịch, tiểu thủ công nghiệp cũng chưa được quan tâm đầu
tư phát triển đúng mức cho nên hiệu quả mang lại còn hạn chế
Công tác trồng rừng còn nảy sinh một số bất cập trong quy hoạch như:
Rừng trồng thuần loại diễn biến thị trường dễ rủi ro. Hạ tầng phục vụ sản xuất
lâm nghiệp thấp kém, đặc biệt hệ thống giao thông nội vùng chưa được qui
hoạch đầu tư. 80% vùng trồng rừng không có đường vận xuất, đường vận
chuyển. Giao đất, giao rừng là chính sách lớn tạo xã hội hoá nghề rừng nhưng
mặt trái gây ra sự manh mún trong sản xuất lâm nghiệp, tính cạnh tranh trong
tổ chức sản xuất bị hạn chế…
- Nguyên nhân
Hệ thống các đòn bẩy kinh tế chưa được quan tâm hoàn thiện và phát
triển đúng mức. Chưa thực sự phù hợp cũng như kích thích sự phát triển kinh
tế.
Do chưa nhận thức đúng đắn vai trò, hiệu quả, tác dụng cũng như nội
dung của phương pháp kinh tế trong QLXH về kinh tế của cơ quan, cán bộ
quản lí xã hội về kinh tế.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế còn nhiều hạn
chế. Chưa phát huy hết được khả năng vận dụng phương pháp kinh tế trong
quản lí kinh tế.
Chưa quan tâm phát triển các ngành kinh tế có nhiều tiềm năng và lợi
thế của tỉnh, cũng như chưa đầu tư phát triển các ngành mũi nhọn trọng điểm
đúng mức, nhằm tạo động lực cho sự phát triển toàn diện nền kinh tế, nâng
cao khản năng canh tranh và hội nhập kinh tế thế giới.
Cơ sở vật chất kĩ thuật còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển của các ngành kinh tế.
Việc đưa ra các mục tiêu, kế hoạch phát triển của các ngành kinh tế còn

thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn. Chưa căn cứ vào tiềm năng lợi thế của Tỉnh
nhà cũng như tình hình và xu thế phát triển kinh tế trong nước và thế giới
Việc vận dụng các phương pháp kinh tế trong quản lí kinh tế còn sự
thiếu đồng bộ, thống nhất trong các ngành kinh tế.
17


Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP KINH TẾ TRONG QLXH VỀ KINH TẾ CỦA NỀN
KINH TÉ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về việc sử dụng phương
pháp kinh tế trong quản lí kinh tế trong giai đoạn hiện nay
KC !

6H

T)
t U
C

;

,

U
U

.

C

C) !H

0

/E

)" "

+

)H

6H

E

*3

.

)H

# "

8

-


"

8

+

U X

C) !H > O )C

C) !H < d

*

9 !"

@2

0

# B

"

!

E

L


5T

*3

!

, 2 /E

"

H ?

.

<

'(

U

L

: 0% E
*

") O)
*

-


2

5
@# ' ,

! C 5c

8) @

@ ,

*

")

!,

6H
E

U

:

L

5T

- L


!

L

")

")

*

!

.

0

*

6\
*3

]

C

5T

)

EC

B

A
.

*

5#

-

2

3

-

E8
# .

*

/

9 @N

C

#


R

/
")

*

"

L U
'

@;

- L

)

*

,E - L

< 5#* #) )

@# ' ,

L

, " 5#* #)


@
5#

,

E

@# ' ,
c

@

-

- 5? R )

*
0I*

L

U - L

'J)
A L

#

#


*

.
6P

0 <

/

^

@

"

'(

")

J*

U

&

"

, !"

E


# " ,E A

!

:

)?

!

UE

- L

J*

L

.

*
*

L

.

*


v

d

d

!

,

L

L

@# ' ,

/

A

.

5T

-

$


làm cho mọi người lao động quan tâm đến hiệu suất lao động của mình. Chủ

nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động không bao giờ thủ tiêu nguyên
tắc khuyến khích bằng lợi ích vật chất. Bỏ nguyên tắc khuyến khích bằng lợi
ích vật chất là khi đã xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, vì chỉ đến giai
đoạn đó của cải xã hội mới dồi dào đến mức có thể thực hiện phân phối theo
nhu cầu, để mọi thành viên trong xã hội đều hưởng ngang nhau. Bây giờ thì
không phải như vậy. Chủ nghĩa xã hội mới thủ tiêu đặc quyền giai cấp, chứ
chưa thủ tiêu sự bất bình đẳng cá nhân; chỉ đến chủ nghĩa cộng sản thì những
bất bình đẳng cá nhân mới hoàn toàn bị xoá bỏ; lao động xã hội chủ nghĩa
một phần nào còn vì lợi ích cá nhân, cho nên biết sử dụng quy luật giá trị để
bù đắp sức lao động đã hao phí của mỗi người lao động, sẽ có tác dụng kích
thích tính tích cực sản xuất của họ.
Thống nhất với quan điểm của Đảng và nhà nước Đảng bộ tỉnh Nghệ
An phát huy việc sử dụng trong phương pháp kinh tế, coi phương pháp kinh
tế là một công cụ hữu hiệu trong quản lí xã hội về kinh tế, nhằm thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh trah của nền kinh tế; góp phần xây
dựng thành công sự nghiệp CNH, HĐH; tiến tới hội nhập nền kinh tế quốc tế
trên cơ sở phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của phương pháp
kinh tế.
3.2. một số giải pháp nhằm phát huy việc sử dụng phương pháp
kinh tế trong quản lí xã hội về kinh tế của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
Để phát huy hiệu quả của phương pháp kinh tế trong quản lí kinh tế
trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay cần phải thực hiện đồng bộ
các nhóm giải pháp sau:
3.2.1. Giải pháp chung
- Hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận
dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quan hệ thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế như tiền lương tiền
thưởng, giá cả, chính sách thuế. Nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ
19



hàng hóa tiền tệ, quan hệ thị trường nhằm đảm bảo giá trị của hành hóa, của
tiền tệ và đảm bảo cân đối cung – cầu trên thị trường …Đây là cơ sở để thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh
cũng như khuyến khích các hoạt động kinh tế tăng tốc phát triển và hội nhập.
+ Về tiền lương: Về lâu dài, chính sách tiền lương cần thiết định hướng
theo cơ chế thị trường, trên cơ sở tự thương lượng, thỏa thuận giữa người sử
dụng lao động, người lao động tuân thủ một số nguyên tắc tối thiểu mà Nhà
nước quy định. Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo đáp ứng cho đời sống của
người lao động, đồng thời phải không ngừng được cải thiện nhằm phát huy
tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc. Bên cạnh tiền
lương thì cần có chính sách tiền thưởng, phụ cấp hợp lí phù hợp với mức độ
hoàn thành công việc của người lao động giúp họ có thêm thu nhập, cải thiện
mức sống.
+ Về thuế: Xét về nguyên tắc khi phải đối mặt với tình trạng suy thoái
thì vấn đề khó khăn của các DN Việt Nam cũng như các DN khác trên thế
giới không phải là vấn đề về thuế ; tuy nhiên thuế là vấn đề tất cả các DN đều
quan tâm. Về lĩnh vực thuế, hiện nay cần có được hệ thống chính sách thuế rõ
ràng, minh bạch, tương đối ổn định và thủ tục hành chính thuế đơn giản để
giúp doanh nghiệp được ưu đãi thuế theo quy định và giảm thiểu vi phạm
pháp luật về thuế. Riêng trong gian đoạn suy thoái, Chính phủ cần có giải
pháp trợ giúp, góp phần giúp DN vượt qua khủng hoảng như: miễn giảm, gia
hạn nộp thuế...
+ Về giá cả: Chúng ta đều biết rằng, trong nền sản xuất hàng hoá, giá
cả hình thành một cách tự phát theo quan hệ cung cầu thông qua sự trao đổi tự
do ở thị trường và dưới tác động điều tiết của quy luật giá trị. Việc đề ra giá cả
là đứng trên quan điểm bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, trên một
chính sách tích luỹ và tiêu dùng nhất định và phù hợp với các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế từng thời kỳ nhằm thực hiện đường lối chủ trương cải tạo và phát

triển công, nông, thương nghiệp... của Đảng và Nhà nước. cần phải có những

20


chính sách điều tiết giá cả phù hợp, tạo sự ổn định nhằm đảm bảo nhu cầu cơ
bản của mọi thành viên trong xã hội cũng như yêu cầu của tái sản xuất xã hội.
Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới,
chính sách tiền tệ trở nên rất quan trọng. Tín dụng, lãi suất và tỷ giá là các
công cụ chủ yếu điều tiết hoạt động kinh tế. Ngân hàng Nhà nước trở thành cơ
quan có chức năng và quyền lực chi phối hoạt động kinh tế cả ở tầm vi mô và
vĩ mô. Vì vậy cần có cơ chế chính sách phù hợp nhằm sử dụng các công cụ
này một cách hữu hiệu nhất làm đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng
thời cần có chính sách tạo điều kiện cho các ngân hành mở rộng hoạt động.
- Xây dựng bộ máy quản lí vững mạnh; thực hiện phân cấp, phân
quyền đúng đắn giữa các cấp quản lí theo hướng mở rộng quyền hạn cho
cấp dưới
Bộ máy quản lí phải đảm bảo đủ vững mạnh, thống nhất để thực hiện
nhiệm vụ quản lí kinh tế.
Việc phân cấp giữa các cấp quản lí là hết sức cần thiết nhằm trao quyền
cho các cấp các ngành trong quản lí xã hội về kinh tế, phân bổ quyền lực
trong bộ máy quản lí, tạo sự năng động, chủ động, sáng tạo của cấp dưới. Tuy
nhiên việc phân cấp, phân quyền trong quản lí là việc tăng tính chịu trách
nhiệm của cấp dưới, giúp cho họ đưa ra các quyết định quản lí phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương mình, tăng hiệu quả của quá trình
quản lí. Chứ không phải là khoán trắng, giao toàn bộ nhiệm vụ cho cấp dưới,
địa phương mà không có biện pháp kiểm tra, giám sát và điều chỉnh kịp thời
của bộ ngành trung ương.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực và phẩm chất cho đội ngũ
cán bộ quản lí kinh tế và người lao động

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ quản lí kinh tế, đặc biệt là giáo dục các kiến thức về phương pháp
kinh tế và việc vận dụng phương pháp này trong QLXH về kinh tế. Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước làm
nhiệm vụ quản lí kinh tế: xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có tinh thần
21


trách nhiệm, công tâm trong xử lý công việc, có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ vững vàng. Mặt khác đội ngũ can bộ phải năng động nhanh nhạy trong
nắm bắt tình hình, xu thế phát triển kinh tế để có thể vận dụng một cách linh
hoạt các phương pháp kinh tế trong quản lí, cho phù hợp với xu thế hội nhập
và phát triển kinh tế hiện nay.
Nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuật cũng như tay nghề cho người
lao động.
3.2.2. Giải pháp riêng
Bên cạnh việc tiến hành các giải pháp chung. Thì Nghệ An do có những
đặc điểm, điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển riêng nên
cần tiến hành một số giải pháp cụ thể sau:
- HĐND, UBND Tỉnh cần quan tâm, tạo điều kiện, đầu tư, hỗ trợ kịp
thời nhằm phát triển các ngành kinh tế có lợi thế và tiềm năng. Tạo động
lực cho phát triển kinh tế của Tỉnh nhà
+Quan tâm phát triển công ngiệp
Tập trung phát triển công nghiệp, đầu tư vào các ngành mũi nhọn.Tỉnh
cần cân nhắc, điều chỉnh tiến độ, quy mô trong việc đầu tư phát triển đối với
một số ngành, một số dự án để đảm bảo tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh
cao như ngành sản xuất xi măng, khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng…
+ Phát triển du lịch
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát
triển du lịch; là công cụ phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch và

phương hướng để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, xúc tiến quảng
bá tiềm năng của Nghệ An. Vấn đề đặt ra đối với du lịch tỉnh Nghệ An là tận
dụng những điều kiện, cơ hội và thời cơ thuận lợi để phát triển du lịch mang
tính lâu dài và bền vững và đưa ngành du lịch thực sự là một ngành kinh tế
quan trọng đến năm 2020, cần phải điều chỉnh một số chỉ tiêu, xây dựng các
định hướng và đề xuất các giải pháp mới về du lịch. Đảm bảo phù hợp với
chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế.

22


+ Tiểu thủ công nghiệp
Rà soát bổ sung quy hoạch phát triển TTCN, làng nghề gắn với quy
hoạch xây dựng các khu sản xuất làng nghề tập trung theo hướng quy hoạch
chi tiết làng có nghề, làng nghề của cả tỉnh nói chung và các xã ven biển nói
riêng. Trong công tác quy hoạch, lưu ý tập trung vào các nghề mũi nhọn cần
ưu tiên như: chế biến thuỷ hải sản, mây tre đan xuất khẩu, đóng mới và sửa
chữa tàu thuyền, thủ công mỹ nghệ; Chú trọng phát triển các nghề truyền
thống như: chế biến hải sản, đóng mới tàu thuyền, chế biến nông sản, sản xuất
trống, cơ khí sửa chữa…, đồng thời khuyến khích mở rộng các nghề mới như:
thêu ren móc sợi, thủ công mỹ nghệ…; Tăng cường và tích cực đổi mới công
tác chỉ đạo xây dựng và phát triển TTCN, làng nghề ở các cấp huyện, xã.
+ Phát triển công nghệ thông tin, ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất
Đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật, hiện đại hóa các phương tiện trong lĩnh
vực công nghệ thông tin. Phát triển hệ thống phương tiện thông tin, tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế.
Ứng dụng KH-CN vào sản xuất để nâng cao chất lượng, đa dạng hoá
sản phẩm, mẫu mã, quan tâm xây dựng thương hiệu sản phẩm như: tàu
thuyền, chế biến hải sản khác (như cá, mực), mây tre đan xuất khẩu …

Khuyến khích thành lập các doanh nghiệp tư vấn xây dựng thương hiệu để
giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề xây dựng thương hiệu sản
phẩm.
+ Lâm nghiệp
Cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung sửa đổi hệ thống chính sách lâm
nghiệp phù hợp với tình hình mới. Trong đó ưu tiên phát triển hạ tầng lâm
nghiệp, nhất là đường giao thông nội vùng- "mạch máu" của vùng nguyên
liệu; đầu tư công nghệ cao vào công tác sản xuất giống, nâng cao hiệu quả chế
biến, đặc biệt là chế biến tinh tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hóa trên thị
trường. Tổ chức lại hệ thống quản lý sản xuất lâm nghiệp (các công ty, các
Ban quản lý rừng phòng hộ), gắn trách nhiệm các công trình thuỷ điện, thuỷ
23


lợi, các nhà máy trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng lợi từ rừng để có nguồn lực tái
đầu tư cho công tác quản lý bảo vệ phát triển vốn rừng.
- Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Thực hiện các biện pháp, chính sách tài chính,
tiền tệ nhằm bảo đảm ổn định kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững.
-Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu,
giảm nhập siêu. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách tạo việc làm,
giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Nâng cao
hiệu lực và hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước.
- Xây dựng hành lang pháp lý để tạo môi trường thông thoáng cho
doanh nghiệp có điều kiện phát triển, sớm hoàn chỉnh việc ban hành các quy
trình thủ tục về: đăng ký doanh nghiệp, cấp các loại giấy phép, chứng nhận và
ưu đãi đầu tư… theo tinh thần giảm đầu mối, thủ tục, minh bạch, công khai;
các quy trình giải quyết đảm bảo nhanh gọn, kịp thời. Chú trọng công tác

kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật để kịp thời hướng dẫn, xử lý
các vấn đề vướng mắc; đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm để đảm bảo các
doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Rà soát các cơ chế, chính
sách đối với doanh nghiệp để bổ sung, sửa đổi, thay thế cho phù hợp theo
hướng đồng bộ, thông thoáng, ưu đãi nhất trong khuôn khổ pháp luật, đảm
bảo công bằng, minh bạch, như: chính sách về đất đai, thuế, nâng cao chất
lượng quản trị doanh nghiệp; nhất là lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế; đào tạo
và sử dụng nguồn nhân lực, xây dựng thương hiệu, đổi mới thiết bị và ứng
dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được tiếp
cận các nguồn vốn tín dụng, nguồn lực hỗ trợ tài chính trong và ngoài nước,
hợp tác kinh tế quốc tế.
- Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo cơ sở hạ tầng tốt nhất ,tiện ích
nhất như: sân bay, cảng biển, đường tàu, đường bộ hiện đại và cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, hình thành trung tâm tài chính ngân hàng...để tạo điều
24


×