LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự nỗ
lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô, cũng như
sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và
thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy TS. Đào Thanh Thái người đã hết lòng
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho chúng tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân
thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa Du lịch trường Đại học
Công Nghiệp Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi
thực hiện đề tài luận văn.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến cơ quan chính quyền địa Phương làng lụa
Vạn Phúc cũng như người dân làng nghề Vạn Phúc đã không ngừng hỗ trợ và tạo mọi
điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, chúng tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã hỗ trợ cho chúng tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp một cách hoàn chỉnh.
Nhóm sinh viên thực hiện
1
1
MỤC LỤC
2
2
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt
CNH,HĐH
LNTT
NXB
VHDT
TTCN
HTX
UBND
HĐND
3
Cụm từ đầy đủ
Công nghiệp hóa,hiện đại hóa
Làng nghề truyền thống
Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc
Tiểu thủ công nghiệp
Hợp tác xã
Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam là một đất nước nhiệt đới khí hậu ôn hòa, con người chất phác, thiên
nhiên ưu đãi với nhiều loài động thực vật quý đa dạng về chủng loại, phong phú về
số lượng.Nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, cư dân Việt Nam có
nhiều thời gian rảnh rỗi ngoài thời vụ chính. Vốn cần cù chịu thương chịu khó và có
đôi bàn tay tài hoa, ngay từ xa xưa người việt cổ đã biết tận dụng những nguyên liệu
sẵn có ấy để tạo ra nhiều sản phẩm thủ công có giá trị sử dụng cao, mang đậm tính
nghệ thuật phục vục cho đời sống hàng ngày.
Trong khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về sản phẩm thủ
công ngày càng cao, yêu cầu các sản phẩm đó giá cả phù hợp, bền, đẹp lại không gây
tác dụng phụ cho con người, thân thiện với môi trường. Vì vậy đã có rất nhiều người
chuyển sang làm nghề thủ công, họ truyền nghề cho nhau dần dần hình thành các
làng nghề. Làng nghề chính là một nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam.Khắp mọi
miền trên tổ quốc đâu đâu cũng có làng nghề thủ công, mỗi làng nghề lại sản xuất
một mặt hàng thủ công truyền thống khác nhau, mang tính đơn nhất. Ta có thể kể ra
đây những làng nghề nổi tiếng như: Làng gốm Bát Tràng (Hà Nội); làng gốm Chu
Đậu, làng thêu Xuân Nẻo (Hải Dương); làng tranh Đông Hồ, làng gỗ Đồng Kị (Bắc
Ninh),Làng Lụa Vạn Phúc ( Hà Đông ),… Du khách đến với Hà Nội không chỉ biết
đến các địa danh du lịch nổi tiếng như: Phủ Chủ Tịch , Chùa Trấn Quốc ,Đền Quán
Thánh ,Phố Cổ Hà nội ,…mà còn biết đến một số làng nghề thủ công truyền thống
nổi tiếng như: Làng Lụa Vạn Phúc , Làng Gốm Bát Tràng , Làng Chuồn Chuồn Tre
Thạch Xá,… Nhưng làng nghề ở đây mang một phong thái riêng. Theo thống kê của
sở văn hóa thể thao du lịch Hà Nội thì có tất cả 12 làng nghề,.
Đề tài : Vai trò của người phụ nữ trong việc duy trì nghề dệt lụa truyền thống
của làng nghề Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Nội
2 .Mục đích.
Lựa chọn và xây dựng đề tài: “Vai trò của người phụ nữ trong viêc duy trì
nghề dệt lụa truyền thống của làng lụa vạn phúc Hà Đông” người viết nhằm mục
đích tôn vinh những giá trị và vai trò của người phụ nữ trong việc duy trì làng nghề
truyền thống, nét tinh hoa văn hóa của dân tộc.
4
4
Phản ánh chân thực và khách quan về thực trạng về đời sống của người phụ nữ
trong việc duy trì nghề dệt lụa .
Tìm ra các giải pháp nhằm bảo tồn và thúc đẩy các làng nghề phát triển, đẩy
mạnh hoạt động du lịch của làng nghề truyền thống tại Làng Lụa Vạn Phúc Hà Đông
trong thời gian tới.
3 .Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.
Vai trò của người phụ nữ trong viêc duy trì nghề dệt lụa truyền thống của làng
nghề vạn phúc Hà Đông.
Khách thể nghiên cứu : Hoạt động khai thác vai trò của người phụ nữ trong
việc duy trì và phát triển nghề dệt lụa .
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
Đưa ra được cơ sở lý luận về sự duy trì làng nghề và làng nghề truyền thống
Nếu được các giá trị của phụ nữ trong việc duy trì và truyền nghề dệt
Đề xuất một số giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm khai thác triệt tay nghề
của nghệ nhận và truyền nghề cho phụ nữ nâng cao tay nghề và giữ gìn nghề dệt
5. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu:tại làng lụa Vạn Phúc –Hà Đông thành phố Hà Nội
Thời gian nghiên cứu :số liệu thống kê trong giai đoan:2012-2017
6.Phương pháp nghiên cứu:
Để có thể hoàn thành khóa luận, chúng em đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu:
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Em đã thu thập, tham khảo và sắp xếp tài liệu, thông tin trên các trang web,
báo chí, mạng xã hội hay ở một số cuốn sách của nhiều tác giả khác nhau tìm hiểu về
nguồn gốc, lịch sử, thực trạng phát triển cung như duy trì làng nghề dệt lụa truyền
thống ở làng Vạn Phúc, Hà Đông. Từ đó, tìm hiểu và nghiên cứu sâu thêm về những
vai trò thiết yếu của người phụ nữ trong tất cả các quá trình này.
6.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Để có những thông tin xác thực nhất về vai trò của người phụ nữ trong việc
duy trì và phát triển nghề dệt truyền thống tại làng Vạn Phúc, chúng em đã có chuyến
đi khảo sát tại đây vào tháng 4 năm 2018. Trong những ngày đi thực tế, chúng em đã
thu nhận được cho mình những thông tin phản ánh của người dân bản địa và một số
5
5
khách du lịch góp phần làm chính xác, cụ thể và rõ ràng hơn nhưng thông tin đã thu
thập được qua các trang web, báo chí,.. trước đó.
6.3. Phương pháp phỏng vấn
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu và đi khảo sát thực tế, em đã thu thập được
thêm các thông tin về sự hiểu biết, nhìn nhận và đánh giá về vai trò cũng như tầm
quan trọng của những người phụ nữ, cùng những đóng góp cụ thể trong việc duy trì
làng nghề truyền thống và phát triển thương hiệu lụa Hà Đông trong tương lai qua
bảng phỏng vấn những người dân địa phương và một số khách du lịch. Qua đây, ta
thấy rõ hơn thực trạng của vấn đề nghiên cứu, giúp cho bài nghiên cứu được cụ thể,
hoàn thiện và thuyết phục hơn.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và các tài liệu tham khảo, bài khóa luận
gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của người phụ nữ trong việc duy trì nghề
truyền thống.
Chương 2: Thực trạng bảo tồn và phát triển làng lụa truyền thống Hà Đông.
Chương 3: Giải pháp khuyến khích phụ nữ tham gia hoạt động duy trì và phát
triển nghề dệt lụa truyền thống của làng lụa Vạn Phúc Hà Đông.
6
6
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI
PHỤ NỮ TRONG VIỆC DUY TRÌ NGHỀ DỆT LỤA TRUYỀN
THỐNG CỦA LÀNG LỤA VẠN PHÚC HÀ ĐÔNG, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
1.1. Tổng quan đề tài nghiên cứu
Việt Nam khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với kinh tế nông
nghiệp thì phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn được coi là phát huy lợi thế so
sánh, nội lực của đất nước; vừa thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế vừa giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội. Trong đó, làng nghề, làng nghề truyền thống, ngành
nghề ở nông thôn là những nguồn lực còn nhiều tiềm năng của đất nước. Vì vậy, vấn
đề phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống, ngành nghề ở nông thôn và phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa có ý nghĩa
thực tiễn quan trọng đã được nghiên cứu, thảo luận tại nhiều hội thảo trong và ngoài
nước. Được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học, chính quyền các cấp quan tâm, các bài
báo trên các tạp chí chuyên ngành đề cập và đã đạt được những kết quả nhất định.Sau
đây là tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:
Các công trình nghiên cứu về làng nghề và môi trường :
Các công trình: “Nghề cổ truyền nước Việt” của Vũ Từ Trang [66]; "Làng
nghề thủ công truyền thống Viêt Nam" của Bùi Văn Vượng [88]. Các tác giả đã 11 đề
cập một cách tổng quát về các nghề và làng nghề tiêu biểu của Việt Nam trong quá
khứ cũng như hiện tại. Đồng thời trong đó các tác giả cũng thể hiện sự trăn trở về
nghề thủ công Việt Nam đứng trước sự thăng trầm của lịch sử.
“Tác động xã hội và môi trường của việc phát triển làng nghề” của Vũ Tuấn
Anh, Nguyễn Thu Hòa [3] đã trình bày một cách tổng quan những xu hướng phát
triển các nghề phi nông nghiệp và các làng nghề ở nông thôn Việt Nam.Phân tích
những đặc điểm và tác động của sự phát triển làng nghề phi nông nghiệp và các làng
nghề đối với những thay đổi về kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt là tác động đối
với nhóm những hộ nghèo ở nông thôn.Trên cơ sở phân tích đó, đề xuất những kiến
nghị về việc phát triển và quản lý các nghề phi nông nghiệp và các làng nghề nhằm
mục đích giảm nghèo nói riêng, cũng như đảm bảo sự phát triển nông thôn Việt Nam.
Cùng chủ đề này còn có một số công trình: “Môi trường các làng nghề” Kỷ của Bộ
7
7
Khoa học Công nghệ và Môi trường [8]; “Phát triển tiểu thủ công nghiệp nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Thị Hiền [33]; “Làng nghề công nghiệp thủ công nghiệp với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo ở Nam Định ”
của Nguyễn Xuân Bách [4]; “Tình trạng ô nhiễm không 13 khí, đất, nước ở các làng
nghề và tác động của nó đến môi trường sống và sức khỏe cộng đồng” của Nguyễn
Trí Tiến [61].
Các công trình nghiên cứu về tình hình sản xuất và kinh doanh của làng nghề
và làng nghề truyền thống
Nhóm các công trình sách nghiên cứu “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô Hà Nội” của Mai Thế Hởn [36]
đã đi sâu phân tích đánh giá tiềm năng, thực trạng của việc phát triển làng nghề truyền
thống cả những mặt được và chưa được, cũng như vấn đề bức bách đặt ra cần giải
quyết như: Chủ trương, chính sách và luật pháp; vốn đầu tư cho sản xuất; vấn đề môi
trường; về thị trường và tiêu thụ sản phẩm; về trình độ quản lý của người lao động.
Công trình này đã đề xuất được những phương hướng và giải pháp phát triển LNTT
vùng ven thủ đô Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
“Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa” của
Dương Bá Phượng [45] đã đề cập những vấn đề chung về làng nghề, vai trò tác động
và những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề. Đồng thời, đi sâu phân
tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của các làng nghề về lao động, vốn, công
nghệ, thị trường tiêu thụ của sản phẩm và môi trường trong các làng nghề. Các quan
điểm và phương hướng bảo tồn, phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, HĐH
nông thôn mang tính khả thi cao và sát thực với thực tế.
“Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Mai Thế Hởn và các cộng sự [36] đã tập trung nghiên cứu làm rõ phạm trù
làng nghề truyền thống, đặc điểm hình thành và vị trí, vai trò của LNTT đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ lịch sử; đồng thời, đi sâu phân tích những
kinh nghiệm phát triển LNTT tiểu thủ công nghiệp của một số nước và rút ra bài học
quý báu mà Việt Nam cần quan tâm; đánh giá tiềm năng, thực trạng của việc phát
triển LNTT trong những năm đổi mới và những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục các
tác giả đã. Đưa ra những phương hướng và đề xuất những giải pháp đồng bộ, xác
thực nhằm phát triển mạnh mẽ LNTT bao gồm: Giải pháp lập quy hoạch, kế hoạch
8
8
phát triển LNTT; giải pháp mở rộng vàphát triển đồng bộ các loại thị trường cho
LNTT; giải pháp đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong LNTT;
giải pháp chuyển giao công nghệ thích hợp và đổi mới công nghệ cho LNTT; giải
pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động của
các làng nghề.
“Làng nghề truyền thống đồng bằng sông Hồng sau khi Việt Nam gia nhập tổ
chức thương mại thế giới” của Vũ Thị Thoa [58] đã phân tích những tác động tích
cực và tiêu cực tới sự phát triển của các làng nghề truyền thống sau khi gia nhập
WTO. Đồng thời, tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển của các làng nghề truyền
thống đồng bằng sông Hồng sau khi gia nhập WTO; từ đó rút ra những vấn đề cần
phải tháo gỡ và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển các LNTT
ở đồng bằng sông Hồng sau khi gia nhập WTO [83]. 18 Ngoài ra, còn có một số công
trình như:
Các công trình nghiên cứu tổng quan về công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Các công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp, nghề cổ truyền và
vấn đề môi trường gắn bó với làng nghề. Các công trình nghiên cứu về tình hình sản
xuất và kinh doanh của làng nghề và làng nghề truyền thống. Các công trình nghiên
cứu về phát triển du lịch. Làng nghề truyền thống luôn là một trong những đề tài hấp
dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu về làng nghề với các đề tài như vai trò của làng nghề trong việc phát triển
kinh tế xã hội, sự biến đổi của các làng nghề trong giai đoạn mới... Các công trình
nghiên cứu tổng quát về làng nghề truyền thống Việt Nam như:
Bùi Văn Vượng, 2002. “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”: NXB
Văn hóa thông tin. Nêu lên một cách khái quát về các làng nghề truyền thống của
Việt Nam. Phạm Thị Thảo, 2007. “Phát huy nghề và làng nghề truyền thống”: Viện
Văn hóa Dân tộc. Của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo, 2010. Làng
nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội: NXB Đại học Quốc Gia. Đã chỉ rõ sự hình
thành làng nghề.
Luận án Tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, 2003. : Viện kinh tế học, Trung
tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia. Luận án đã hệ thống những vấn đề lý
luận cơ bản về làng nghề truyền thống ở nông thôn theo những quan điểm của khoa
9
9
học kinh tế chính trị Mác – Lênin và đƣờng lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam
và làm rõ vai trò của làng nghề truyền thống ở nông thôn từ khi đổi mới đến nay.
Các khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch viết về làng nghề : “Làng nghề
truyền thống Hải Phòng với việc phát triển du lịch nhằm trình bày về vai trò làng
nghề truyền thống “ - PGS. TS Nguyễn Hữu Khải; ThS. Đào Ngọc Tiến “Thương hiệu
hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống”. Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Lao động Xã
hội, năm 2006. - Vũ Từ Trang “Nghề cổ đất Việt”. Sách khảo cứu, Nhà xuất bản Văn
hoá - Thông tin, năm 2007. - Phạm Côn Sơn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”.
Sách tham khảo. Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, năm 2007. - Nguyễn Văn Đáng “Giải
pháp phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Nội và các vùng phụ cận đến năm 2010
và những năm tiếp theo”. Mã số B2003 - 39-34. - Ngoài những công trình nghiên cứu
tương đối quy mô này, nhiều hội thảo của các bộ, ngành, Hiệp hội làng nghề cũng có
những đề tài nghiên cứu trong từng lĩnh vực. Chẳng hạn, năm 2008, Hiệp hội làng
nghề Việt Nam tổ chức Hội thảo: “Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong
bối cảnh mới”, và Hội thảo “Tiềm năng và thực trạng làng nghề Việt Nam hiện nay” đã
có nhiều tham luận, báo cáo nghiên cứu tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ và nêu ra những giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.
Trong đó, đáng lưu ý là những tham luận như: “Bảo tồn và phát triển làng nghề”,
“Phát triển nghề, làng nghề trong điều kiện mới” của ông Vũ Quốc Tuấn, Chủ tịch
Hiệp hội làng nghề Việt Nam, “ Một số vấn đề phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở các địa phương - Kết quả nghiên cứu ở 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ” của ông
Lê Đức Thịnh và bà Lê Thị Phi Vân, “Định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề”
của thạc sĩ Bùi Văn Vượng, “Vài suy nghĩ về du lịch làng nghề Việt Nam” của ông Lưu
Duy Dần, Phó chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều báo, tạp chí
cũng có những bài viết về thực trạng, vai trò, giải pháp phát triển làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề, nhưng chỉ ở từng khía cạnh riêng rẽ, không mang tính tổng kết
truyền thống trong hoạt động du lịch, thực trạng hoạt động làng nghề truyền thống Hải
Phòng trong việc phát triển du lịch. Tiếp nối cho đề tài các làng nghề :khóa luận “Phát
triển du lịch làng nghề tranh Đông Hồ huyện Thuận Thành – Bắc Ninh ”của bạn Lê
Thị Na khoa Du lịch trường Đại học công nghiệp Hà Nội;khóa luận “Nghiên cứu tiềm
năng phát triển du lịch tại làng gốm Chu Đậu –Hải Dương”của bạn Phùng Thị Hải
Yến,khoa Du lịch trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội,…chỉ ra các điều kiện để có
10
10
thể hình thành nên sự phát triển của làng nghề cũng như hoạt động du lịch tại làng
nghề đang từng bước được khai thác .
Nhìn chung đề tài về làng nghề đã ,đang và vẫn là đối tượng được nhiều tác
giả quan tâm ,nhưng có lẽ nghề dệt truyền thống thì vẫn chưa được khai thác nhiều
Một số đề tài về nghề dệt có thể kể đến :”Một số giải pháp phát triển nghề truyền
thống tại làng nghề dệt lụa Mã Châu,Duy Xuyên, Quảng Nam”của Th.S Nguyễn Thị
Thúy Diễn;Khóa luận Nghề dệt thổ cẩm ở làng hoa Tiền, xã Châu Tiến, huyện Quỳ
Châu, tỉnh Nghệ An của nghiên cứu sinh Sầm Văn Túc ;”Nghề dệt thổ cẩm ở Lào :
qua trường hợp làng Mường Xang, huyện Sầm Nưa tỉnh Hủa Phăn và làng Noỏng
Bua Thoong Tạy ở thủ đô Viêng Chăn”; hay của Trần Thị Mai Lan, chuyên ngành
Nhân học văn hóa, mã số 62 31 65 01, với đề tài: “Nghề dệt thủ công của người Thái
Trắng ở Mai Châu, Hòa Bình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm và đề xuất giải pháp quản lý môi trường làng
nghề dệt nhuộm tại tỉnh Hà Nam ” của Trần Thị Hiền.Các nghiên cứu trên đều xoay
quanh đối tượng nghề dệt và tập trung khai thác các vấn đề có ảnh hưởng đến nghề
dệt và sự phát triển nghề dệt,dưới nhiều góc độ và hoàn cảnh.Trong khi không có
mấy đề tài nghiên cứu nhìn làng nghề dưới góc độ nguồn nhân lực nói chung và vai
trò của phụ nữ nói riêng,mặc dù cũng có rất nhiều trang báo,đề tài ,hội nghị nhấn
mạnh đến vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực đời sống . Chủ đề “Người phụ nữ”là
chủ đề gây được sự chú ý của đông đảo các nhà nghiên cứu ,nhà phê bình,đã có rất
nhiều tác phẩm và công trình nghiên cứu về vấn đề này .trong mỗi tác phẩm và
nghiên cứu đã lí giải vấn đề “Phụ nữ”ở những khía cạnh khác nhau.Nhưng mỗi tác
phẩm đều để lại cho người đọc những giá trị có ý nghĩa về cả lí luận lẫn thực tiễn.
Chúng ta có thể kể đến một số đề tài như :“Vai trò của phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên” th.s Vương
Thị Vân .“Vai trò của phụ nữ đối với việc đảm bảo an toàn thực phẩm gia đình ở
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay tìm hiểu về thực trạng và các yếu tố
ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ đối với việc đảm bảo an toàn thực phẩm gia đình
ở thành phố Huế”NCS Võ Nữ Hải Yến. “Vai trò của phụ nữ trong hoạt động hoà giải
tại cộng đồng: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Tây cũ” Trần Thị Xuân Lan.“Vai trò
của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên ’’Luận văn Th.s Lê Thị Minh; “Nhận diện những vấn đề của phụ nữ nông
11
11
thôn trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình(Nghiên cứu trường hợp Phụ nữ làm
nghề mây tre đan tại xã Phú Nghia,huyện Chương Mỹ,thành phố Hà Nội) luận văn
thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung.Vai trò của phụ nữ đã được đề cập trong khá nhiều
công trình ,bài viết của nhiều học giả,nhà nghiên cứu trong và ngoài nước .Tuy nhiên
vai trò của người phụ nữ trong việc duy trì cũng như phát triển làng nghề thì không
nhiều ,quan tâm về vấn đề này đã có luận văn của sinh viên Lường Thị Hường VHDT 11A 7 -khoa Văn hóa Dân tộc, trường Đại học Văn hóa Hà Nội với đề tài :
“Vai trò của người phụ nữ Thái trong việc giữ gìn văn hóa truyền thống (Qua nghiên
cứu nghề dệt, may ở Noong Bua, thành phố Điện Biên)”.Dưới góc nhìn phụ nữ trong
việc giữ gìn nghề truyền thống,nhóm chúng em nghiên cứu trường hợp làng lụa Vạn
Phúc ,Hà Đông với đề tài :“Vai trò của phụ nữ trong duy trì nghề truyền thống
( Nghiên cứu trường hợp làng dệt lụa Vạn Phúc -Hà Đông - thành phố Hà Nội)”
với mong muốn sẽ góp một phần nhỏ vào việc bảo tồn và phát huy các nghề thủ công
truyền thống của người làng Vạn Phúc nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung .
1.2. Khái niệm của đề tài
1.2.1 Khái niệm làng
Làng theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt là một khối người quây
quần ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào xã hội của người
Việt, là tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một không gian
lãnh thổnhất định, ở đó tậ hợp những người dân quần tụ lại cùng sinh sống và
sản xuất.
“Làng” là danh từ (theo tiếng Nôm), dùng để chỉ đơn vị tụ cư nhỏ nhất
nhưng chặt chẽ và hoàn thiện nhất của người Việt. Trong buổi đầu được gọi là
các Kẻ, Chạ, Chiềng của người Việt cổ, về sau được gọi là Làng, còn ở khu vực
miền núi được gọi là Bản, Mường, Buôn, Plei, Plum, Đê,…
Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: “Làng là một đơn vị cộng cư có một
vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội nông
nghiệp tiểu nông tự cấp tự cung, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế
thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình-tông tộc gia trưởng, đảm bảo sự
cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình thành, được tổ
chức chủ yếu dựa vào 2 nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ.Một mặt làng có sức
12
12
sống mãnh liệt, mặt khác xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc động, không có
bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nước qua tác động
của mối liên hệ làng và siêu làng” [19,tr. 130]
1.2.2 Khái niệm làng nghề .
Lịch sử phát triển nền văn hoá cũng như lịch sử phát triển kinh tế Việt
Nam luôn gắn liền lịch sử phát triển của các làng nghề.Sự tồn tại và phát triển
của các làng nghề là một quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu đời của những
người thợ, trong số này không ít làng nghề đã có lịch sử hàng trăm năm và
được truyền qua nhiều thế hệ.Nhiều làng nghề là một bộ phận kinh tế - văn hoá
quan trọng góp phần phát triển kinh tế nông thôn, thậm chí có nghề được nâng
lên thành "di sản vật thể". Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo làm bằng
các vật liệu đơn giản mang đậm đặc trưng văn hoá Việt Nam đã được đông đảo
khách hàng trong và ngoài nước ưu chuộng, trở thành một tiềm năng kinh tế văn hoá - xã hội có sức sống bền vững. Có thể nói làng ở Việt Nam được phát
triển từ rất lâu đời. Ngay từ thời vua Hùng dựng nước đã xuất hiện, những xóm
làng định canh được hình thành trên cơ sở những công xã nông thôn. Trong đó
mỗi công xã gồm một số gia đình, có tinh thần cộng đồng, cộng cảm, sống
quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Như vậy, có thể hiểu làng là một
cộng đồng dân cư tự nhiên được tập hợp theo quan hệ huyết thống, quan hệ địa
vị, quan hệ nghề nghiệp,…được ổn định nhiều mặt. Lúc đầu, nguồn sống cơ
bản của người dân trong các làng là sản phẩm nông nghiệp, nhưng về sau có
một bộ phận dân cư sống bằng những nghề khác nhau, có những người làm
nghề buôn bán, có những người chế tác công cụ lao động, sản xuất đồ mộc, đan
lát đồ dùng, nuôi tằm, dệt vải… tức là chuyển sang sản xuất thủ công. Trong
thời kỳ đầu, nghề thủ công ở quy mô gia đình và phụ thuộc vào kinh tế tự
nhiên giống như mô tả của Lênin: "ở đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là
một mà thôi" [20, tr.411-412]. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
nghề thủ công từ một nghề phụ trong nông nghiệp chuyển thành một nghề độc
lập.Tuy họ không làm nông nghiệp nhưng vẫn gắn chặt với làng quê.Có những
thợ thủ công chuyên làm TTCN và sống bằng nghề đó, nhưng cũng có những
13
13
người làm nông nghiệp kiêm thợ thủ công. Càng về sau số người trong làng
chuyển hẳn sang sản xuất mặt hàng thủ công tăng lên dần, có đội ngũ thợ, có
quy trình công nghệ và mở rộng đến mức độ nhất định thì làng đó được gọi là
làng nghề. Đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan niệm khác nhau về
làng nghề.Sau đây xin nêu ra một số quan niệm tiêu biểu về làng nghề.
Quan niệm thứ nhất.Theo GS. Trần Quốc Vượng thì làng nghề được
định nghĩa như sau: Làng nghề là làng ấy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông
và chăn nuôi nhỏ (lợn, gà…) cũng có một số nghề phụ khác (đan lát, làm
tương, làm đậu phụ…) song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một
tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ
chức), có ông trùm, ông phó cả… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm,
có quy trình công nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", " nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh" sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt
hàng thủ công, những mặt hàng đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm
hàng hoá và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh và với
thị trường đô thị, thủ đô (Kẻ Chợ, Huế, Sài Gòn…) và tiến tới mở rộng ra cả
nước rồi có thể xuất khẩu ra cả thị trường nước ngoài.
Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ trăm
ngàn năm) "dân biết mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao
tục ngữ... trở thành di sản văn hoá dân gian" [21, tr. 38-39]. Quan niệm này
đúng với làng nghề truyền thống, nhưng lại không thích hợp đối với với làng
nghề nói chung và làng nghề mới hoạt động, với yêu cầu phải có nghề cổ
truyền nổi trội, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp là rất khó
thực hiện.
Quan niệm thứ hai: Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng thì: Làng
nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công. ở đấy không nhất thiết
tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường
hợp cũng đồng thời là người làm nghề nông (nông dân). Nhưng yêu cầu
chuyên môn hoá cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng nghề
truyền thống ngay tại làng quê của mình… [22, tr.13]. Quan niệm này cũng chỉ
14
14
mới dừng lại ở một khía cạnh của làng nghề truyền thống chưa đưa ra được
khái niệm bao quát về làng nghề nói chung.
Quan niệm thứ ba: Theo đề tài "Khảo sát một số làng nghề truyền thống
- chính sách và giải pháp" năm 1996 của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học thì "
làng nghề là một cộng đồng dân cư, một cộng đồng sản xuất nghề tiểu thủ công
nghiệp và nông nghiệp ở nông thôn "[23]. Quan niệm này chưa đủ bởi theo
phân tích ở trên, các địa phương ở nước ta có rất nhiều làng có nghề nhưng
chưa đạt đến mức độ được gọi là làng nghề.
Quan niệm thứ tư: Theo TS. Dương Bá Phượng thì "Làng nghề là làng ở
nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và
kinh doanh độc lập" [24, tr.13-14]. Quan niệm này đã nêu lên được hai yếu tố
cấu thành của làng nghề là làng và nghề, nêu lên được vấn đề nghề trong làng
tách khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập nên phù hợp với điều kiện mới
hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ nhất, song vẫn mắc phải hạn chế
của quan niệm thứ ba.
Quan niệm thứ năm: Một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm làng nghề
kèm theo các tiêu chí về lao động và việc làm. Chẳng hạn như: "làng nghề là
những làng đã từng có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa
phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong
năm"[25, tr.15]. Hay như trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số
chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn đệ trình tháng 5-2005 thì " Làng nghề là thôn,
ấp, bản có trên 35% số hộ tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu
nhập từ ngành nghề nông thôn chiếm trên 50% tổng thu nhập của làng " v.v..
Các quan niệm này đã quan tâm đến tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành
nghề, nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng nghề điều này sẽ làm cho các
nhà hoạch định chính sách khó xử lý khi các chế độ ưu đãi đối với làng nghề
thay đổi.
Từ các quan niệm trên cho thấy khái niệm về làng nghề được cấu thành
bởi hai yếu tố làng và nghề.Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng
được gọi làng đó là làng nghề.Quan niệm về làng nghề phải thể hiện được cả
15
15
mặt định tính và định lượng.Xét về mặt định tính, làng nghề phải thể hiện được
sự khác biệt so với làng thuần nông hoặc so với phố nghề ở thành thị.Xét về
mặt định lượng, làng nghề phải đạt đến quy mô nhất định và có tính ổn định
tương đối cao.Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông nghiệp nên khi quy
mô làm nghề của làng phải phát triển đến mức độ nào đó mới được gọi là làng
nghề. Việc xác định sự phát triển của làng nghề vừa phải đặt nó trong quy mô
làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt động kinh tế của nghề, vừa phải
xem xét bản thân hoạt động nghề của làng.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các điểm hợp lý của các quan niệm nêu trên
chúng tôi đưa ra khái niệm về làng nghề như sau: Làng nghề là một làng mà ở
đú tập trung một số lượng lớn lao động của làng vào làm một hoặc một số nghề
nào đú và thu nhập của họ chủ yếu dựa vào việc làm nghề, thời gian làm việc
của họ chiếm nhiều hơn hẳn so với thời gian làm nghề nụng nghiệp. Hiện nay
trờn phạm vi cả nước cú rất nhiều loại làng nghề như: làng nghề tiểu thủ cụng
nghiệp truyền thống, làng nghề tiểu thủ cụng nghiệp, làng nghề trồng cây hoa,
làng nghề trồng cõy cảnh, làng nghề nuụi cỏ cảnh, …
Dưới gúc độ nghiờn
cứu của luận văn chỳng tụi đưa ra khỏi niệm; Làng nghề tiểu thủ công nghiệp
là một làng mà ở đó tập trung phần lớn lao động của làng vào làm nghề tiểu thủ
công nghiệp, thu nhập từ các nghề tiểu thủ công nghiệp của làng chiếm tỷ trọng
lớn hơn so với thu nhập từ nông nghiệp và các ngành nghề khác mang lại. Làng
nghề ở nước ta hiện nay rất phong phú và đa dạng, do vậy tuỳ theo mục đích
nghiên cứu và nhu cầu quản lý mà người ta có các cách phân loại làng nghề
khác nhau.
Phân theo số lượng nghề:
Làng một nghề: Là những làng nghề ngoài nghề nông ra chỉ làm một
nghề thủ công.
Làng nhiều nghề: Là những làng ngoài nghề nông còn có một số hoặc
nhiều nghề khác.
Phân theo thời gian làm nghề:
Làng mới làm nghề: Là những làng mới làm nghề tiểu thủ công nghiệp
trong vòng 20-30 năm trở lại đây.
16
16
Làng làm nghề lâu đời: Làng nghề truyền thống.
Phân theo trình độ kỹ thuật:
Làng nghề làm nghề có kỹ thuật giản đơn như đan lát, chế biến lương
thực, thực phẩm, làm gạch, nung vôi… Sản phẩm của các làng nghề này có
tích chất thông dụng, rất phù hợp với một nền kinh tế tự cấp tự túc. + Làng
nghề làm nghề có kỹ thuật phức tạp như các nghề: kim hoàn, đúc đồng, làm
gốm, khảm gỗ, dệt lụa, thêu thùa… Các nghề này không chỉ có kỹ thuật phức
tạp, mà đòi hỏi sự khéo léo.Sản phẩm của nó vừa có giá trị kinh tế cao, vừa có
giá trị nghệ thuật cao.
1.2.3 Khái niệm làng nghề truyền thống .
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về làng nghề truyền
thống, nhưng ta có thể hiểu làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề
thủ công truyền thống. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì làng nghề là: “Làng
nghề là làng , tuy có trồng trọt theo lối thủ nông và chăn nuôi (gà, lợn, trâu,…)
làm một số nghề phụ khác (thêu, đan lát,…) song đã nổi trội một nghề cổ
truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên
nghiệp, có ông trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ đã chuyên tâm, có
quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất
thân vinh”, sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những hàng thủ công,
những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có
quan hệ tiếp thị với thị trường là vùng rộng xung quanh với thị trường đô thị,
thủ đô và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài.[26]
Làng nghề ở đây không nhất thiết là tất cả mọi người dân trong làng đều
sản xuất thủ công, người thợ thủ công cũng có thể là người nông dân làm thêm
nghề phụ trong lúc nông nhàn. Tuy nhiên do yêu cầu về tính chuyên môn hóa
cao đã tạo ra những người thợ thủ công chuyên nghiệp, chuyên sản xuất hàng
thủ công truyền thống ngay tại quê hương của mình.
Nghiên cứu một làng nghề thủ công truyền thống là phải quan tâm đến
nhiều mặt, tính hệ thống, toàn diện của làng nghề thủ công truyền thống đó,
trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân của làng, sản phẩm thủ công, thủ pháp
17
17
kĩ thuật sản xuất và nghệ thuật. Làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm
sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên
làm nghề mang tính lâu đời, được truyền đi truyền lại qua các thế hệ, có sự liên
kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là bán lẻ, họ có cùng tổ nghề, các thành viên luôn
có ý thức tuân theo những 6 ước, chế độ, gia tộc, cùng phường nghề trong quá
trình lịch sử phát triển đã hình thành nghề ngay trên đơn vị cư vị cư trú của
xóm của họ.
Làng nghề thủ công truyền thống thường có đại đa số hoặc một số lượng
lớn dân cư làm nghề cổ truyền, thậm chí là 100% dân cư làm nghề thủ công
hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề lâu đời, kiểu cha truyền con nối. Sản
phẩm của họ không những có tính ứng dụng cao mà còn là những sản phẩm
độc đáo, ấn tượng, tinh xảo.Ngày nay trong quá trình phát triển của kinh tế xã
hội. Làng nghề đã thực sự thành đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp, có vai trò,
tác dụng tích cực rất lớn đối với đời sống kinh tế xã hội
1.3. Lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể hoàn thành bài khóa luận, nhóm em đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau
1.3.1.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nhóm em đã thu thập, sắp xếp và tham khảo tài liệu, thông tin ở những cuốn
sách nghiên cứu chuyên sâu về làng nghề truyền thống, làng dệt cổ, các giáo
trình về du lịch hay những thông tin trên các trang web báo trí, mạng xã hội của
các tác giả khác nhau. Tìm hiểu nguồn gốc, lịch sử, thực trạng phát triển và các
chương trình du lịch có liên quan đến làng lụa Vạn Phúc Hà Đông và từ đó tìm
hiểu được vị trí của người phụ nữ trong quá trình gìn giữ và phát triển nghề dệt
lụa truyền thống tại làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Nội.
1.3.1.2 Phương pháp khảo sát thực địa
Để có những thông tin xác thực nhất về sự phát triển du lịch tại làng nghề dệt lụa
Vạn Phúc Hà Đông, nhóm em đã có chuyển đi khảo sát thực địa tại đây vào
tháng 4 năm 2018. Trong chuyển đi thực tế, nhóm em đã thu nhận cho mình
18
18
được những thông tin, những phản ánh của người dân địa phương, khách du lịch
nhằm góp phần làm chính xác và cụ thể hơn cơ sở dữ liệu đưa ra, mở mang hơn
lượng thông tin có trên Internetm, báo, đài, tạp chí,…
1.3.1.3. Phương pháp phỏng vấn
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu, cùng với việc đi khảo sát thực tế, nhóm em
đã thu thập thêm các thông tin về các giá trị của Làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông,
đặc biệt là vai trò của người phụ nữ trong quá trình gìn giữ và phát triển nghề
dệt lụa truyền thống thông qua bảng phỏng vấn người dân địa phương, một số
khách du lịch. Qua đây cũng thấy được độ phát triển hiện nay của làng nghề
này.Các nguồn giữ liệu này giúp cho bài viết được cụ thể, hoàn thiện và mang
tính thuyết phục cao hơn.
1.3.2 Đối tượng và địa bàn nghiên cứu khóa luận
1.3.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tầm quan trọng của những người phụ nữ trong quá trình duy trì và phát triển
nghề dệt truyền thống tại làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông.
1.3.2.2. Địa bàn nghiên cứu
Về không gian: tại địa bàn làng lụa Vạn Phúc, Hà Đông,.
Về thời gian: thời gian nghiên cứu trong khoảng từ 3/2018 - 5/2018, khảo sát số
liệu tài liệu từ năm 2005 đến nay, tầm nhìn đến năm 2020.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã phân tích và làm
rõ thêm các khái niệm làng nghề, văn hóa làng nghề và biến đổi văn hóa làng
nghề. Luận án xác định, làng nghề là các làng có phần đông cư dân sống bằng
một nghề hoặc nhiều nghề thủ công, có khi chỉ là một công đoạn của nghề, tạo
ra các sản phẩm mang những nét riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề
chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các hoạt động kinh tế khác. Văn hóa làng nghề được
19
19
đề cập, không đơn thuần là số cộng giữa văn hóa làng và văn hóa nghề, mà là
một dạng đặc thù, là một phức thể các yếu tố văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và
văn hóa tinh thần của làng nghề, giữa nghề và làng, giữa con người và các yếu tố
ngoài con người, có quan hệ mật thiết, ràng buộc và tác động vào nhau.. Văn
hóa làng nghề cũng như văn hóa làng, được cấu thành bởi văn hóa vật chất, văn
hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng; các yếu tố đó có quan hệ mật thiết,
ràng buộc và phụ thuộc nhau, trong đó nghề giữ vị trí trung tâm. Ngoài các yếu
tố chung của văn hóa làng, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như nhịp
sống làng nghề, tâm lý và tính cách của người làng nghề… Song, văn hóa làng
nghề là một chỉnh thể thống nhất, không thể phân chia. Việc phân chia một cách
cơ học các thành tố trên nhằm giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về sự vận
động, biến đổi của văn hóa làng nghề.
CHƯƠNG 2: NGHỀ DỆT TRUYỀN THỐNG CỦA LÀNG VẠN
PHÚC,HÀ ĐÔNG,HÀ NỘI
2.1. Giới thiệu tổng quan về làng Vạn Phúc
2.1.1 Vị trí địa lý
Hà Tây là một tỉnh nằm sát thủ đô Hà Nội có tiềm năng du lịch vô cùng
lớn.Ngoài hệ thống chùa chiền nổi tiếng vào bậc nhất toàn quốc, Hà Tây còn được
mệnh danh là đất “trăm nghề” . Bởi Hà Tây hội tụ rất nhiều làng nghề truyền thống.
Hiện nay, theo thống kê Hà Tây có trên 1300 làng, Thời xưa, làng được coi là
đơn vị hành chính của nước. Thời nay, làng là một đơn vị văn hóa (làng văn hóa),
đơn vị kinh tế (làng nghề), một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học.
Mỗi một làng ở Hà Tây đều mang những hằng số chung nhất của một làng
Việt Nam ở vùng tam giác châu thổ song Hồng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào hoản cảnh
lịch sử, môi trường địa lý mỗi làng ngoài những nét chung đã hình thành những sắc
20
20
thái văn hóa riêng. Trải qua thời kỳ dài xây dựng và phát triển, các thế hệ người làng
đã hun đúc, đắp bồi những sắc thái văn hóa ấy trở thành thuần phong mỹ tục. Yếu tố
truyền thống của quá khứ ở mỗi làng đọng dấu ấn không phai mờ vào mỗi hoạt động
kinh tế xã hội.
Cho dù trình độ phát triển ở mỗi làng nghề khác nhau song dân làng nào cũng
có quyền tự hào về làng mình với sự phong phú đa dạng của văn hóa làng Vạn Phúc
đã từ lâu đời được nhiều người biết đến với nghề dệt lụa nổi tiếng và giầu truyền
thống cách mạng. Có nhà thơ đã phải thốt lên:
“Vạn Phúc quê lụa của ta ơi!
Nuôi ra từ buổi khóc chào đời
Lớn lên theo Đảng đi hoạt động
Liên tục đên nay chưa nghỉ ngơi.”
(Vạn Phúc quê ta.)
Vạn Phúc ở ngay cửa ngõ Tây Bắc thị xã Hà Đông – thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Hà
Tây bây giờ.Thiên nhiên ưu ái Vạn Phúc một không gian thoáng đãng, một dải hình
thoi hàng cây vươn cao, thấp thoáng mãi tranh, mãi ngói trải dài giữa hai đường giao
thông thủy bộ. Phía đông là dòng song Nhuệ Giang. Phía tây là đường quốc lộ 70
(nay gọi là đường 430). Phía nam là thị xã. Phía bắc là hai làng Ngọc Trục, Đại Mỗ
và đồng lúa mênh mông.
Từ năm 1945 về trước, Vạn Phúc thuộc tổng Đại Mỗ Phủ Hoài Đức. Sau cách
mạng tháng tám Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông. Năm 1948, theo yêu cầu chỉ đạo
vùng địch tạm chiến, Vạn Phúc lại thuộc thị xã Hà Đông.
Lợi thế của Vạn Phúc là làng quê nhất xã nhất thôn. Xã chỉ chia thành năm
xóm với những cái tên mộc mạc thân quen: xóm Ngoài, xóm Trong, xóm Giữa, xóm
Lẻ và xóm Quán. Nay các xóm đã thay đổi và mang tên: Đoàn Kết, Quyết Tiến, Bạch
Đằng, Hồng Phong, Hạnh Phúc, Chiến Thắng và Độc Lập.
Vạn Phúc như đất lành chim đậu. Làng chưa đầy 2000m 2 nhưng có tới 5012
dân. Trong đó độ tuổi lao động 1860 người gồm 1187 hộ. Trước cách mạng tháng
Tám 1945 chỉ có 678 hộ. Đó là chưa kể những cơ quan, đơn vị, khu tập thể của nhà
nước ở trên đất địa phương.
Người ta ví Vạn Phúc như “ bông hoa ngoại thành” bởi một làng nghề đẹp có
vị trí trọng yếu, là xã liền kề với thị xã Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội 11 km, nằm
21
21
trong vòng cung đường 70 boa quanh phía tây nam thủ đô, nơi tập trung nghề thủ
công lâu đời quanh cố đô lịch sử. Do điều kiện địa lý, lại thêm có nghề lụa nổi tiếng
trong nước và nước ngoài. Vạn Phúc rất thuận lợi giao lưu với thành thị và các vùng
xung quanh và xa hơn nữa, nhiều miền của đất nước, đặc biệt đã chịu ảnh hưởng sâu
sắc về chính trị văn hóa của Hà Đông, Hà Nội và trở thành nơi có vị trí quan trọng
trên nhiều mặt: chính trị,kinh tế, an ninh, quốc phòng v.v…
2.1.2 Lịch sử làng nghề:
Văn hóa là mục đích mà du lịch hướng tới, là bản chất nhân văn của thời đại
chúng ta. Dù người đi du lịch nhằm mục đích gì: thăm dân vãn cảnh, nghỉ ngơi…
hoặc theo phương thức nào: đường biển, đường bộ… thì mục đích cuối cùng là để
cảm nhận, thụ hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra. Nói cách
khác du lịch là hành vi ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và xã hội nhằm
phục vụ lợi ích cho riêng họ. Đó chính là văn hóa.
Thông thường trong những sách viết về du lịch, người ta sắp xếp các thành tổ
văn hóa vào tài nguyên nhân văn. Tài nguyên(nguồn lực) nhân văn bao gồm bề dày
lịch sử và truyền thống văn hóa. Nói cụ thể là hệ thống các di tích lịch sử văn hóa,
phong tục tập quán, lễ hội, các mon ăn thức uống của dân tộc, các loại hình nghệ
thuật, các lối sống nếp sống của các tộc người mang bản sắc độc đáo còn lưu giữ đến
ngày nay.
Đối với nước ta có thể khẳng định rằng chúng ta có nguồn lực nhân văn phong
phú, đặc sắc, độc đáo để phát triển du lịch, trải dài từ cổ đại đến hiện đại, phân bố
trên phạm vi cả nước. Tất cả tạo thành một tổng thể vừa mang tính thống nhất, vừa
có bản sắc riêng độc đáo - là tiềm năng dồi dào cho ngành du lịch phát triển. Một
trong những tiềm năm dồi dào đó là du lịch văn hóa – làng nghề truyền thống. Bởi
nhiều nghề và làng nghề truyền thống của ta đã nổi bật hẳn lên trong lịch sử văn hóa,
văn minh Việt Nam, ở đó không chỉ tập trung một hay nhiều nghề thủ công, trở thành
một trung tâm sản xuất lớn hơn, khá hơn, mà còn là nơi hội tụ các thợ và nghệ nhân
tài khéo, tạo ra những sản phẩm có bản sắc riêng,nới khác khó bề bắt chước được.
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi qui tụ các nghe
nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có lien
kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề, và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những
22
22
ước chế xã hội và gia tộc. Sự liên kết, bổ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo
thợ trẻ giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử
hình thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề ngay trên đơn vị cư trú,
làng xóm truyền thống của họ.
Làng nghề thủ công truyền thống thường có tuyệt đại bộ phận dân số làm nghề
cổ truyền (sản xuất và dịch vụ phi nông nghiệp), hoặc một vài dòng họ chuyên làm
nghề lâu đời, kiểu cha truyền con nối. Sản phẩm của họ làm chẳng những thiết dụng
mà lâu hơn nữa còn là hang cao cấp, tinh xảo, độc đáo, nổi tiếng và dường như
không đâu sánh bằng. Có thể nói, đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của rất nhiều nghề thủ
công truyền thống Việt Nam. Hầu như trên khắc các tỉnh, thành phố đều có mật độ
làng nghề truyền thống khá cao. Nơi đông đặc làng nghề là các tỉnh Hải Dương,
Hưng Yên, Hà Tây,Hà Bắc, Nam Hà, Thái Bình và thành phố Hà Nội.
Những nghề thủ công truyền thống quan trọng và nổi tiếng bậc nhất của nước
ta, phần lớn đã ra đời và phát triển rực rỡ tên các miền quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ:
làm giấy dó, dệt tơ lụa, làm đồ gốm,đúc đồng, khắc gỗ, sơn thiếp, sơn mài, khảm trai,
thêu ren, tranh dân gian, đóng thuyền,in mộc bản, làm con rối nước, làm nón, làm
quạt giấy, nghề kim hoàn… Các làng nghề nổi tiếng nhất ở đồng bằng Bắc Bộ dường
như có tuổi nghề rất cao, từ một vài trăm năm đến hàng nghìn năm.Nghề dệt lụa nuôi
tằm là một nghềnhư vậy:
“Dệt vải thanh vóc hoa dâu
Dệt tơ thành muôn màu sặc sỡ”
(Tình ca dân tộc Thái)
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc, nhân dân ta đã cố gắng từng bước
giải quyết nhu cầu về mặc. Theo sách “ Lĩnh năm chích quái” thời ấy các bộ tộc Việt
“ phải lấy vỏ cam làm áo, dệt cỏ làm chiếu”. Thư tịch cổ còn cho biết, sau hình thức
dùng vỏ cây sui, bẹ chuối làm vải mặc, người Việt cổ đã biết sớm trồng bông gai lấy
sợi.Vào đầu Công nguyên, nhân dân ta đã trồng khá nhiều bông, khi ấy một số nước
láng giềng chưa có bông để dệt vải. Có lẽ trong những thế kỷ xa xưa ấy, khái niệm về
các khung cửi chưa thực sự ra đời. Như ta đã biết, nhiều dấu vết nguyên thủy đến nay
vẫn còn được bảo lưu ở một số vùng dân tộc thiểu số với hình thức dệt vải cổ xưa.
Khoảng thế kỷ III sau Công nguyên, thợ thủ công Việt Nam đã dung bông kéo
sợi và dệt vải “ cát bà nhỏ” . Trong thời Bắc thuộc, loại vải cát bà này đã dủ tốt để
23
23
trở thành một loại cống phẩm cho triều đình phương Bắc. Sử cũ còn ghi: Trong
những cống phẩm hàng năm mà Sĩ Nhiếp nộp cho nhà Ngô có hàng nghìn tấm vải cát
bà nhỏ của Giao Châu. Và theo truyền thuyết dân gian, vào thời Cao Biền làm tiết độ
xứ ở nước ta, khoảng thế kỷ thứ IX sau Công nguyên, tại Vạn Phúc gần kinh thành
Thăng Long, đã xuất hiện bà tổ nghề dệt tên là A Lã Thị Nương ( Bảo tồn di tích lịch
sử van hóa,trang 23)
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ở nước ta
ngày càng phát triển và đã hình thành nên nghề truyền thống. Ngay từ đầu thời Lý,
khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long (1010), theo truyền thuyết dân gian thì ở đây
đã có một số làng nghề thủ công chuyên nghiệp như: xóm nghề, xóm bãi, xóm dâu
chuyên dệt lụa, làng vẽ làm giấy, tại Vạn Bảo ( Vạn Phúc) chuyên dệt vải hoa…
Dưới triều Trần, đất nước ta bị tan phá nặng nề trong cuộc chiên tranh xâm
lược tàn bạo của quan Nguyên Mông, nhưng nhân dân ta vẫn kiên trì giữ vững và
phat triển sản xuất. Nghề dệt không vì chiến tranh mà tàn lụi đi, trái lại,còn phát triển
hơn về mặt kĩ thuật. Vào cuối thế kỷ XII, thợ dệt Đại Việt bên cạnh việc tiếp tục dệt
lụa thong thường, đã cải tiến kỹ thuật, làm thêm các mặt hàng mới, dệt được loại lụa
sợi nhỏ ngũ sắc. Ngoài ra, việc dệt lụa cũng rất phát triển dưới thời Trần. Nhu cầu
dung loại hàng này khá phổ biến và đa dạng trong nhân dân, ai cũng mặc loại lụa
thâm cổ ái tròn khâu bằng là. Dân thì đội khăn dệt bằng tơ nhuộm màu thấm. Nhà
vua thì búi tóc và phủ bằng lụa là trên tóc, rồi để tỏa rộng sang hai bên.
Các trung tâm dệt lớn và rất nổi tiếng xuất hiện dưới triều Lê suốt hai thế kỷ
XV – XVI . Các trung tâm này sản xuất một số mặt hàng được coi là đặc sản, khó nơi
nào bắt chước được như ở Hà Đông, Hà Nội lúc đó các phường thợ tài giỏi về dệt vải
nhỏ mặt và dệt lụa mịn màng.
Từ thế kỷ XVII trở đi, mật độ các làng nghề thủ công chuyên nghiệp ngày
càng dày đặc. Sự hình thành sớm của các làng nghề và những trung tâm dệt nổi tiếng
cùng sức sống mãnh liệt của nó trong tiến trình lịch sử trước hết là nó đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Đăc biệt là trong tầng lớp vua chúa, quí tộc, quan lại
phong kiến và một số tầng lớp bình dân. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa trong
nước và giao lưu buôn bán với nước ngoài trong các thế kỷ XVI – XVII đã kích thích
hoạt động của nghề dệt lụa tơ tằm ở nước ta. Có thể nói, sản phẩm tơ tằm là mặt hàng
mà khách buôn nước ngoài rất ưa dung. Dưới triều Nguyễn và dưới sự thống trị của
24
24
thực dân Pháp, nghề dệt thủ công của nước ta bước đi những bước chậm chạp, chật
vật.Phải ghi nhận rằng, trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, người Phap ở Đông Dương có
tiến hàng cuộc chấn hưng kinh tế, chấn hưng tiểu công nghệ. Nhưng thực chất họ chỉ
tập trung chú trọng việc sản xuất nguyên liệu thô để đem về Pháp và xuất khẩu. Các
công xứ, thống đốc nối tiếp nhau thống trị các tỉnh, nhất là các tỉnh có nghề cổ truyền
quan trọng của ta như Hà Đông, Hà Nội đã lợi dụng danh nghĩa “ chấn hưng tiểu
công nghệ” để gây ơn nghĩa với nhân dân và để dễ thu lợi cho bản thân mình.
Từ giữa những năm 80 trở lại đây, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
bao cấp theo chế độ ưu đãi sang nền kinh tế hành hóa kinh tế thị trường thì nghề dệt
lụa tơ tằm đã có những bước chuyển quan trọng: đó là sự tan rã nhanh chóng của
phương thức sản xuất loại kinh tế thị trường thì nghề dệt lụa theo phương thức sản
xuất cổ truyền.
Đó là một số nét khái quát về quá trình hình thành của nghề lụa tơ tằm ở nước
ta cũng như bước thăng trầm của nó theo dòng lịch sử. Trải qau những thử thách gay
go, giờ đây nghề dệt lụa tơ tằm đang hứa hẹn những triển vọng mới. Trong sự nghiệp
đổi mới đất nước, nhiều làng dệt truyền thống đã thực sự vươn lên, thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng bằng chính nỗ lực của cính mình. Một trong nhưng cơ sở tiên
phong và đạt được những thành tựu to lớn là dệt cổ truyền Vạn Phúc. Làng Vạn Phúc
theo truyền thuyết có nghề dệt trước cả làng La, làng Mỗ. Phường cửi Vạn Phúc thờ
bà tổ nghề là Lã Thị Nga được phong thành hoàng làng. Bà Lã Thị Nga sống vào
khoảng thế kỷ VII – VII khi nước ta bị nhà đường đô hộ, gọi là “ An Nam đô hộ
phủ”. Thời ấy, nhân dân ta luôn phải đem những sản phẩm quí giá của đất nước mình
làm cống phẩm nộp cho bọn đô hộ. Sử chép: Trong các cống phẩm thời ấy có: “ tơ,
lụa, sa, the, đồ mây, bạch lạp…” . Bà Lã Thị Nga có thể là người giỏi dệt lụa, sa, the
về Vạn Phúc truyền nghề cho dân. Có điều đáng chú ý là trong hậu cung của đình
làng – nơi thờ bà họ Lã có bày thúng sơn, các thước sơn, cái kéo bằng sắt, cái vạch
bằng ngà toàn là đồ dung của thợ may. Có thể bà vừa là thợ dệt, vừa là thợ may
chăng? Có cụ nói: Khi bà ấy về làng có đưa một ông thợ dệt về, một người chuyên
dệt vải lụa, một người chuyên may áo .
Bà Lã Thị Nga tuy không phải là người đầu tiên tìm ra con tằm và phát minh
ra nghề dệt lụa như công chúa Thiều Hoa con gái vua Hùng Vương thứ sáu nhưng
công lao của bà đem nghề dệt về truyền cho dân thì dân làn Vạn Phúc mãi mãi tôn
25
25