MốI QUAN Hệ GIữA ĐộC LậP, Tự CHủ VÀ HộI NHậP QUốC Tế CủA VIệT
NAM HIệN NAY
Độc lập để chỉ khả năng của mỗi quốc gia về việc tự mình quyết định mọi công
việc đối nội đối ngoại của quốc gia đó, lựa chọn thể chế chính trị mà không bị lệ
thuộc vào bất cứ quốc gia nào, không bị can thiệp hoặc chi phối bởi quốc gia nào,
cũng không chịu ảnh hưởng hoặc theo đuôi một quốc gia nào.
Tự chủ là: việc không phân chia, không ngăn trở quyền lực để hình thành và củng
cố luật pháp của một quốc gia.
Sự kết hợp độc lập, tự chủ trong chủ quyền quốc gia
Độc lập và tự chủ là những phạm trù đóng vai trò then chốt trong các lĩnh vực
chính trị, luật pháp và quan hệ quốc tế. Về mặt khái niệm, độc lập dùng để chỉ trạng
thái của một chủ thể không bị phụ thuộc, không chịu sự khống chế của các thế lực
khác, còn tự chủ dùng để chỉ năng lực bên trong của chủ thể cho phép tự kiểm soát và
làm chủ tình hình, chủ động đưa ra các quyết sách nhằm thực hiện các mục tiêu mà
mình đề ra. Như vậy, độc lập phản ánh nhiều hơn khía cạnh bên ngoài; còn tự chủ
phản ánh nhiều hơn khía cạnh bên trong của cùng một hiện tượng. Đó là hai khái
niệm thống nhất, nhưng không đồng nhất.
1. Độc lập, tự chủ trong quan hệ hợp tác quốc tế
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta nhấn mạnh phải đặc biệt chú trọng nắm
vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: “quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan,
duy ý chí” (ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.72-73).
Trong những năm qua, mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế đã được đảm bảo hài hòa, góp phần tạo nên những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước. Trong những năm tới, một mặt, cần tiếp
tục phát huy kết quả đã đạt được; mặt khác, cần nắm bắt kịp thời, sâu sắc những
thay đổi về kết cấu độc lập, tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ngàycàng sâu rộng. Cần phòng tránh cả hai loại cực đoan trong nhận thức và hành
động. Một là, quan điểm cho rằng độc lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung
không thay đổi, không thể tương dung với hội nhập quốc tế, xem thế giới như một
phức thể thống nhất. Hai là, quan điểm cho rằng trong thời đại của toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, không cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân tộc, tự chủ,
chủ quyền quốc gia.
Trên phương diện kinh tế, độc lập tự chủ của quốc gia đòi hỏi phải có một nền
kinh tế độc lập tự chủ: cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần
thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất
nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công
nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế đối tác cũng
đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu. Đầu tư trực tiếp của
nước ngoài trong một số ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng,
chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư
nước ngoài vào những ngành nhạy cảm. Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt
giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia đầy đủ.
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là
nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và
ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có
thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực
cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định một trong 5 quan điểm
phát triển là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố
quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không
ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả” (Sđd, tr.102)
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát
triển theo định hướng XHCN; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực
kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển mạnh một số ngành, lĩnh vực và
sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng hàng đầu, có hiệu quả như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, luyện kim, hóa dầu,
than, khoáng sản, cơ khí chế tạo... Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, an toàn
năng lượng, an toàn tài chính - tiền tệ, an toàn môi trường; bảo đảm cho đất nước
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững trong bất cứ tình huống nào, lúc thuận lợi cũng
như lúc khó khăn, gặp rủi ro.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, độc lập về kinh tế của một
quốc gia không phải là biệt lập, khép kín, tự cung tự cấp, tự sản xuất mọi thứ đất
nước cần bằng bất cứ giá nào. Tự chủ không phải là tự quyết định một cách cứng
nhắc và tuyệt đối, không tính đến các quy định của các thể chế kinh tế - tài chính
quốc tế, không thực hiện đúng các cam kết quốc tế, không quan tâm đến lợi ích của
các đối tác, bất chấp luật pháp và thông lệ quốc tế.
Với tư cách thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam cần đặc
biệt quan tâm đảm bảo các cân đối kinh tế vĩ mô trong điều kiện mở cửa, hội nhập
về tài chính trở nên phức tạp hơn, trong đó đảm bảo ổn định tiền tệ trở thành khâu
then chốt. Trong ngắn hạn, nền kinh tế toàn cầu đang lâm vào hàng loạt cuộc khủng
hoảng đan xen về tài chính, năng lượng, lương thực, môi trường, do đó giữ vững ổn
định vĩ mô và duy trì đà tăng trưởng hợp lý trở thành ưu tiên số một. Về dài hạn,
bảo đảm tính độc lập, tự chủ về đường lối kinh tế không có nghĩa là chủ quan, duy ý
chí, mà là thuận theo xu thế phát triển chung của thế giới, tiếp thu có chọn lọc các lý
thuyết, mô hình, kinh nghiệm phát triển quốc tế, không giáo điều, rập khuôn máy
móc. Chiến lược kinh tế phải được xây dựng đồng bộ với chiến lược phát triển xã
hội và chiến lược hội nhập quốc tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong
từng giai đoạn phát triển.
Trên phương diện xã hội, yêu cầu của một quốc gia độc lập, tự chủ hàm chứa
năng lực thực hành thuần thục hai cách thức quản trị xã hội: chính thức (tức là bằng
pháp luật và các quy định thành văn) và phi chính thức (bằng con đường tuyên
truyền, vận động, giáo dục...).
Sự phát triển sâu rộng của xã hội công dân toàn cầu trong kỷ nguyên hội nhập
quốc tế hiện nay đang tạo ra hàng loạt không gian quyền lực chung vượt ra ngoài
tầm kiểm soát của chính phủ quốc gia. Trong xã hội công dân toàn cầu, cá nhân có
thể hành động đại biểu cho một quần thể nào đó, không nhất thiết đại biểu cho quốc
gia dân tộc và trong chừng mực nhất định, cũng không có trách nhiệm nghiêm ngặt,
rõ ràng phải phục tùng bộ máy quyền lực quốc gia. Để giải quyết tích cực các thách
thức, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã chủ động cải cách. Tuy nội dung và mô
hình cải cách có khác nhau, nhưng nổi lên 3 nét chung sau đây trong xu thế cải cách
chính phủ hiện đại. Một là, phi tập trung hoá quyền lực nhà nước, mạnh dạn phân
cấp, trao quyền cho các cơ cấu địa phương. Đây không phải là quá trình từ bỏ quyền
lực trung ương, mà là biện pháp để củng cố bản thân quyền lực ấy một cách hợp lý,
hiệu quả hơn. Trung ương không thay địa phương trong quản lý xã hội ở phạm vi cụ
thể, mà phải giám sát việc quản lý do chính quyền địa phương tiến hành. Nhờ quá
trình phi tập trung hoá này, các quyết định trở nên gần gũi, sát hợp với thực tế hơn
và động viên được nhiều hơn các tổ chức, cá nhân vào công việc quản lý xã hội. Hai
là, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường trong phân bổ các nguồn lực phát
triển xã hội; kết hợp tốt chức năng điều tiết của Chính phủ với cơ chế thị trường. Ba
là, phát huy rộng rãi dân chủ trong toàn xã hội, không chỉ thể hiện sự phát triển của
nền dân chủ chính trị, mà còn là sự trở về của quyền lực đến chủ thể đích thực của
nó là dân nhằm giúp chính phủ thực hiện sự quản lý hiện thực đối với các mặt của
đời sống xã hội.
Để bảo đảm chủ quyền quốc gia về mặt xã hội, khâu then chốt nhất là không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo xã hội của Đảng và năng lực quản trị xã hội của
Nhà nước.
Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác lý luận, tuyên truyền, vận
động, giáo dục của Đảng cả về hình thức lẫn nội dung, bám sát thực tiễn, tránh bệnh
hình thức, thành tích, xa rời quần chúng; đổi mới công tác cán bộ, tăng cường công tác
kiểm tra, chỉnh đốn, kỷ luật Đảng; các chủ trương của Đảng phải được nhanh chóng
triển khai thành các chính sách cụ thể của Nhà nước.
Thứ hai,các chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo phải được coi trọng, tránh để các
thế lực xấu lợi dụng kích động, gây chia rẽ; không ngừng củng cố đồng thuận xã
hội, khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng
và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng cường hiệu lực tư pháp, đẩy
mạnh phòng chống tham nhũng.
Thứ ba, Việt Nam đã trở thành một xã hội có mức thu nhập trung bình mà trọng
tâm công tác xã hội chuyển dần từ vấn đề xoá đói, giảm nghèo sang quản trị và an
sinh, do đó cần tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền, thực hành dân chủ,
mở rộng sự tham gia của người dân vào hoạt động của Nhà nước, xây dựng xã hội
dân sự.
Trên phương diện chính trị, an ninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là yêu cầu có
tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Báo cáo chính trị tại
Đại hội XI của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và nhân
dân ta trong 5 năm tới là: tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự, an
toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế(Sđd, tr.189).
Độc lập, tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường
phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển;
tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào
từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối
ngoại, cả kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng...
Quá trình hội nhập quốc tế và tự do hoá kinh tế có tác động đáng kể đến chủ
quyền về chính trị đối nội của Việt Nam.
Thứ nhất, quyền lực của Nhà nước bị điều chỉnh, phạm vi và cách thức can thiệp
của Nhà nước vào đời sống kinh tế - xã hội phải thay đổi. Việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước chịu sự theo dõi, giám sát, phản biện
ngày càng tăng từ phía cộng đồng xã hội, các doanh nghiệp, người dân, giới truyền
thông, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế. Mặc dù nhà nước và chính
phủ quốc gia vẫn là chủ thể hàng đầu, không thể thay thế trong cơ cấu quyền lực
chính trị hiện đại, nhưng không phải là duy nhất và toàn năng. Quyền tài phán tối
cao của nhà nước, chính phủ quốc gia đối với các vấn đề đối nội và đối ngoại của
đất nước vẫn tiếp tục được khẳng định, nhưng phải gắn với hàng loạt trách nhiệm
ngày càng lớn, ngày càng nặng nề.
Thứ hai, giao diện giữa khu vực công quyền và khu vực thị trường trở nên phức
tạp, các lợi ích công, tư đan xen, chồng chéo, tạo điều kiện cho các hành vi tham
nhũng, móc ngoặc, thách thức nghiêm trọng hiệu lực thực thi luật pháp, làm tổn hại
quyền lực của Nhà nước.
Thứ ba, yêu cầu dân chủ hoá xã hội gia tăng mạnh mẽ, bao gồm cả dân chủ hoá
hoạt động của Đảng và Nhà nước. Người dân ngày càng hiểu biết hơn về chính trị,
nhận thức tốt hơn về các quyền công dân, quyền con người, cũng như kỹ năng thực
thi các quyền đó và nhấn mạnh cả nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng thể hiện ở tư duy, nhận
thức độc lập, sáng tạo, xuất phát từ lợi ích giai cấp và dân tộc, không giáo điều, rập
khuôn, máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại,
trong xác định bạn, thù và tập hợp lực lượng quốc tế. Tuy nhiên, cần nắm bắt sâu
sắc các nhân tố quan trọng trong quá trình phát huy độc lập, chủ quyền quốc gia:
Thứ nhất, về môi trường quốc tế, độc lập và tự chủ về đối ngoại của Việt Nam
luôn nằm trong tương quan và quan hệ chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm
quyền lực quốc tế. Việc ta có thể khai thác lợi ích từ hội nhập đến đâu tuỳ thuộc vào
sự ổn định, phát triển trong nước, cũng như năng lực xử lý quan hệ với các nước
lớn, các trung tâm quyền lực thế giới, bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong
quan hệ với họ.
Thứ hai, về môi trường khu vực, ổn định và phát triển, hay trái lại bất ổn và
khủng hoảng tại Đông Nam Á và rộng hơn là tại châu Á - Thái Bình Dương đều có
ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ đối ngoại của nước ta.
Thứ ba,về môi trường toàn cầu, hội nhập và mở cửa tạo cơ hội cho một số thế lực
chính trị bên ngoài nhân danh nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo can thiệp vào
công việc nội bộ, thực hiện ''diễn biến hoà bình”, kích động, xúi giục các hoạt động
bạo loạn, lật đổ, đe dọa an ninh quốc gia.
2. Con đường hội nhập kinh tế ở Việt Nam và các thành công bước đầu.
a. Các bước đi cuả nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 1993, chúng ta đã công khai quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
như: quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB, ngân hang phát triển Châu á
ADB. IMF và WB đã hỗ trợ cho ta thông qua chương trình tín dụng trung hạng;
chương trình điều chỉnh cơ cấu SAC của WB và chương trình điều khiển cơ cấu mở
rộng ESAF của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với
những yêu cầu của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Trong quan hệ với cơ sở các
tổ chức này ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không trái vơí
đường lối chính sách của ta, có năm điều kiện họ đưa ra vi phạm chủ quyền và lợi
ích
của
ta
nên
đã
bị
ta
bác
bỏ.
Ngày 25/7/1995 nước ta chính thức ra nhập ASEAN, đồng thời tham ra khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), cam kết thực hiện trương trình ưu đãi thế quan có
hiệu lực chung (CEPT), loại bỏ hàng rào phi thuế quan và cắt giảm thuế quan xuống
0-5% vào năm 2006 với các thành viên ASEAN. Ngoài ra chúng ta còn tham ra đàm
phán hiệp định thương mại dịch vụ, tham ra trương trình hợp tác công nghiệp AICO
và khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình hợp tác trong công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông vân tải.. của ASEAN.
“Tháng 3/1995 Việt Nam đã là thành viên chính thức của hội nghị thượng đỉnh vể
hợp tác á Âu (ASEM), tham ra vào hoạt động của diễn đàn này để thuận lợi hoá
thương mại, xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi xúc tiến sự hợp tác tương hỗ giữa
các doanh ngiệp của các nước thành viên trong khối.
Ngày 5/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin ra nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á
Thái Bình Dương APEC. Tháng 11/1998 đã được công nhận là thành viên chính
thức của tổ chức này. Việt Nam đã xây dựng và thực hiện trương trình hành động
quốc gia IAP và tham ra trương trình hành động chung CAP làm thúc đẩy quốc tế tự
do hoá và thuận lợị thương mại dịch vụ, đầu tư giữa các nước trong khối (Việt Nam
sẽ hoan toàn mở cửa thị trường cho thương mại và đầu tư vào năm 2002).”
Tháng 1 - 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO với 135 quốc gia thành
viên, chi phối hơn 90% tổng kinh ngạch thương mại thế giới là một thể chế kinh tế
toàn cầu, Việt Nam đã trả lời các câu hỏi của WTO làm rõ về chế độ thương mại của
mình và đã tiến hành các vòng đàm phán đầu tiên với ban công tác của WTO về việc
gia nhập của Việt Nam.
Hiện nay ta đã kí hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kì và từng bước thực
hiện có hiệu quả và khắc phục những tồn tại của hiệp định thương mại này.
b. Những thành công bước đầu của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Do quán triệt tốt mục tiêu quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ cụ thể trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế nên hơn một thập niên qua cùng với những bước đi đầu tiêu
của mình chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt: thương mại,
đầu
tư,
ngoại
giao…
Chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cấm vận, cô lập về kinh tế của các
thế lực thù địch. Tạo được môi trường kinh tế với 150 quốc gia và lãnh thổ trên thế
giới. Trao đổi hàng hoá ngày càng tăng lên đáng kể, hàng hoá Việt Nam đã xâm
nhập vào thị trường trên thế giới. Các ngành công nghiệp của ta từ chỗ không có
mặt hàng nào có sức cạnh tranh đến nay đã có trên 200 mặt hàng được đánh giá là
có khả năng tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài chúng ta đã đạt được những thành
quả đáng khích lệ "Tính đến tháng 12/2001 chúng ta đã thu được hơn 41,5 tỉ USD.
FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp
và xây dựng chiếm 51% trong tổng số 3631 dự án FDI được cấp phép đầu tư ở nước
ta. Riêng các nước thành viên ASEAN, từ đầu năm 2002 đến nay đã đầu tư thêm 54
dự án với tổng số vốn đăng kí là 133,6 triệu USD, nâng tổng số dự án của hiệp hội
đầu tư vào Việt Nam lên 530 dự án với tổng số vốn là 9,6 tỉ USD tạo việc làm cho
khoảng 50.000 lao động trực tiếp. Trong 10 tháng qua (2002) Malaixia dẫn đầu các
nước ASEAN trong lĩnh vực đầu tư vào Việt Nam với 21 dự án trị giá 67,3 triệu
USD. Cùng với vốn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng vốn không nhỏ qua kênh
ODA. Nguồn vón ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng
trong Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoài hiện nay chiếm khoảng 30,5 tổng số
vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trong GDP đều tăng
lên qua hàng năm. Điều quan trọng đó tạo lên việc làm cho gần 350 nghìn lao động
trực tiếp là mang lại công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và tạo ra vài ngành
sản xuất mới ở nước ta ".
Cho đến nay tổng mức cam kết tài trợ cho nước ta của các tổ chức quốc tế ngày
càng tăng nhanh. Riêng tại hội nghị nhóm tư vấn lần thứ 7 tại Hà Nội tháng 12/1999
các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam 2,15 tỉ USD cùng với 700 triệu USD
giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình đổi mới kinh tế. Việc khai thông quan hệ với
IMF và WB cũng đã tạo điều kiện cho nước ta giải quyết một bước quan trọng về nợ
nước ngoài đã giảm được tới 70% nợ các nước từ 1993 trở về trước góp phần ổn
định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển
kinh tế, xã hội, mở ra khả năng vay được vốn qua các kênh khác.
Cùng với việc mở rộng thu hút vốn nước ngoài gia tăng xuất khẩu, các doanh
nghiệp Việt Nam đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài, kể cả vào những nước
phát triển như Nhật Bản. Tính đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 63 dự án
đầu tư ra nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng kí là 61 triệu USD, tập chung chủ
yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, dịch vụ thương mại, xây dựng… Đồng thời
ta đã kí được các hợp đồng xuất khẩu lao động ra các nước trong khu vực và thế
giới.
Tiếp thu khoa học và kĩ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán
bộ kinh doanh Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo CP hội để nước ta tiếp cận với những
thành quả của các cuộc cánh mạng đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều
công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất, tiên tiến được dùng đã tạo nên bước phát
triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời thông qua dự án liên doanh hợp tác
với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm
quản lý sản xuất hiện đại.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại của Việt Nam trong hội nhập quốc tế hiện nay
V.I.Lênin đã từng khái quát, chính sách đối ngoại là sự kéo dài của chính sách đối
nội. Trải qua các giai đoạn lịch sử, đường lối độc lập, tự chủ về đối ngoại của Việt
Nam luôn tuân thủ vấn đề có tính quy luật này.
Đại hội XI của Đảng chủ trương: “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Đại hội xác định một trong tám mối quan hệ cần tập trung giải quyết là mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế. Để giải quyết được mối quan hệ này, bên
cạnh việc nắm vững những đặc điểm của thời đại, bối cảnh quốc tế và khu vực, cần
thấy rõ một số thuận lợi và khó khăn song hành do hội nhập quốc tế đem lại với đối
ngoại của Việt Nam.
Thứ nhất, với nội dung cốt lõi của hội nhập quốc tế là quá trình các nước tăng
cường sự gắn kết với nhau trên cơ sở nền tảng là sự chia sẻ lợi ích, mục tiêu, giá trị
nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật “chơi” chung trong khuôn khổ các định
chế, tổ chức quốc tế nên hoạt động đối ngoại sẽ có nhiều cơ hội mở rộng, đi sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống thế giới, góp phần cùng các mặt hoạt động của quốc gia
nhằm mau chóng cụ thể hóa các mục tiêu đối nội đã đặt ra. Tuy nhiên, do phải chia
sẻ lợi ích và các giá trị nguồn lực, quyền lực của mình với các nước theo những quy
định bắt buộc của “cuộc chơi” nên các mục tiêu đối nội của các nước cũng như Việt
Nam sẽ không thể thực hiện được triệt để, kéo theo tính chất độc lập, tự chủ về đối
ngoại sẽ bị tác động ở những phạm vi khác nhau và mức độ nhất định.
Thứ hai, hội nhập quốc tế mang tính ràng buộc hơn và vượt lên trên sự hợp tác
thông thường, bởi nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính tuân thủ cao của các chủ thể tham
gia. Khi các cam kết quốc tế được ký kết sẽ tạo ra điều kiện pháp lý, trên cơ sở đó
các thành viên tham gia ký kết có thể được hưởng quyền và lợi ích của mình. Tuy
nhiên, việc có được lợi ích luôn đi kèm với trách nhiệm và nghĩa vụ. Điều này sẽ tạo
sức ép không nhỏ đối với các thành viên khi thực thi cũng như khi không tuân thủ.
Sự độc lập, tự chủ của đối ngoại, vì thế, sẽ phụ thuộc vào sức mạnh nội lực, mức độ
am hiểu luật pháp quốc tế, các mối quan hệ lợi ích ràng buộc, lường trước những
vấn đề có thể xảy ra cũng như khả năng đề kháng với những ảnh hưởng, tác động từ
bên ngoài...
Thứ ba, việc hội nhập quốc tế khi được mở rộng sang các lĩnh vực sẽ mở ra nhiều
cơ hội hơn nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức hơn. Mô hình Liên minh châu Âu
(EU) hiện nay là một thí dụ. Đường lối đối ngoại, thậm chí đối nội của mỗi quốc gia
thành viên đều ít nhiều, ở những mức độ nhất định chịu sự ràng buộc, can thiệp của
cả cộng đồng EU. Cuộc bầu cử tổng thống ở Hy Lạp tháng 6 vừa qua là một dẫn
chứng. Vị tổng thống được bầu nếu chủ trương tiếp tục chính sách thắt chặt chi tiêu
sẽ tiếp tục được nhận gói cứu trợ của EU và IMF, trong trường hợp ngược lại, nếu
tân tổng thống không theo quan điểm này (do chính sách tài chính khắc khổ tỏ ra
thiếu hiệu quả), nguồn cứu trợ sẽ bị dừng lại. Và nếu điều đó xảy ra, Hy Lạp sẽ
đứng trước nguy cơ phải rời khỏi khu vực đồng tiền chung châu Âu (điều mà châu
Âu và cả người dân Hy Lạp không mong muốn), đe dọa đến sự tồn tại của khu vực
này. Tình thế “lưỡng nan” và sức ép về trách nhiệm lớn như vậy đã không thể không
ảnh hưởng đến lá phiếu bầu của cử tri trong cuộc bầu cử tổng thống lần thứ hai, cho
dù đã có rất nhiều cuộc biểu tình diễn ra để phản đối chính sách tài chính khắc khổ
của chính phủ trước đây.
Thứ tư, hội nhập quốc tế ngày càng sâu vào một “sân chơi” đa dạng các đối tác
lẫn đối tượng, phương pháp và phong cách đối ngoại khác nhau sẽ tạo điều kiện
phát triển toàn diện trí tuệ, tăng cường nguồn lực và nâng cao bản lĩnh độc lập, tự
chủ của ngoại giao Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó cũng thử thách sự bền vững, dẻo
dai trong việc giữ vững độc lập, tự chủ về đối ngoại. Khẳng định mình hay đánh mất
mình chính là một thách thức khi hội nhập sâu hơn vào một “sân chơi” quốc tế rộng
lớn.
Trong giai đoạn phát triển mới của nước ta - giai đoạn phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện đại, nhiệm vụ trung tâm của
công tác đối ngoại Việt Nam là “giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị này, đối ngoại Việt Nam phải đồng thời
tiến hành nhiều hoạt động khác nhau. Rất nhiều vấn đề cần thực hiện tốt để có thể
giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Một là, quán triệt sâu sắc và thực hành đúng tư tưởng xây dựng thực lực
mạnh. Thực hiện đúng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: “Thực lực mạnh, ngoại
giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to
tiếng mới lớn”. Tư tưởng này khẳng định bản chất, nguồn gốc cũng như điều kiện
của sức mạnh ngoại giao Việt Nam là thực lực, “muốn người ta giúp cho, thì trước
hết mình phải tự giúp lấy mình đã”. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ về đối
ngoại hiện nay là giữ vững ổn định về chính trị, xã hội; kinh tế tăng trưởng nhanh và
bền vững; củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh; xây dựng nguồn nhân lực đối
ngoại trung thành và chuyên nghiệp; đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc
tế; thiết lập và duy trì được trạng thái quan hệ quốc tế cân bằng với các nước lớn,
các trung tâm tài chính, kinh tế lớn, các nhóm, khối nước khu vực có ảnh hưởng lớn
trên thế giới.
Hai là, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc
tế. Mọi hoạt động đối ngoại xét đến cùng cũng vì lợi ích của dân tộc Việt Nam; cụ
thể là “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”. Lợi ích của dân tộc là
tối cao, xa rời mục đích này mọi hoạt động đối ngoại đều trở nên vô nghĩa. Cho nên,
mọi sự đoàn kết, hợp tác hay hội nhập quốc tế hiện nay, tất thảy đều phải xoay
quanh cái trục “dĩ bất biến” này. Trong đó, chính trị, quốc phòng, an ninh là những
lợi ích có tính nguyên tắc. Có như vậy, bản chất của độc lập, tự chủ trong hội nhập
quốc tế mới được thực hiện và thực hiện theo đúng nghĩa: “Độc lập nghĩa là chúng
tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở bên ngoài”.
Độc lập, tự chủ của Việt Nam hoàn toàn khác về bản chất và luôn xa lạ với tư
tưởng biệt lập, khép kín, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và biệt phái. Độc lập là thực
hiện các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện cùng bảo đảm lợi ích chính đáng của
các dân tộc. Độc lập, tự chủ nhưng cần gắn với đoàn kết, hợp tác quốc tế. Cho nên,
đối ngoại cũng phải thực hành “ứng vạn biến”. Theo đó, sự chia sẻ hệ thống các lợi
ích về kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, môi trường…
phải dựa trên các nguyên tắc:
1) tối ưu hóa các lợi ích quốc gia và lợi ích trong nước;
2) chia sẻ cùng có lợi với các nước, tổ chức quốc tế và khu vực;
3) không để sự chia sẻ bởi hai lợi ích trên đây chuyển hóa, tác động, ảnh hưởng lớn
đến hệ thống lợi ích chính trị, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Giải quyết được vấn đề cơ bản trên đây về mối quan hệ lợi ích dân tộc và lợi ích
quốc tế cũng đồng nghĩa với tăng cường độc lập, tự chủ của đối ngoại Việt Nam
trong hội nhập quốc tế; tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế.
Ba là, chủ động tham gia vào các tiến trình khu vực và quốc tế, nêu cao cảnh
giác và có các biện pháp phù hợp trong hội nhập quốc tế. Độc lập và tự chủ về đối
ngoại của Việt Nam hiện nay luôn nằm trong các mối tương quan chiến lược giữa
các nước lớn, các trung tâm quyền lực trên thế giới; giữa sự ổn định, phát triển hay
bất ổn, khủng hoảng ở khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương; giữa
tương quan lực lượng các đối tác và đối tượng. Tính biện chứng của vấn đề độc lập,
tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, phụ thuộc, chống áp đặt, lôi
kéo, chi phối, can thiệp vào công việc nội bộ hay bị động, bất ngờ trước những diễn
biến của môi trường quốc tế, sự hợp tác của đối tác hay chống đối của đối tượng mà
chủ yếu còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong việc tham gia vào các nội
dung, tiến trình hoạt động của khu vực và quốc tế. Định hướng hoạt động đối ngoại,
Đại hội XI của Đảng xác định phải: “chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động
tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an
ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”.
Để giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại cần luôn chủ động tham gia vào các
tiến trình hoạt động quốc tế, với tư cách là người trong cuộc để có các dự báo chiến
lược và trực tiếp đề xuất những sáng kiến của mình trong các thỏa thuận quốc tế,
tranh thủ tối đa sự ủng hộ, hạn chế thấp nhất những khác biệt, bất đồng... Đồng thời,
cũng cần phát huy vai trò, tham gia một cách có trách nhiệm đối với việc bảo đảm
sự ổn định của khu vực và quốc tế, thông qua các sáng kiến, đề xuất được cộng
đồng chấp nhận. Mặt khác, cần luôn đề cao cảnh giác trong quan hệ đối ngoại và
hợp tác quốc tế. Tích cực thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế, “thêm bạn bớt thù”... Bằng nhiều nội dung, biện pháp thích hợp
chống chủ nghĩa cơ hội về chính trị, sự lừa đảo và “chụp giật” về kinh tế; bằng
nhiều hình thức đối ngoại phù hợp để chủ động tiến công các thế lực thù địch từ bên
ngoài lãnh thổ Việt Nam, thực hành tốt tư tưởng “ngoại giao là một mặt trận”.
Bốn là, nâng cao trí tuệ, bản lĩnh ngoại giao Việt Nam. Trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay, sự hiểu biết toàn diện mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, cũng như quốc tế và khu vực là sức mạnh
của ngoại giao Việt Nam. Trong đó, điểm mấu chốt là nắm vững nội dung, xu thế
vận động phát triển tất yếu của thời đại và mục tiêu của cách mạng Việt Nam; hiểu
rõ lực lượng cách mạng trong nước, khu vực và quốc tế, phương thức phát huy sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; nắm vững phương pháp, nghệ thuật ngoại giao,
nhất là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và phong cách ứng xử linh hoạt…Có sự hiểu
biết, trí tuệ và sáng suốt đó sẽ giúp hoạt động đối ngoại đi đúng hướng, xây dựng
được đội ngũ cán bộ ngoại giao có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng
trong sáng, trung thành với Tổ quốc, có phong cách ngoại giao chuyên nghiệp, hiện
thực hóa được chủ trương của Đảng: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên
định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại”./.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập quốc tế
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay có
mối quan hệ chặt chẽ, tác động thúc đẩy lẫn nhau. Nền kinh tế độc lập tự chủ là cơ
sở để mở rộng hội nhập quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế
còn là điều kiện tiên quyết để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình hội nhập
quốc tế. Mặt khác, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế là điều kiện
cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; nó cho phép chúng ta tận dụng
được ngoại lực để phát huy nội lực, đẩy nhanh tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng
cao vị thế của nền kinh tế nước ta trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, giữa hai quá trình đó cũng có những tác
động trái chiều nhau. Tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ làm nảy sinh
tâm lý không muốn hội nhập quốc tế, hoặc hội nhập quốc tế một cách dè dặt, dễ bỏ
lỡ thời cơ của đất nước. Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng sẽ đặt ra không ít những
thách thức đối với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Trong xu thế toàn cầu hoá
kinh tế, tính phụ thuộc lẫn nhau đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng
tăng, nhất là đối với những nền kinh tế sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế như nước
ta. Đặc biệt là, trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hoá kinh tế để đẩy mạnh chống phá cách mạng
nước ta. Bằng nhiều con đường khác nhau, nhất là thông qua con đường hợp tác đầu
tư, chúng khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tư nhân hòng lấn át kinh tế nhà
nước, thực chất là nhằm xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thủ tiêu cơ sở
kinh tế của CNXH, từng bước tạo ra những tiền đề cho chuyển hoá chế độ kinh tế xã hội ở nước ta. Đồng thời, thực hiện chiến lược “chi phối đầu tư”, các thế lực thù
địch còn tìm cách xâm nhập, khống chế các ngành kinh tế then chốt, nhằm tạo sự lệ
thuộc, lái nền kinh tế nước ta từng bước đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Những tác động trái chiều giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế ở nước ta hiện nay là hiện hữu. Tuy nhiên, mức độ tác động tiêu cực còn phụ
thuộc vào nhận thức và tính năng động của chúng ta. Để hiện thực hoá quan điểm
trên do Đại hội XI của Đảng xác định, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế; theo đó, chúng ta cần nỗ lực
phấn đấu thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tăng cường khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tạo vị thế cho nước
ta hội nhập quốc tế sâu rộng.Thực hiện vấn đề này, cần nhận thức đúng nền kinh tế
độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế là nền kinh tế không biệt lập, khép
kín, tự cung, tự cấp, tự sản xuất mọi thứ bằng mọi giá; không phải là sự quyết định
tùy tiện, cứng nhắc, không tính đến các quy định cũng như tập quán của các thể chế
kinh tế - tài chính quốc tế, không thực hiện đúng các cam kết quốc tế, không quan
tâm đến lợi ích của các đối tác. Để tăng cường khả năng độc lập, tự chủ, chúng ta
phải chú trọng thực lực của nền kinh tế thông qua tập trung phát triển mạnh một số
ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có hiệu quả và sức cạnh tranh cao,
như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, hoá dầu…;
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng đầy đủ, hiện đại, đồng
bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất, đời sống nhân dân và của chính hội
nhập quốc tế; tăng cường năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nhanh chóng
thích nghi và làm chủ công nghệ mới, công nghệ ngoại nhập. Quá trình đó cần chú ý
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, phát triển các thành phần kinh tế, các loại thị trường; tăng nhanh dự
trữ ngoại tệ, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài; có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh,
mạng lưới an sinh xã hội khả thi. Đồng thời, phải bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia, an toàn năng lượng, tài chính - tiền tệ, môi trường; bảo đảm cho nền kinh tế đất
nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và “luôn chủ động thích ứng với những
thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia” như Văn kiện Đại hội
XI của Đảng đã xác định.
Hai là, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nhằm mở rộng và nâng cao hiệu
quả hội nhập quốc tế của đất nước. Thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn duy
trì nền kinh tế ở mức tăng trưởng cao và bền vững; thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu
chủ yếu mà Đại hội XI của Đảng đề ra: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm
2011-2015: 7,0 - 7,5%/năm; bình quân 5 năm, giá trị gia tăng công nghiệp - xây
dựng từ 7,8 - 8%; giá trị gia tăng nông nghiệp từ 2,6 - 3%/năm; cơ cấu GDP: nông
nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và
sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỷ lệ lao động qua đào tạo
đạt 55%1... Đồng thời, phải phát huy tối đa lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Theo đó, cần triệt để tận dụng lợi thế về vị trí địa kinh tế để
mở rộng sự ảnh hưởng của nền kinh tế nước ta trong khu vực và trên thế giới; triệt
để phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên để phát triển các ngành kinh tế mà các
nền kinh tế khác không có điều kiện; tận dụng lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, giá
rẻ để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư và tăng cường xuất khẩu lao động, tạo việc
làm và tăng thu nhập, tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công lao động, hợp tác
quốc tế. Đồng thời, chú trọng phát triển các sản phẩm truyền thống đã và đang có ưu
thế trên thị trường quốc tế, như: hàng mỹ nghệ, dệt may, giày da, thủy sản, v.v.Đáng
lưu ý là, trong hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp nước ta phải biết phân tán rủi ro
ra nhiều lĩnh vực, nhiều thị trường, đối tác và khách hàng. Trong quan hệ với các
doanh nghiệp nước ngoài, phải thực sự “biết mình, biết người”, tránh đối đầu trực
tiếp với các đối thủ mạnh; đề cao đàm phán, thương lượng, biết chia sẻ cùng đối tác,
tăng cường sự hợp tác để giảm áp lực cạnh tranh. Trước sự chi phối thị trường thế
giới của các công ty xuyên quốc gia có thế lực, các doanh nghiệp Việt Nam phải biết
cách thâm nhập vào thị trường "ngách", hướng tới những nơi đối thủ còn bỏ ngỏ;
phải luôn đổi mới sản phẩm (cả khi nó đang hưng thịnh); nâng cao chất lượng sản
phẩm và giảm chi phí trên cơ sở lựa chọn phương án sản xuất tối ưu; đổi mới
phương pháp quản lý, tinh giản bộ máy, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; đổi mới
khoa học, công nghệ (nhất là ở các khâu then chốt có ảnh hưởng mạnh đến chất
lượng sản phẩm và chi phí), để tạo ưu thế cạnh tranh của hàng hóa.
Ba là, hội nhập quốc tế tích cực và chủ động nhằm hạn chế những tác động tiêu
cực của nền kinh tế thế giới đối với nền kinh tế nước ta. Sự phụ thuộc lẫn nhau về
kinh tế giữa các quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu khách quan của
quá trình hội nhập quốc tế. Điều đó đòi hỏi các quốc gia trong quá trình hội nhập
quốc tế phải tích cực và chủ động; có sự chuẩn bị chu đáo, vững chắc các điều kiện
trong nước để đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong mỗi bước đi của lộ trình hội nhập
quốc tế. Nhận thức được vấn đề này, trên cơ sở nắm vững các quy luật, tính tất yếu
của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy năng lực nội sinh của đất nước, Đảng ta
đã xác định lộ trình, nội dung, quy mô, bước đi hội nhập quốc tế phù hợp. Đảng chủ
trương thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế; không chỉ
tập trung vào một thị trường, một sản phẩm; chủ động thực hiện các cam kết song
phương, đa phương, vận dụng các “luật chơi” của các thể chế kinh tế - thương mại
quốc tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của đất nước; vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
không bị động và cũng không nóng vội, chủ quan, chủ động lựa chọn đối tác và
phương thức kinh doanh, dự báo được những thuận lợi và khó khăn khi hội nhập
quốc tế.
Tích cực hội nhập quốc tế được thể hiện với tinh thần mạnh mẽ, khẩn trương, toàn
diện và sâu rộng hơn so với giai đoạn trước. Chúng ta không chần chừ, do dự mà
đẩy mạnh đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực
tiễn, từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn trương hoàn thiện chiến
lược, lộ trình, kế hoạch hội nhập quốc tế; tích cực tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài;
đồng thời, mạnh dạn đầu tư ra ngoài nước, mở rộng, đa dạng hoá các hoạt động kinh
tế đối ngoại và tham gia các thể chế, định chế kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết
quốc tế.
Tích cực hội nhập quốc tế còn thể hiện ở việc không duy trì quá lâu các chính sách
bảo hộ, khắc phục nhanh tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước. Tích
cực nhưng vững chắc, có sự chuẩn bị cần thiết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao năng lực quản lý, hoàn thiện hệ thống luật pháp, có thông tin cập nhật và dự báo
tình hình chính xác, có đội ngũ cán bộ hiểu biết về thị trường, đối tác, tinh thông
nghiệp vụ hội nhập quốc tế.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội
nhập quốc tế là một trong những nội dung quan trọng nhằm giải quyết tốt mối quan
hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế của nước ta trong
tình hình mới.
Một trong những nội dung trọng tâm của kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và
đối ngoại trong hội nhập quốc tế hiện nay là phải giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo
đảm lợi ích quốc gia dân tộc, không để các thế lực thù địch lợi dụng để đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng nước ta. Mở rộng
quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn
trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại để tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước ta với các nước
trong khu vực và trên thế giới, thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, tạo môi trường, điều
kiện bảo vệ Tổ quốc “từ xa”.
Trong hội nhập quốc tế, nhất là trong hợp tác về kinh tế với các nước và vùng lãnh
thổ, các trung tâm kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực, phải hướng
vào việc phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại;
chú ý lựa chọn những đối tác, những ngành, lĩnh vực, địa bàn có lợi cho cả phát
triển kinh tế, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước. Triệt để khắc
phục tình trạng chỉ nhằm lợi ích kinh tế mà không tính đến lợi ích quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của đất nước.
2. Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội nhập quốc tế
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để
tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ,
xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực
kinh tế, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị trường, tranh
thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Quá trình hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển
của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình
hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ
bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo
đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập
tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế,
đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ động lựa
chọn các tổ chức tham gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội
nhập, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động
điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập. đường lối và chính
sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ
bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát
triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể:
Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là,
giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của hội
nhập quốc tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập quốc
tế nói riêng. Theo đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động,
linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt
Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất
biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt
về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế của
nước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo nêu trên, Việt
Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa phương nhưng có
nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích dân tộc cao nhất, đó là
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội
XI của Đảng chỉ rõ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, đồng thời góp phần tích cực
vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo, bao
(6)
gồm :
Một là: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình
hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của
toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn
đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa
phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Bốn là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch
và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng
những quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia.
Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ
vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác
với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình đối với
nước ta.
(6)(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ chính trị số 07/NQ-TƯ Về hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb CTQG,
Hà Nội 2002, tr. 2-4
Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và
đa phương với các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, các phong trào chính trịxã hội... nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta. Việt
Nam. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chú trọng những
hướng hoạt động đối ngoại như: Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và
các nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước
ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược. Củng cố quan hệ với các đảng cộng sản,
công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới;
từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Tham gia các cơ chế hợp tác
chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc. Thực
hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực
hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách
thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. Phát triển công tác
đối ngoại nhân dân theo phương châm: “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”,
tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận
động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước
ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối
ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân
các nước. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng
đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân
quyền; song đồng thời cũng kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên
tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can
thiệp vào công việc nội bộ, làm mất an ninh và ổn định chính trị của nước ta...
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc
cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một
mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải
chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp
của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ vững
nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục
tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác,
không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can
thiệp, áp đặt về chính trị.