Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN GIẢI PHÁP THỰC HIỆN cải CÁCH HÀNH CHÍNH góp PHẦN xây DỰNG và HOÀN THIỆN NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA của dân DO dân, vì dân ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.37 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Tất cả các
nước trên thế giới đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ
để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời
sống xã hội.
Cải cách hành chính ở nước ta là một bộ phận quan trọng trong đường
lối đổi mới toàn diện của Ðảng và Nhà nước, là một trong những giải pháp ưu
tiên hàng đầu trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Cải cách
hành chính vừa là tiền đề vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc cải cách hành chính ở nước ta đã được thực hiện từng bước thận
trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính
đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát
triển đất nước. Việt Nam đang là nước có nhiều tiềm năng về xuất nhập khẩu,
đầu tư nước ngoài xu hướng chung là tăng, nhiều vấn đề xã hội đang được
giải quyết tốt… Tuy nhiên, Ở Việt Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã
hội đã tồn tại từ lâu và mới nảy sinh cần phải được giải quyết tích cực và có
hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu hoá đang đặt ra những thách thức và
cơ hội mới đòi hỏi phải có những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là
quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được
tiếp tục giải quyết. Cái khó trong cải cách hành chính Ở Việt Nam là phải tiến
hành một cuộc cải cách hành chính có tính chất cách mạng từ quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp sang quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
rộng dân chủ. Điều này chưa từng có tiền lệ. Vì vậy, trong thời kỳ hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, Đảng và Nhà nước ta càng chú trọng,
quan tâm hơn nữa đến việc lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền hành chính nhà
nước, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên
nghiệp, hiện đại; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành các lĩnh vực
trong đời sống xã hội và thực thi quyền lực của nhân dân.
2



1. Thực trạng của việc cải cách hành chính ở nước ta thời gian qua
1.1. Kết quả đạt được trong cải cách hành chính ở nước ta
Cải cách hành chính ở nước ta được tiến hành nhiều năm nay với
những bước đi, lộ trình cụ thể. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành
chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách
một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành
chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn
nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cải cách
hành chính ở nước ta đã thu được những kết quả đáng kể:
Hệ thống thể chế trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính
nhà nước đã từng bước hình thành và hoàn thiện theo hướng đồng bộ hơn,
phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Đây là kết quả nổi bật
trong cải cách, thể hiện tính nhất quán trong việc hoạch định thể chế, chính
sách cải cách, đổi mới của Nhà nước ta. Tạo lập môi trường pháp lý và hoàn
thiện khuôn khổ thể chế cho cơ chế quản lý mới trên các mặt đời sống kinh tế
và xã hội.
Trong công cuộc cải cách thể chế, Chính phủ đã trình Quốc hội các dự
án luật như: Luật doanh nghiệp, bộ luật Dân sự, luật đầu tư, luật đất đai, luật
thương mại … và đã ban hành rất nhiều nghị định, có thể nói đây là cơ sở cho
việc cải cách thể chế khắc phục tình trạng thiếu luật để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế và xã hội .

3



Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước với dân đã được đổi mới một
bước bằng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, việc lấy ý kiến rộng rãi của
nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, đề cao
vai trò giám sát trực tiếp của nhân dân và thông qua các tổ chức đại diện và
nhất là việc triển khai rộng rãi cơ chế “một cửa” gắn với việc đơn giản hóa các
thủ tục hành chính ở các cơ quan hành chính có liên quan trực tiếp với dân.
Trong cải cách thể chế hành chính, đã đổi mới một bước quy trình xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi trách nhiệm của
Chính phủ, góp phần tích cực vào việc bổ sung hoàn thiện hệ thống thể chế,
từng bước tạo môi trường, hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho các hoạt
động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện mới.
Hệ thống thủ tục hành chính từng bước được cải cách theo hướng đơn
giản hoá, công khai hoá, nâng cao hiệu quả giải quyết công việc của các cơ
quan công quyền nhà nước trong quan hệ với nhân dân và doanh nghiệp. Thủ
tục hành chính được cải cách theo hướng "một cửa"; mẫu hóa các văn bản
hành chính, giấy tờ; công khai các thủ tục hành chính; sử dụng công nghệ
thông tin trong việc thực hiện các thủ tục hành chính… Chính việc cải cách
thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiền hà, tham
nhũng của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của
công dân. Thủ tục hành chính ở các lĩnh vực đã được cải cách theo hướng đơn
giản hoá, tạo thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp như : lĩnh vực đất đai,
lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực hộ tịch, hộ khẩu, đầu tư… Điều này đã tạo lập
được niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp vào các cơ quan hành chính nhà
nước. Chính quyền địa phương các cấp đã triển khai công tác rà soát các thủ
tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế “ một cửa”. Kết quả rõ nhất
trong việc triển khai cơ chế “một cửa” là công khai hoá, minh bạch hoá các
quyết định về thủ tục hành chính nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức

4



góp phần đổi mới cơ bản mối quan hệ giữa cơ quan hành chính và nhân dân
theo hướng phục vụ.
Tổ chức bộ máy của Nhà nước đã được cải cách theo hướng tinh giản
hơn. Việc phân cấp giữa các yếu tố, phân hệ trong bộ máy quản lý Nhà nước
cũng từng bước được cải thiện, tạo điều kiện cho mỗi cấp, mỗi tổ chức trong
hệ thống đề cao quyền hạn, trách nhiệm đồng thời phát huy tính năng động,
sáng tạo trong công việc. Các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước đã quy
định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng
bước thể hiện sự phân cấp trong quản lý giữa Trung ương và địa phương.
Nghị quyết 08 /CP của Chính phủ năm 2004 là một mốc quan trọng đánh dấu
sự đổi mới một bước trong việc tăng cường phân cấp Trung ương - địa
phương theo tinh thần cải cách hành chính. Đã điều chỉnh làm rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan trong hệ thống các cơ quan hành chính nhằm khắc
phục sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Một số loại công việc
trước đây do Chính phủ, Thủ tuớng Chính phủ giải quyết nay đã được chuyển
cho các bộ, ngành và phân cấp cho chính quyền địa phương. Cơ cấu tổ chức
chính quyền các cấp được hợp lý hóa hơn. Hiện nay nhiều bộ và các cơ quan
địa phương đã được tổ chức theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Nhiều
cơ quan đã được sắp xếp lại theo hướng bỏ bớt đầu mối trung gian, hiệu lực,
hiệu quả điều hành được nâng lên một bước.
Đội ngũ công chức Nhà nước đã được quan tâm xây dựng, bồi dưỡng về
năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân. Công tác
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng rõ hơn về
phân công, phân cấp, thẩm quyền trách nhiệm quản lý cán bộ, công chức của
mỗi cấp trong hệ thống hành chính nhà nước về các mặt: tuyển dụng, bổ
nhiệm, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương, nâng
ngạch cho các đối tượng cán bộ, công chức. Bước đầu đã phân biệt rõ hơn đội
ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị: cán bộ qua bầu cử, công chức

5


hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo trong doanh
nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã. Trên cơ sở đó đã
xác định cụ thể hơn những yêu cầu, tiêu chuẩn cơ chế quản lý và chế độ đãi
ngộ phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ, công chức. Công tác đào tào, bồi
dưỡng cán bộ, công chức đã được đẩy mạnh đáng kể. Đã đổi mới chế độ tuyển
dụng cán bộ, công chức từ xét tuyển sang thi tuyển đối với công chức hành
chính, còn viên chức sự nghiệp thì áp dụng cả hai hình thức thi hoặc xét tuyển
theo chế độ hợp đồng. Chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ, chế độ bảo hiểm
xã hội đã phần nào góp phần ổn định cuộc sống cho cán bộ, công chức.
Lĩnh vực tài chính công được quản lý chặt chẽ hơn, công tác khoán
biên chế và kinh phí bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, công tác
xã hội hoá giáo dục và y tế được đẩy mạnh, góp phần giảm chi phí cho ngân
sách nhà nước và nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục và y tế. Đã đổi mới
đáng kể về cơ chế phân cấp quản lý tài chính ngân sách, phân biệt hai cấp
ngân sách là ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, tăng thẩm
quyền của hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong quyết định ngân sách và phân bổ
ngân sách địa phương hàng năm. Bước đầu thực hiện nguyên tắc công khai tài
chính, sử dụng ngân sách ở các cấp hành chính, các cơ quan đơn vị thụ hưởng
ngân sách nhà nước. Thực hiện thí điểm và đang nhân rộng dần cơ chế khoán
biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính và cơ
chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp.
Như vậy, việc cải cách hành chính ở nước ta trong những năm qua theo
hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn,
phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần
từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục
vụ dân. Những cải cách trên đây đã góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ trong thời gian qua, đồng thời góp phần vào thực hiện xây dựng và hoàn

thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
6


1.2. Những hạn chế, yếu kém trong cải cách hành chính ở nước ta
Công cuộc cải cách hành chính nhà nước mặc dù đã đạt được những kết
quả tiến bộ, quan trọng, đáng ghi nhận nhưng vẫn đang còn nhiều mặt hạn
chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội và
tiến trình hội nhập. Những hạn chế lớn tập trung chủ yếu ở những điểm sau:
Hệ thống thể chế vẫn chưa được tạo lập một cách đầy đủ, đồng bộ, phù
hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế. Hiện
vẫn chưa xác định được một cách đầy đủ, rõ ràng về khung khổ thể chế cần
phải có cho quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều
kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế mặc dù rất tích cực nhưng
chất lượng còn nhiều hạn chế; mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị
ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Thể
chế về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, về thực thi công vụ của các
cơ quan hành chính, của mỗi cán bộ, công chức vẫn chưa đủ rõ và cụ thể, còn
chậm đổi mới theo tinh thần cải cách, đặc biệt là còn thiếu những quy định
pháp lý cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính,
cũng như của từng cán bộ, công chức; chế độ làm việc tập thể tràn lan, không
rõ trách nhiệm chậm được khắc phục.
Thủ tục hành chính mặc dù đã được cải cách nhưng nhìn chung còn
phức tạp, còn gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp. Cơ chế “một cửa”
được triển khai nhiều nhưng hoạt động ở một số nơi nhất là ở cấp xã vùng
nông thôn, miền núi vẫn rất hình thức như không công khai rõ cho nhân dân
về các thủ tục hành chính, biểu mẫu hồ sơ, thời gian giải quyết, phí và lệ phí.
Quy chế làm việc của một số cơ quan hành chính nhà nước còn chung chung
và hình thức. Chậm đổi mới về phương thức và lề lối làm việc, trách nhiệm

của người đứng đầu một số cơ quan hành chính nhà nước chưa cao. Chưa có
chuyển biến thực sự về chất trong quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
7


Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước vẫn đang còn cồng kềnh, nhiều
tầng cấp trung gian, nhiều đầu mối như hiện nay tất yếu dẫn đến tình trạng
chồng chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm quyền và sức ỳ, sự trì trệ, quan liêu
của bộ máy là không thể tránh khỏi. Việc phân cấp Trung ương - địa phương
rất chậm chạp. Cho đến nay, các bộ, ngành vẫn đang nắm giữ nhiều việc cụ
thể của chính quyền địa phương làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo của địa
phương.Việc điều chỉnh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành
chính nhà nước cũng như của từng cấp, từng cơ quan hành chính còn rất
chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, chưa phù hợp với thông lệ chung của thế giới trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính
quyền địa phương còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản
xuất, kinh doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực
hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Phương thức quản lý điều hành
của bộ máy hành chính các cấp còn biểu hiện quan liêu, phân tán, nhiều hạn
chế, chậm được thay đổi. Việc tinh giảm biên chế trong bộ máy hành chính
nhà nước chưa đạt yêu cầu, vừa không đảm bảo chỉ tiêu giảm biên chế theo
tinh thần cải cách hành chính, vừa chưa thay thế được một bộ phận công chức
yếu kém về năng lực, không đảm đương được nhiệm vụ, đang nằm trong bộ
máy hành chính.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. Các thể chế về quản lý cán bộ,
công chức, tuy có nhiều sửa đổi, bổ sung song vẫn chưa có sự đổi mới cơ bản,
mạnh mẽ mang tính cải cách, từ việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, bãi
miễn, đến đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, chính sách đãi ngộ. Công

tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp
luật tiến hành chưa nghiêm minh, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến kém
hiệu quả, thiếu tính giáo dục, răn đe …Vẫn còn một bộ phận cán bộ công
8


chức suy thoái về phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, thiếu ý
thức và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân và xã hội.
Công tác quản lý, sử dụng, thi tuyển, đánh giá cán bộ, công chức chậm được
thay đổi vì vẫn đang sử dụng phương pháp cũ là chủ yếu. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát
triển đất nước, mặc dù công tác đào tạo bồi dưỡng những năm qua được tăng
cường đáng kể nhưng do nội dung và phương pháp đào tạo chậm đổi mới một
cách cơ bản và do ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc học
tập, bồi dưỡng chưa cao, nền nhìn chung trình độ, năng lực thực tế, nhất là về
kiến thức quản lý hành chính và kỹ năng thực thi công vụ, trình độ ngoại ngữ,
tin học của đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, bất cập trước yêu
cầu cải cách, mở cửa, hội nhập hiện nay.
Việc cải cách tài chính công còn chậm, kết quả chưa rõ, chưa cụ thể.
Một số cơ chế tài chính mới có thực hiện thí điểm nhưng chậm tổng kết để có
kết luận cho sự thống nhất cao trong nhận thức và nhân rộng trong thực tiễn.
Cơ chế quản lý ngân sách, tài sản công còn nhiều yếu kém, bất hợp lý, chưa
khuyến khích tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân
thụ hưởng ngân sách; chưa đổi mới cơ bản theo hướng quản lý dựa trên kết
quả đầu ra như yêu cầu của chương trình cải cách hành chính tổng thể, đồng
thời lại tạo nhiều kẽ hở cho tình trạng lãng phí, tham nhũng phổ biến, tràn lan,
chậm được khắc phục.
Có thể thấy, công cuộc cải cách hành chính nhà nước còn chậm, hiệu
quả còn thấp là do những nguyên nhân chủ yếu như: Nhận thức của chúng ta
về một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn rất hạn chế, điều
đó cũng ảnh hưởng nhất định đến kết quả cải cách ở các lĩnh vực, trong đó có
cải cách hành chính. Nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, tính chất, yêu cầu của
cải cách hành chính. Còn thiếu những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết
9


trong cải cách hành chính; công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn
về các vấn đề cơ bản có liên quan đến phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hóa; đến xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân chưa được làm rõ. Điều
đó đã gây nên sự lúng túng, chắp vá, hạn chế trong việc đưa ra mô hình,
hoạch định thể chế; đội ngũ công chức hành chính còn những hạn chế về trình
độ, năng lực, phẩm chất dạo đức, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế công
tác; thực hiện cải cách hành chính chưa gắn liền, gắn chặt, chưa đồng bộ với
cải cách lập pháp, cải cách tư pháp và đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước…
Trước yêu cầu phát triển sâu hơn của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu hội nhập mạnh mẽ và toàn diện, công cuộc
cải cách hành chính đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Để
vượt qua những thách thức này, vấn đề cải cách hành chính trong giai đoạn
mới cần phải có những thay đổi hết sức sâu sắc cả về phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, của bản thân hệ thống thể chế hành chính, của cơ
cấu hệ thống tổ chức hành chính, đội ngũ công chức hành chính...
2. Giải pháp thực hiện đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta hiện nay
2.1. Mục tiêu chương trình cải cách hành chính ở nước ta hiện nay
Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong thời gian tới nhằm tiếp tục xây

dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán
bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định

10


hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển nhanh và bền vững của đất nước.
Cải cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở luật pháp, các nghị
quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới
phương thức lãnh đạo và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và phải gắn liền
với mục tiêu phát triển, ổn định đất nước. Tiếp tục hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ và quy chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ
quan và cả bộ máy nhà nước. Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt mọi nhu cầu chính đáng, hợp
pháp của công dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Các chủ
trương, giải pháp cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cải cách hành chính phải tiến hành đồng bộ, vững chắc, có trọng tâm,
trọng điểm và phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Cải cách hành
chính phải đáp ứng các yêu cầu là hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế; phát huy dân chủ trong đời sống xã hội; huy động các nguồn lực và
sự tham gia của mọi người vào tiến trình phát triển đất nước.
Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tốt, thành thạo
chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ phục vụ nhân
dân. Cải cách hành chính phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện

đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin.
2.2. Những giải pháp cơ bản cải cách hành chính ở nước ta hiện nay
Để phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, công cuộc đẩy mạnh cải
cách hành chính ở nước ta cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
2.2.1. Về cải cách hệ thống thể chế hành chính
11


Có thể khẳng định cải cách thể chế hành chính là nội dung cốt lõi và
thực chất của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Cải cách thể chế hành
chính có nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với các cơ
cấu xã hội khác và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để thích
ứng với những yêu cầu của tình hình mới. Nội dung cụ thể của cải cách thể
chế hành chính bao gồm từ điều chỉnh chức năng hệ thống hành chính, đổi
mới cơ cấu hệ thống hành chính, đến đổi mới cơ chế, phương thức hoạt động
của hệ thống hành chính. Nếu giải quyết tốt khâu cải cách thể chế thì những
nhiệm vụ cải tiến bộ máy, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, viên chức, lành
mạnh hóa tài chính công ... chắc chắn sẽ tiến hành thuận lợi. Ngược lại, nếu
không có cải cách thể chế thì những thay đổi về bộ máy, nhân sự, tài chính
cũng không có cơ sở để thực hiện.
Trong cải cách thể chế, cần ưu tiên nội dung hoàn thiện chế độ trách
nhiệm hành chính. Thể chế, pháp luật công chức - công vụ phải có hệ thống
quy định về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm vật chất đối với những trường
hợp vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội và công dân. Cần phân biệt rõ
trách nhiệm của bộ máy hành chính, của cơ quan với trách nhiệm của cán bộ
công chức khi thực thi công vụ. Thiết lập chế độ trách nhiệm công vụ thuộc tổ
chức là nhằm đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức khi thực
hiện nhiệm vụ nhà nước, phục vụ lợi ích cộng đồng.
Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, trong đó chủ yếu

là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế về tổ
chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước. Những công việc chủ yếu phải
làm là loại bỏ, sửa đổi những thể chế lạc hậu, bất cập, đồng thời thiết lập các
thể chế còn thiếu để điều chỉnh các quan hệ kinh tế- xã hội mới phát sinh theo
tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Để đáp ứng tốt các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiến tới
xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất,
12


minh bạch và phù hợp với luật lệ quốc tế. Bên cạnh việc hoàn thiện về số
lượng và nội dung của hệ thống thể chế, cần tăng cường dân chủ, công khai,
minh bạch trong việc soạn thảo, ban hành và thực thi nhằm nâng cao hiệu quả
và hiệu lực của thể chế. Quá trình xây dựng và thực thi thể chế cần có sự tham
gia sâu rộng và giám sát thoả đáng của các chủ thể hữu quan, đặc biệt là của
người dân và doanh nghiệp.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách thủ tục hành
chính, hợp lý hóa trình tự giải quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ quan
công quyền với xã hội dân sự, với công dân, với doanh nghiệp. Cải cách thủ
tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường củng cố mối quan hệ giữa
Nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý Nhà nước của nhân
dân. Cải cách thủ tục được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính
nhà nước. Khắc phục những hạn chế trước đây, cải cách thủ tục hành chính
trong giai đoạn tới phải được thực hiện song hành với những mặt khác của cải
cách hành chính như đẩy mạnh phân cấp, xã hội hoá các dịch vụ công, cải
cách tiền lương, ứng dụng công nghệ điện tử và viễn thông… Mục tiêu cơ bản
của cải cách là đơn giản hoá các thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, doanh
nghiệp cũng như cho cơ quan nhà nước trong giải quyết công việc. Vì vậy,
phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính; bảo đảm sự
chặt chẽ của hệ thống thủ tục hành chính; bảo đảm tính hợp lý của thủ tục

hành chính; bảo đảm tính khoa học của quy trình thực hiện các thủ tục hành
chính đã ban hành…
2.2.2. Về cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy hành chính
Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng làm cho tinh gọn bộ máy
hành chính và hoạt động có hiệu quả hơn. Cần chuyển đổi mạnh mẽ, cơ bản
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính nhà nước cũng như
của mỗi cơ quan hành chính để phù hợp hơn với yêu cầu quản lý nền kinh tế
thị trường và dân chủ hóa đời sống xã hội. Cần thực hiện nhất quán nguyên
13


tắc tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đối với tất cả các bộ để thay thế
hay loại bỏ mô hình bộ quản lý đơn ngành, đơn lĩnh vực trong cơ cấu tổ chức
của Chính phủ. Mặt khác, cần sắp xếp, hợp nhất một số cơ quan ngang bộ và
cơ quan thuộc Chính phủ để chuyển chức năng quản lý nhà nước của cơ quan
đó vào các bộ tương ứng. Coi đây như là nguyên tắc cần thống nhất để thu
gọn số lượng các bộ đến mức cần thiết và khắc phục được nhiều hơn các lĩnh
vực quản lý giao thoa, chồng lấn khó phân công, phối hợp do cơ cấu tổ chức
Chính phủ có nhiều bộ, ngành sinh ra.
Trước hết cần điều chỉnh vai trò và chức năng của Chính phủ. Đây là
vấn đề then chốt trong việc đổi mới thể chế quản lý hành chính nhà nước, vì
với sự thay đổi của chức năng Chính phủ, các vấn đề khác như cơ cấu bộ máy
hành chính, phương thức quản lý hành chính, cán bộ viên chức hành chính...
đều phải có sự thay đổi tương ứng, kể cả thực chất mối quan hệ công việc
giữa Nhà nước và doanh nghiệp, Nhà nước và thị trường, Nhà nước và xã hội,
Nhà nước và nhân dân. Với những yêu cầu của giai đoạn mới, chức năng của
Chính phủ cần được xác định chính xác, làm cơ sở cho việc hoàn chỉnh khung
cải cách hành chính. Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp giữa Chính phủ và các
cấp chính quyền địa phương. Phân cấp giữa Chính phủ và các cấp chính
quyền địa phương là một tất yếu khách quan nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ

hoá đời sống xã hội, phát huy quyền dân chủ trực tiếp của công dân. Phân cấp
nhằm bảo đảm yêu cầu tiện lợi trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân
dân; nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương; phát huy mọi lợi thế riêng có về vật chất, tinh thần và trí tuệ của
nhân dân địa phương; bảo đảm cho nhân dân được tham gia trực tiếp với
chính quyền trong phát triển kinh tế - xã hội, trong xây dựng cuộc sống cộng
đồng; tạo động lực thi đua và hợp tác lành mạnh, thúc đẩy các địa phương
cùng phát triển.

14


Để công tác phân cấp có hiệu quả, cần nâng cao nhận thức của các cơ
quan hành chính từ Trung ương đến địa phương về một nền hành chính thống
nhất có sự phân cấp hợp lý quyền hạn và trách nhiệm nhằm thực hiện mục
đích phát huy tính tập trung điều hành của Chính phủ với việc phát huy sáng
tạo, chủ động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các địa phương. Cấp
Trung ương cần tập trung vào việc xây dựng thể chế và các lĩnh vực thuộc lợi
ích của quốc gia như ngoại giao, quốc phòng, an ninh; các lĩnh vực khác thì
phân cấp cụ thể. Việc xử lý vụ việc trong quan hệ với dân và doanh nghiệp
nên phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương. Cần bảo đảm tính thống
nhất về tất cả các chủ trương, chính sách của Nhà nước, không để cùng một
chủ trương mà các nơi thực hiện khác nhau. Khi phân cấp, cần bảo đảm các
điều kiện cần thiết để thực hiện, bao gồm các điều kiện về pháp chế như quy
định rõ các quyền hạn và nhiệm vụ có liên quan, các điều kiện về tài chính,
các điều kiện về cán bộ để đảm đương được nhiệm vụ, các điều kiện về quy
hoạch chi tiết, về lộ trình cụ thể ... để cơ quan được phân cấp không thể làm
khác chủ trương chung, đồng thời cũng không bị vướng mắc về chuyên môn
trong khi thực hiện.
Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính

các cấp. Thực hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính. Đẩy mạnh hiện
đại hóa hành chính, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào hoạt động của
các cơ quan hành chính, xây dựng, vận hành Chính phủ điện tử.
2.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
Đây là giải pháp cũng là một nhiệm vụ và thách thức lớn, bởi vì công
chức được coi là cái gốc quan trọng để thực hiện được các mục tiêu quốc gia
đã đề ra. Xây dựng và phát triển năng lực của đội ngũ công chức cần quan
tâm đến những vấn đề cơ bản sau đây: Xây dựng và phát huy năng lực của đội
ngũ công chức hành chính Nhà nước thực chất là thực hiện chiến lược phát
triển nguồn nhân lực của quốc gia một cách cụ thể nhằm tạo ra đội ngũ công
15


chức vừa phải làm việc trên các lĩnh vực theo các nguyên tắc của thị trường,
vừa phải biết quyết định các vấn đề trên cơ sở hệ thống quyền lực mà nhân
dân giao cho. Xây dựng đội ngũ công chức theo nguyên tắc chức nghiệp hay
chế độ việc làm đều nhằm đi đến kết quả cuối cùng là tạo ra được đội ngũ
công chức thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao trên
nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng. Do đó, phải quan tâm đến cả quá
trình làm việc của công chức từ khi họ được tuyển dụng làm công chức đến
khi họ nghỉ hưu.
Để duy trì được đội ngũ công chức có năng lực và trình độ chuyên môn
ngày càng được nâng cao, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng công chức có ý nghĩa rất
quan trọng. Vì vậy, cần phải đổi mới cơ bản công tác đào tạo, bồi dưỡng công
chức nhà nước. Xây dựng một cơ chế tiền lương công chức hợp lý.
Cán bộ công chức phải gương mẫu chấp hành pháp luật, thực thi công
vụ một cách phi vụ lợi, đặt lợi ích của xã hội, của công dân lên trên hết. Cán
bộ, công chức, đặc biệt là những người có chức vụ, quyền hạn phải am hiểu
pháp luật và biết áp dụng pháp luật khi giải quyết công việc.
Đổi mới cơ chế quản lý, phương pháp đánh giá cán bộ, công chức, cơ

cấu lại đội ngũ công chức hành chính. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến
khích thu hút nhân tài, tạo động lực khuyến khích công chức nâng cao trách
nhiệm và hiệu quả công tác.
2.2.4. Cải cách tài chính công
Nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng tài chính công. Năng lực kiểm
tra, giám sát của các cơ quan trên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của toàn
bộ quá trình quản lý tài chính công. Quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của
những người đứng đầu cơ quan chính quyền nhà nước mỗi cấp trước kết quả
quản lý tài chính công của cấp mình. Cần căn cứ vào mức dự toán của mỗi
cấp chính quyền đã được giao phải thực hiện và những cam kết về kết quả đầu
16


ra gắn liền với các chỉ tiêu của dự toán đó mà đánh giá, phân loại mức độ
hoàn thành nhiệm vụ quản lý tài chính công của những người đứng đầu cơ
quan chính quyền mỗi cấp đó.
Đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình
quản lý tài chính công. Quản lý tài chính công hiện đại thường thông thoáng
trong kiểm soát đầu vào, nhưng lại tăng cường kiểm soát ở đầu ra, dựa trên cơ
sở đánh giá chất lượng và hiệu quả của quản lý tài chính công cho từng lĩnh
vực cụ thể. Để đổi mới công tác thanh tra, giám sát cần tăng cường về số
lượng và nâng cao chất lượng bộ máy kiểm toán nhà nước. Đồng thời, phải
chuyển cơ quan Kiểm toán nhà nước từ trực thuộc Chính phủ sang trực thuộc
Quốc hội để tăng cường sức mạnh kiểm tra, giám sát cho cơ quan quyền lực
cao nhất là Quốc hội. Tăng cường quyền chủ động của chính quyền địa
phương bằng việc nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát về quản lý tài chính
công của hội đồng nhân dân các cấp.
Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách

Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách
nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công. Thực
hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới như: Cho thuê
đơn vị, sự nghiệp công, cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường, bệnh
viện, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ, công chức chuyển
từ các đơn vị công lập sang dân lập; cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư trong
nước, nước ngoài đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dạy nghề, đại học, trên
đại học, khám chữa bệnh có chất lượng cao; thực hiện cơ chế khoán một số
loại dịch vụ công cộng như vệ sinh đô thị, cấp, thoát nước, cây xanh công
viên, nước phục vụ nông nghiệp; thực hiện cơ chế hợp đồng dịch vụ công
trong cơ quan hành chính...
17


Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước, xoá bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đối
với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai,
minh bạch về tài chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai
trước dân để dân trực tiếp kiểm tra, việc sử dụng tài chính công phải được
nhân dân đánh giá kết quả quá trình sử dụng theo kế hoạch đã được công bố.
KẾT LUẬN
Cải cách hành chính ở nước ta là công việc mới mẻ, nó đòi hỏi vừa phải
tìm tòi vừa phải rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra
những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng
giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo chứ không phải là một cái gì có sẵn
hoặc một lúc là hoàn thành.
Để thực hiện tốt việc đẩy mạnh cải cách hành chính, Đảng và Nhà nước

phải thường xuyên đổi mới tư duy lý luận, phát triển đường lối, chủ trương,
chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với quyết tâm chính trị cao; đồng
thời kiên quyết đấu tranh chống lại những “lực cản” trong quá trình cải cách.
Đó là tư tưởng nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn; cải
cách thiếu tính khoa học, không dựa trên cơ sở pháp luật, trên những điều
kiện thực tiễn về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm truyền thống
dân tộc, hoàn cảnh lịch sử cụ thể và thực trạng của nền hành chính... dẫn đến
mất ổn định chính trị - xã hội hoặc khuynh hướng giáo điều, bảo thủ trì trệ,
không muốn cải cách, cải cách nửa vời, dập khuôn máy móc theo mô hình,
cách thức của nước ngoài.

18



×