Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Kết quả điều trị bệnh trĩ bằng phẫu thuật longo tại bệnh viện trường đại học y khoa thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.68 MB, 76 trang )

1

=
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC THÁI

NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC

HOÀNG LÊ MINH

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ
BẰNG PHẪU THUẬT LONGO TẠI BỆNH VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN BÁC SỸ NỘI TRÚ BỆNH VIỆN

THÁI NGUYÊN – NĂM 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


2

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh trĩ là một bệnh thường gặp và đã được biết đến từ lâu trong lịch sử. Đây là


bệnh lý lành tính, không gây tử vong nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
cuộc sống của người bệnh. Bệnh trĩ là tập hợp những rối loạn có liên quan đến biến đổi
cấu trúc của mạng mạch trĩ và các tổ chức tiếp xúc với mạng mạch này [17], [36].
Bệnh trĩ chiếm khoảng 45-50% dân số, thường gặp ở người trên 50 tuổi [17].
Chẩn đoán và phân độ bệnh trĩ tương đối đơn giản dựa vào thăm trực tràng và soi trực
tràng. Điều trị bệnh trĩ có thể bằng nội khoa, thủ thuật hay phẫu thuật. Với những thể
bệnh nặng hoặc đã điều trị nội khoa hay thủ thuật thất bại thì phẫu thuật vẫn là
phương pháp điều trị hiệu quả. Một số phương pháp phẫu thuật để điều trị bệnh trĩ
được biết đến như phương pháp Milligan- Morgan, Parks A. G., Ferguson J.A., Toupe A.,
Whitehead

[46], [63], [66], [73], [75]... Các phương pháp kinh điển này có hiệu quả

chữa bệnh cao nhưng còn tồn tại nhược điểm là đau nhiều sau mổ, chăm sóc sau mổ
phức tạp, thời gian điều trị sau mổ lâu. Đó chính là lý do khiến bệnh nhân e ngại đến
bệnh viện phẫu thuật.
Tháng 8/1998, tại hội nghị phẫu thuật nội soi quốc tế lần thứ 6 ở Rome phẫu
thuật viên người Italia, Antony Longo đã trình bày tổng kết phương pháp phẫu
thuật điều trị bệnh trĩ với nội dung cơ bản là cắt một khoanh niêm mạc, trên đường
lược khoảng 3 cm, nhằm kéo búi trĩ và niêm mạc trực tràng sa trở về vị trí cũ đồng
thời loại bỏ nguồn máu đi từ niêm mạc đến các búi trĩ [61].
Phẫu thuật Longo được đánh giá có nhiều ưu điểm như an toàn, hiệu quả, kỹ
thuật dễ thực hiện, đặc biệt ít đau sau mổ và bệnh nhân sớm trở về

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n



3

sinh hoạt bình thường. Hiện nay, phẫu thuật Longo được áp dụng ở hầu hết
các trung tâm phẫu thuật tại các nước có nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam, đến nay, phương pháp phẫu thuật Longo đã được áp dụng
rộng rãi ở nhiều cơ sở y tế như: Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức áp dụng từ năm 2001,
Bệnh viện đa khoa trung ương Huế, Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên áp
dụng từ năm 2008… [10], [11], [30]. Đã có nhiều đề tài, nghiên cứu theo dõi, đánh giá
hiệu quả của phương pháp này tại các bệnh viện khác nhau. Tuy nhiên thời gian
đánh giá kết quả sau phẫu thuật còn ngắn, có rất ít nghiên cứu đánh giá kết quả
xa và phân tích các yếu tố liên quan đến kết quả của điều trị bệnh trĩ bằng phẫu
thuật Longo. Để góp phần đánh giá kết quả xa của phương pháp này và tìm hiểu mối
liên quan của một số yếu tố đến kết quả điều trị, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Kết quả điều trị bệnh trĩ bằng phẫu thuật Longo tại Bệnh viện Trường
Đại học Y khoa Thái Nguyên”
Với 2 mục tiêu sau:
1. Đánh giá kết quả điều trị bệnh trĩ bằng phẫu thuật Longo tại
Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên giai đoạn 01/20107/2013.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị bệnh trĩ
bằng phương pháp Longo.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


4

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Giải phẫu và sinh lý hậu môn trực tràng
Hậu môn có vai trò khá đặc biệt, đảm bảo sao cho việc đại tiện được điều hoà, khi
thì phải giữ kín phân và hơi trong cơ thể, khi khác lại phải tống được phân ra dễ dàng,
thuận lợi (không đau, không ứ đọng, không phải rặn nhiều …)
Tất cả những phẫu thuật, thủ thuật nhằm điều trị các bệnh ở vùng hậu môn
ngoài việc chữa khỏi bệnh đều cần phải đảm bảo tôn trọng các cấu trúc giải phẫu và
chức năng sinh lý của hậu môn, sao cho sau khi điều trị người bệnh vẫn có được tự chủ
hậu môn [17].
1.1.1. Giải phẫu hậu môn trực tràng
Trực tràng là đoạn cuối của ống tiêu hóa, ống hậu môn là phần thấp nhất của
trực tràng.
Trực tràng dài khoảng 12cm, chia làm hai đoạn:
Đoạn trên phình to là bóng trực tràng, nằm trong tiểu khung được phúc
mạc phủ
Đoạn dưới nhỏ là ống hậu môn, nằm trong đáy chậu và không có phúc
mạc phủ [20].
1.1.1.1. Giải phẫu ống hậu môn
Ống hậu môn hay còn gọi là đoạn trực tràng tầng sinh môn, là phần trực tràng đi
ngang qua phần sau của tầng sinh môn. Được giới hạn ở trên bởi dải mu - trực tràng
của cơ nâng hậu môn, phía dưới là bó dưới da của cơ thắt ngoài. Ống hậu môn hợp với
0
0
phần thấp của trực tràng một góc 90 - 100 , chạy xuống dưới ra sau và đổ ra da ở lỗ
hậu môn thuộc tam giác đáy chậu sau. Ống hậu môn dài 3 - 4 cm, đường kính khoảng
3 cm, đóng mở chủ động. Từ ngoài

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN


n


5

vào trong, ống hậu môn được cấu tạo bởi các lớp cơ, lớp niêm mạc và hệ
thống mạch máu thần kinh [14].
1.1.1.2. Cơ vùng hậu môn
OHM có hai cơ vòng là cơ thắt trong, cơ thắt ngoài và một cơ dọc. Các
cơ vùng HM có tác dụng nâng và thắt OHM.
Cơ thắt trong ( cơ tròn trong) thuộc hệ cơ trơn, là vòng của thành ruột ở chỗ
nối tiếp hậu môn trực tràng, dày lên tới 5 – 8mm, bao quanh 3/4 trên ống hậu môn
và tận hết ở ngang mức đường trắng.
Cơ thắt ngoài (cơ tròn ngoài) thuộc hệ cơ vân, bao quanh toàn bộ chiều
dài của OHM, gồm có 3 phần là phần dưới da, phần nông và phần sâu. Goligher cho
rằng không có sự tách biệt rõ ràng giữa 3 phần của cơ thắt ngoài HM. Ở chỗ nối
tiếp hậu môn trực tràng, cơ mu – trực tràng, phần sâu cơ thắt ngoài và cơ thắt trong
cùng phối hợp tạo một vòng cơ hậu môn – trực tràng có chức năng quan trọng trong tự
chủ hậu môn [20].
Cơ dọc của trực tràng đi từ trên xuống, đến chỗ nối tiếp HMTT hoà lẫn với các
sợi mu – cụt của cơ nâng HM và các mô sợi đàn hồi tạo nên cơ dọc kết hợp nằm giữa
các cơ thắt trong và ngoài. Từ cơ dọc kết hợp của OHM có các sợi xơ – cơ xuyên qua
cơ thắt trong rồi bám chặt vào lớp biểu mô của niêm mạc OHM ở vùng lược (vùng
Pecten). Các sợi xơ – cơ này được gọi là dây chằng Parks, phân cách vùng lỏng lẻo
dưới niêm mạc OHM (khoang
dưới niêm mạc) và vùng lỏng lẻo dưới da HM (khoang quanh HM) làm cho các đám rối
tĩnh mạch (TM) trĩ trong không thông nối với đám rối TM trĩ ngoài [15], [17], [20].
1.1.1.3. Lớp niêm mạc hậu môn
Lòng ống hậu môn được phủ bởi lớp biểu mô với cấu trúc thay đổi dần từ trong

ra ngoài, thực chất đây là sự chuyển tiếp giữa niêm mạc trực tràng và da quanh lỗ
hậu môn, bắt đầu bằng lớp tế bào trụ đơn giống biểu mô tuyến

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


6

của trực tràng chuyển dần qua biểu mô vuông tầng, lát tầng và kết thúc là biểu mô giả
da ở đoạn cuối cùng của ống hậu môn. Bên cạnh sự chuyển tiếp cấu trúc là sự thay đổi
về chức năng sinh lý trong lòng ống hậu môn [15].
* Đường lược: là mốc quan trọng trong phẫu thuật hậu môn - trực tràng, cách rìa
hậu môn da khoảng 1,5 - 2 cm, đường lược được tạo nên bởi sự tiếp nối các van hậu
môn, xen giữa là các cột hậu môn, vì vậy nhìn đường lược có hình răng cưa.
Các van hậu môn là những nếp niêm mạc nối liền hai chân cột hậu môn liền
nhau, góp phần thực hiện chức năng đóng kín hậu môn, dưới mỗi van này là hốc hậu
môn, nơi các tuyến hậu môn giải phóng chất tiết.
Đường lược chia ống hậu môn làm hai phần trên van và dưới van có sự khác biệt
mô học rõ rệt [20].
Phần trên van là biểu mô trụ đơn, giống biểu mô của trực tràng, niêm mạc
lỏng lẻo có màu đỏ thẫm. Lớp dưới niêm mạc có đám rối tĩnh mạch trĩ trong,
gồm ba bó ở vị trí 3h, 8h và 11h, khi đám rối này bị giãn sẽ tạo ra búi trĩ nội.
Phần dưới van là biểu mô không sừng hoá, không có tuyến bã và nang lông gọi là
niêm mạc Herman, ở dưới có đám rối tĩnh mạch trĩ ngoại. Phần
dưới van lại chia làm hai vùng: vùng lược và vùng da. Niêm mạc Herman có cấu trúc 3
- 6 lớp tế bào, rất giàu các đầu mút thần kinh là các thụ thể cảm giác tự do
(Meissner, Golgi, Paccini, Krauss) để nhận cảm với các tác nhân đau, nóng, lạnh, áp lực

và nhận biết tính chất phân (rắn, lỏng, khí). Do vậy vùng niêm mạc này rất quan
trọng trong việc duy trì chức năng sinh lý của ống hậu môn. Ứng dụng trong lâm
sàng khi thực hiện các thủ thuật, phẫu thuật điều trị bệnh trĩ: để không gây đau đớn
cho người bệnh, tất cả can thiệp nên được thực hiện ở phần trên của ống hậu môn
nghĩa là trên đường lược ít nhất 0,5 cm [20], [22].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


7

Hình 1.1. Thiết đồ đứng ngang qua giữa hậu môn trực tràng [9]

1.1.1.4. Mạch máu của hậu môn – trực tràng
* Động mạch: có ba động mạch cấp máu cho vùng này.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


8

Hình 1.2. Động mạch vùng hậu môn trực tràng [9]
Động mạch trực tràng trên (động mạch trĩ trên): là nhánh tận của động mạch
mạc treo tràng dưới. Động mạch này chia 3 nhánh; nhánh phải trước, nhánh phải sau

và nhánh trái bên (trùng với vị trí ba búi trĩ chính thường gặp trên lâm sàng) 11h, 8h,
3h [16], [17] , [63]. Các nhánh này nối thông với nhau và nối thông với các tĩnh mạch
qua shunt.
Động mạch trực tràng giữa (động mạch trĩ giữa): động mạch trực tràng
giữa bên phải và bên trái xuất phát từ động mạch hạ vị, cấp máu cho phần
dưới bóng trực tràng và phần trên của ống hậu môn [16], [20].
Động mạch trực tràng dưới (động mạch trĩ dưới): động mạch trực tràng dưới bên
phải và bên trái xuất phát từ động mạch thẹn trong cấp máu cho hệ thống cơ thắt, các
nhánh tận cấp máu cho 1/3 dưới hậu môn và vùng da hậu môn.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


9

* Tĩnh mạch: gồm đám rối tĩnh mạch trĩ trong và đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài.

Hình 1.3: Tĩnh mạch vùng hậu môn trực tràng [55]
Đám rối tĩnh mạch trĩ trong: máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ trong được dẫn về
tĩnh mạch trực tràng trên, đổ về tĩnh mạch mạc treo tràng dưới (hệ cửa). Khi đám
rối tĩnh mạch trĩ trong giãn tạo nên trĩ nội.
Đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài: máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài đổ vào tĩnh mạch
trực tràng giữa và dưới rồi đổ vào tĩnh mạch hạ vị (hệ chủ) qua tĩnh mạch thẹn. Đám
rối tĩnh mạch trĩ ngoài giãn tạo ra trĩ ngoại.
Hai đám rối này được phân cách nhau bởi dây chằng Parks, khi dây chằng
này thoái hoá mất độ bền chắc sẽ chùng ra, hai đám rối sát liền nhau, trĩ nội sẽ liên kết
với trĩ ngoại tạo nên trĩ hỗn hợp. Khi trĩ hỗn hợp to ra, không nằm riêng rẽ nữa mà liên

kết nhau tạo nên trĩ vòng [22], [36].
1.1.1.5. Thần kinh

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


10

Hậu môn trực tràng được chi phối bởi thần kinh sống và thần kinh thực vật [16].
Hoạt động bài xuất phân thực hiện được tự chủ thông qua sự chi phối của hai hệ thần
kinh này.
* Thần kinh sống: hệ thần kinh sống có dây thần kinh hậu môn, tách từ dây cùng
III và dây cùng IV. Dây này vận động cơ thắt hậu môn và cảm giác vùng quanh lỗ hậu
môn, phẫu thuật làm tổn thương dây này sẽ gây nên mất tự chủ khi đại tiện [28].
* Thần kinh thực vật: hệ thần kinh thực vật có các sợi thần kinh tách từ đám rối
hạ vị.
Các dây giao cảm từ các hạch giao cảm thắt lưng. Các
sợi phó giao cảm xuất phát từ hai nguồn.
Các sợi tận cùng của dây thần kinh X đi qua đám rối mạc treo tràng dưới, qua dây
cùng trước và dây hạ vị đi xuống. Các nhánh này vận động và chỉ huy việc tiết dịch
trực tràng [20], [28].
Các dây cương tách ra từ đoạn cùng của tuỷ sống và mượn đường đi của rễ trước
thần kinh cùng II, III, IV tới đám rối hạ vị chi phối cho các tạng niệu dục, điều này giải
thích cho việc rối loạn tiểu tiện ở các bệnh nhân có phẫu thuật ở vùng hậu môn trực
tràng do sự chi phối của thần kinh thực vật.
1.1.2. Sinh lý hậu môn trực tràng
1.1.2.1. Chức năng sinh lý của ống hậu môn

Chức năng sinh lý của ống hậu môn là đào thải phân bằng động tác đại tiện, bình
thường đây là một hoạt động tự chủ. Đại tiện, trung tiện là chức năng sinh lý đặc
biệt quan trọng của hậu môn. Chức năng tự chủ của hậu môn phụ thuộc vào nhu động
đẩy phân của đại tràng, sự co giãn của bóng trực tràng, vai trò của hoành chậu hông,
bó mu trực tràng của cơ nâng hậu môn, động tác rặn làm thẳng góc giữa trực tràng và
ống hậu môn, cuối cùng là sự đáp ứng của hệ thống cơ thắt hậu môn với kích thích về
áp lực. Áp lực trong

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


11

bóng TT trung bình 5 - 20mmHg, cao hơn áp lực ở đại tràng sigma nên phân
được tập trung ở đại tràng sigma, phân chỉ bị đẩy xuống trực tràng khi có những cơn
co bóp mạnh đặc biệt. Theo Nguyễn Đình Hối [18] và Nguyễn Mạnh Nhâm [27], khả
năng tự chủ của hậu môn do áp suất cao trong ống hậu môn lúc nghỉ (25 - 120
mmHg) tạo ra rào cản chống lại áp suất trong trực tràng (5- 20 mm Hg). Khi phân
tụt xuống trực tràng làm tăng áp lực ở đó, kích thích những bộ phận nhạy cảm áp
lực phát động một chuỗi phản xạ giúp tự chủ HM bao gồm phản xạ ức chế và phản
xạ bảo vệ. Phản xạ ức chế bắt đầu bằng việc cơ thắt trong giãn ra để phân tiếp xúc
với các tế bào nhạy cảm ở phần trên ống hậu môn, từ đó cơ thể nhận cảm được khối
lượng và tính chất phân, sự nhận biết này có thể là vô thức. Phản xạ bảo vệ được mở
đầu bằng việc cơ tròn ngoài co thắt không cho phân ra ngoài, sau đó cơ thể đã nhận
biết sự xuất hiện của phân nên chỉ đạo cơ tròn ngoài tiếp tục co thắt, đồng thời TT giãn
ra để làm giảm áp lực và cảm giác buồn đại tiện triệt tiêu do các bộ phận nhận cảm
không còn bị kích thích. Phản xạ đó là vô thức, có sự chỉ huy của trung tâm phía dưới

vỏ não tuỷ sống. Nhưng nếu phân nhiều, áp lực mạnh
vượt khả năng chứa của trực tràng, cơ tròn ngoài chỉ có thể chống đỡ được một thời
gian ngắn (40 - 60 giây) tạo điều kiện chuẩn bị đại tiện. Theo Toupet [73], lúc này có
một ức chế do phản xạ hậu môn – đại tràng sigma làm giảm áp lực ở đại tràng sigma
hỗ trợ thêm. Khi áp lực trong trực tràng đến ngưỡng (45mmHg) sẽ gây cảm giác muốn
đại tiện, nếu cơ thể quyết định đại tiện sẽ gây phản xạ ức chế cơ tròn ngoài và bó mu
trực tràng của cơ nâng hậu môn, làm giảm góc hậu môn – trực tràng. Theo Parks A.
o
G. [66], góc hậu môn – trực tràng bình thường là 90 , khi áp lực ổ bụng tăng, bó mu
trực tràng co lại làm thành trước và thành sau của trực tràng ép chặt vào nhau, đóng
đầu trên ống hậu môn lại, Parks A. G. gọi đó là hiệu ứng van; khi đại tiện, động tác rặn
gây tăng áp lực trong ổ bụng tác động đẩy phân xuống, kết hợp với tư thế đùi

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


12

o
gấp 90 , hiệu ứng van sẽ bị triệt tiêu, áp lực trong TT lên rất cao từ 100 - 200
mmHg, vượt quá sức cản của OHM, phân bị tống ra ngoài.
1.2. Sinh bệnh học bệnh trĩ
Kết quả các công trình nghiên cứu về mạch máu và mô học cho thấy trĩ là một
cấu trúc mạng mạch bình thường được nhiều tác giả công nhận [27]. Thomson .W
(1975) cho rằng trĩ có vai trò trong việc khép kín lòng hậu môn và tìm ra lớp đệm HM,
đó chính là vị trí các búi trĩ có độ dày không đều sắp xếp không đối xứng tại các vị trí 3
giờ - 8 giờ - 11 giờ (tư thế sản khoa) [72]. Trĩ tạo ra lớp đệm vùng ống hậu môn có vai

trò trong cơ chế tự chủ hậu môn. Khi lòng ống hậu môn rỗng, xẹp thì các búi trĩ tạo
thành chữ Y lộn ngược. Sự sắp xếp này là lý tưởng để lớp dưới niêm mạc có thể
thích nghi được kích
thước luôn thay đổi của ống hậu môn. Trong một số điều kiện bệnh lý nào đó, một trục
ĐM bị tắc nghẽn chẳng hạn thì mạng mạch trĩ sẽ đóng vai trò bù trừ mà bình thường
vai trò của nó ít được biết đến. Khi mất khả năng bù trừ đó sẽ sinh ra khủng hoảng
mạch trĩ và xuất hiện triệu chứng chảy máu gặp trong bệnh trĩ [22], [44].
Hiện nay có hai thuyết về cơ chế phát sinh bệnh trĩ được nhiều người chấp
nhận là thuyết tuần hoàn và thuyết cơ học. Theo thuyết tuần hoàn, sự rối loạn điều
hoà thần kinh vận mạch gây phản ứng quá mức điều chỉnh bình
thường của mạng mạch trĩ và vai trò của các shunt động tĩnh mạch; khi các yếu tố
khởi bệnh tác động làm các shunt mở rộng, máu ĐM chảy vào ồ ạt làm các đám rối TM
bị đầy giãn quá mức; nếu lúc đó lại có một nguyên nhân gây cản trở máu về (như rặn
mạnh vì táo bón…) thì các mạch máu phải tiếp nhận một lượng máu quá khả năng
chứa đựng nên giãn ra (xung huyết) và nếu quá trình này tiếp tục sẽ gây chảy máu.
Thuyết cơ học lại cho rằng, dưới tác dụng của áp lực tăng cao khi rặn đại tiện, các bộ
phận nâng đỡ tổ chức trĩ bị giãn dần và trở nên lỏng lẻo; các búi trĩ sa xuống dưới và
dần dần nằm ở ngoài lỗ

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


13

hậu môn, luồng máu tĩnh mạch trở về bị cản trở, trong khi đó luồng máu từ động mạch
vẫn tới do áp lực cao. Quá trình đó tạo thành một vòng luẩn quẩn, lâu dài làm mức độ
sa giãn trĩ càng nặng lên [17], [22], [51].

Có một số yếu tố thuận lợi làm phát sinh bệnh trĩ như rặn mạnh khi đại tiện do
táo bón, rặn tiểu do u phì đại tuyến tiền liệt, ho mạn tính; ngồi lâu, đứng lâu, mang
vác nặng, làm công việc nặng nhọc, thể thao nặng; chèn ép khung chậu do mang thai,
u sinh dục, ung thư đại trực tràng [17]…
1.3. Chẩn đoán và phân loại trĩ
1.3.1. Chẩn đoán
1.3.1.1. Lâm sàng
Ba triệu chứng thường gặp:
Ỉa máu tươi: là triệu chứng sớm nhất và thường gặp nhất. Chính vì thế mà
người Hy Lạp gọi bệnh trĩ là Haimorrhois, người Anh gọi là Hemorrhoids (hemo có
nghĩa là chảy máu ). Hình thức chảy máu thường biểu hiện ở các mức độ khác nhau
như chảy thành tia, rỏ giọt, dính máu theo phân hoặc giấy vệ sinh, nếu mất máu kéo
dài gây tình trạng thiếu máu mãn tính [17].
Sa trĩ: búi trĩ sa ra ngoài ống hậu môn là mức độ nặng của trĩ nội. Trĩ nội lúc đầu
nằm hoàn toàn trong ống hậu môn. Tuỳ theo độ lớn của búi trĩ, tuỳ theo trương lực
của cơ thắt hậu môn, tuỳ theo tình trạng của mô nâng đỡ và dây chằng parks mà búi
trĩ lòi ra ngoài ít hoặc nhiều. Sa từng búi hay sa cả vòng trĩ khi đi ngoài hoặc gắng
sức, búi trĩ sa nặng nhẹ tùy mức độ có thể tự co được, phải dùng tay đẩy vào hậu
môn, hoặc sa tụt hẳn ra ngoài lỗ hậu môn. Búi trĩ sa làm bệnh nhân khó chịu, đau
rát hậu môn, tiết dịch gây ẩm ướt, viêm loét hậu môn [8], [17].
Trĩ tắc mạch: bình thường trĩ không gây đau, đau là do biến chứng tắc mạch sa
nghẹt búi trĩ. 15% số bệnh nhân có những đợt tắc mạch.

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


14


Trĩ ngoại tắc mạch: kích thước búi trĩ thường nhỏ đơn độc, nằm dưới da hậu môn,
đa số tự tiêu để lại miếng da thừa ở rìa hậu môn.
Trĩ nội tắc mạch: hiếm gặp hơn, biểu hiện bằng những cơn đau dữ dội trong ống
hậu môn.
Sa trĩ tắc mạch: đau dữ dội vùng hậu môn, khó có thể đẩy búi trĩ vào lòng
hậu môn, thường kèm theo phù nề nếu tiếp tục tiến triển sẽ hoại tử.
Trong nghiên cứu của tác giả, Beattie G. C. (2000) thấy 51% ỉa máu,
19% sa trĩ và 30% ngứa và chảy dịch ở hậu môn ở nhóm có 43 bệnh nhân
được điều trị phẫu thuật. Trịnh Hồng Sơn thấy 58% bệnh nhân trĩ có đại tiện từng đợt
ra máu tươi và sa trĩ ở hậu môn [34], [40].
1.3.1.2. Thăm khám
Thăm trực tràng: thăm hậu môn trực tràng rất khó xác định búi trĩ nhưng là một
thăm khám bắt buộc để loại trừ các bệnh khác của hậu môn trực tràng, như ung thư
hậu môn - trực tràng hay nhận định biến chứng tắc mạch, đánh giá tình trạng cơ
thắt hậu môn.
Soi hậu môn trực tràng: soi hậu môn là động tác bắt buộc khi lâm sàng có triệu
chứng gợi ý là bệnh trĩ mà không thể khẳng định bằng nhìn, bằng thăm hậu môn
trực tràng, thường sử dụng ống soi của Bensaud. Hiện nay có ống soi gắn đèn theo
tiêu chuẩn của bệnh viện St.Marks London cho phép đánh giá tổn thương trĩ, các tổn
thương phối hợp và sinh thiết những thương tổn nghi ngờ [18]. Hiện nay có nhiều
phương tiện soi hậu môn đại trực tràng hiện đại, giúp việc đánh giá bệnh trĩ và các
bệnh khác vùng hậu môn trực tràng chính xác hơn.
1.3.2. Phân loại bệnh trĩ
1.3.2.1. Theo nguyên nhân, bệnh sinh
Trĩ triệu chứng: trĩ là hậu quả của một bệnh đã được biết rõ như tăng áp
lực tĩnh mạch cửa, ung thư trực tràng…

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN


n


15

Trĩ bệnh: còn gọi là trĩ vô căn.
1.3.2.2. Theo vị trí giải phẫu
Theo vị trí giải phẫu lấy đường lược làm mốc chia ra:
Trĩ nội: gốc búi trĩ ở trên đường lược, niêm mạc tuyến của trực tràng
phủ búi trĩ.
Trĩ ngoại: gốc búi trĩ ở dưới đường lược, da ống hậu môn phủ búi trĩ.
Trĩ hỗn hợp: có cả búi trĩ ở trên, dưới đường lược và có sự thông thương
với nhau.
Trĩ vòng: thông thường vị trí của búi trĩ là vị trí của các đám rối tĩnh mạch
trĩ. Lúc mới phát sinh, các búi trĩ còn nhỏ, phân cách riêng biệt. Về sau, giữa các búi trĩ
chính có búi trĩ phụ tụt ra và gặp nhau tạo thành trĩ vòng. Tuy là vòng nhưng có chỗ to,
chỗ nhỏ. Chỗ to chỗ nhỏ là dấu hiệu tốt để phân biệt trĩ vòng với sa trực tràng [30].
1.3.2.3. Theo mức độ sa (áp dụng với trĩ nội)
Độ I: trĩ ở giai đoạn khởi đầu, búi trĩ nổi lên ở trong ống hậu môn, khi đại tiện
hoặc rặn thì búi trĩ cương to lên, nhưng chưa lòi ra khỏi ống hậu môn, dễ chảy máu.
Độ II: trĩ to thành búi rõ rệt, búi trĩ lòi ra khỏi lỗ hậu môn khi đại tiện hoặc rặn,
khi thôi rặn tự co vào được, có chảy máu hậu môn.
Độ III: các búi trĩ khá lớn, sa ra ngoài khi gắng sức hoặc rặn, không tự co vào
được, phải đẩy lên; có búi trĩ phụ, có chảy máu hậu môn, có thể thiếu máu toàn thân.
Độ IV: các búi trĩ lớn, ngoài các búi chính còn có các búi phụ, sa thường xuyên
nằm ngoài ống hậu môn, các búi trĩ liên kết với nhau tạo thành vòng trĩ; có thể chảy
máu gây thiếu máu mãn tính [17].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –

ĐHTN

n


16

Hình 1.4: Phân độ trĩ nội [17]
1.3.2.3. Theo tiến triển và biến chứng
Trĩ chảy máu kéo dài gây thiếu máu: là biến chứng hay gặp, nhiều bệnh
nhân đến viện với các triệu chứng thiếu máu nặng.
Trĩ có huyết khối và viêm tắc tĩnh mạch trĩ: do ứ máu, chấn thương búi trĩ.
Vỡ búi trĩ: gây tụ máu cấp tính ở rìa hậu môn, màu đỏ sẫm và đau dữ dội.
Trĩ nghẹt: do trĩ nội sa ra ngoài, cơ thắt co bóp làm nghẹt, phù nề thiếu
máu nuôi dưỡng dẫn tới hoại tử, viêm và chảy máu.
Trĩ có rối loạn chức năng cơ thắt:
Yếu cơ thắt hậu môn: do trĩ sa lâu ngày, sa thường xuyên làm yếu cơ thắt
và bệnh nhân không giữ được phân, hơi (trung - đại tiện mất tự chủ).

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


17

Tăng trương lực cơ thắt: gây co thắt dẫn tới đau hậu môn
Trĩ có các bệnh kèm theo: nứt kẽ hậu môn, viêm nhiễm hậu môn trực
tràng ở các hốc tuyến, áp xe quanh hậu môn, rò hậu môn [17], [30].

1.4. Điều trị bệnh trĩ
Việc điều trị trĩ có triệu chứng phải được cân nhắc trên từng bệnh nhân
cụ thể. Mục tiêu điều trị là: Chỉ
điều trị trĩ bệnh lý.
Làm mất đi các triệu chứng của bệnh mà không để lại các biến chứng.
Khi có ảnh hưởng đến sinh hoạt, lao động.
Chỉ phẫu thuật khi điều trĩ nội và làm thủ thuật thất bại hay có biến chứng [51].
1.4.1. Điều trị nội khoa
Thuốc có tác dụng điều hòa lưu thông ruột:
Chống táo bón bằng thuốc nhuận tràng, chế độ ăn chống táo bón, kiêng ớt,
rượu, bia…
Chống ỉa lỏng.
Thuốc đạn và mỡ: đặt hoặc bôi ở hậu môn, có tác dụng che phủ bảo vệ niêm
mạc búi trĩ, chống viêm, giảm phù nề và bôi trơn cho phân đi qua dễ.
Thuốc làm tăng trương lực, bền vững thành mạch: Daflon, Ginkor - fort, cyclofort
3.
Các thuốc chống viêm và thuốc kháng sinh đường ruột khi có chỉ định.
Y học cổ truyền:
Các bài thuốc uống: hòe hoa tán, quy tỳ thang, bổ trung ích khí, tỷ vật
đào hồng, huyết phủ trục ứ, tả hỏa lương huyết, thanh nhiệt nhuận táo.
Thuốc ngâm trĩ, thuốc bôi ngoài, châm cứu: sử dụng các huyệt toản trúc,
yến khẩu, ngân giao, bạch hoàn du, trường cường, thừa sơn [19].
Thể dục liệu pháp: đại tiện theo giờ nhất định, tránh ngồi lâu…
1.4.2. Điều trị bệnh trĩ bằng thủ thuật và các liệu pháp vật lý

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n



18

Điều trị bệnh trĩ bằng can thiệp thủ thuật chủ yếu áp dụng cho trĩ độ 2 và độ 3
có búi riêng rẽ (nhỏ). Hầu hết các phương pháp điều trị bằng thủ thuật đều
tiến hành phía trên đường lược nên không phải dùng biện pháp vô cảm. Điều trị ngoại
trú, thao tác dễ, nhanh, không đau hay đau rất ít, kết quả tốt 70 – 90%. Nhược
điểm là không điều trị được trĩ ngoại, trĩ mức độ nặng (độ 3, độ 4) và tỷ lệ tái
phát cao hơn phẫu thuật. Mục đích của điều trị bệnh trĩ bằng thủ thuật và các liệu
pháp vật lý là nhằm giải quyết búi trĩ bằng cách tấn công vào cuống mạch cấp máu
cho búi trĩ và giải quyết sa búi trĩ bằng cách tạo nên tổ chức xơ cố định lớp niêm
mạc ống hậu môn. Một số phương pháp thường dùng gồm tiêm xơ búi trĩ, thắt búi trĩ
bằng vòng cao su, nong hậu môn (phương pháp Lord), liệu pháp lạnh, đốt tia hồng
ngoại, liệu pháp đốt điện, chiếu tia laser Nd – YAG hoặc laser CO2 và dòng điện cao tần
[5], [35].
1.4.3. Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật (PT) điều trị bệnh trĩ có từ rất sớm đây là phương pháp điều trị triệt
để nhất có tỷ lệ tái phát thấp.
1.4.3.1. Phẫu thuật cắt trĩ theo từng búi riêng lẻ
Phẫu thuật Milligan – Morgan (1937): phẫu thuật này được các tác giả Milligan,
Morgan và Jones thực hiện vào năm 1937 tại bệnh viện Saint Marks ở Anh. Vì thế PT
này còn có tên là “ Phẫu thuật bệnh viện Saint Marks” hoặc “Kỹ thuật người Anh” [63].
Phẫu thuật Milligan – Morgan cắt bỏ một cách hệ thống 3 búi trĩ chính ở 3 giờ,
7 giờ và11 giờ. Phẫu tích bắt đầu từ da rìa HM, lên trên và vào trong
phía trong cơ thắt trong cho tới cuống mạch trĩ, cuống này sẽ được thắt và cắt
bỏ cùng với các búi trĩ; vết mổ không được đóng kín. Điều cơ bản trong PT này là
để lại các cầu da – niêm mạc giữa các diện cắt, để tái tạo lại niêm mạc ống hậu môn
sau này [31], [63].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –

ĐHTN

n


19

Phẫu thuật Shackelford (1955): khâu buộc trên cuống búi trĩ trước, cắt búi trĩ từ
bên trong ra ngoài, vừa cắt vừa khâu vắt liên tục cho đến khi cắt hết búi trĩ thì để lại
một đoạn ngoài da để dẫn lưu dịch tiết [69].
Phẫu thuật Parks (1956): Parks A. G. trình bày kỹ thuật cắt trĩ dưới niêm
mạc với mục đích giảm đau sau PT vào năm 1956, điểm chính của kỹ thuật này là rạch
niêm mạc OHM từ trong ra ngoài theo hình chữ Y lộn ngược, phẫu
tích cắt bỏ búi trĩ sau đó khâu phủ lại niêm mạc trong OHM [66].
Phẫu thuật Ferguson (1959): Ferguson J. A. và Heaton J. R. đề xuất phẫu
thuật này năm 1959 [23], [46]. Đây là phẫu cắt trĩ kiểu búi rời nhưng sau đó khâu kín
toàn bộ vết rạch nên còn được gọi là cắt trĩ kín; sau khi cắt bỏ các búi trĩ như phương
pháp Milligan –Morgan thì khâu kín lại niêm mạc ở ống hậu môn. Năm 2009, Bệnh
viện Việt Đức bắt đầu áp dụng phẫu thuật Ferguson điều trị bệnh trĩ; Nguyễn
Xuân Hùng báo cáo 22 trường hợp trĩ độ
3, độ 4 áp dụng phẫu thuật Ferguson (từ 03/11/2009 đến 30/01/2010), kết quả
rất tốt 72,7%, có 81,8% bệnh nhân sau phẫu thuật đau ít và vừa [25].

Hình 1.5: Phẫu thuật Ferguson [76]
A. Rạch vùng da niêm mạc sát búi trĩ

B. Cắt búi trĩ tới gốc

C. Khâu buộc gốc búi trĩ


D. Khâu da và niêm mạc OHM

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


20

Phẫu thuật Arnous – Parnaud – Denis (bệnh viện Léopold Bellan, Paris –
1989): về cơ bản cũng như phương pháp Milligan – Morgan nhưng có thể cắt thêm các
búi trĩ khác ngoài 3 búi trĩ cơ bản nhưng bao giờ cũng kèm theo cắt bán phần cơ thắt
và tạo hình HM ở phía sau (vị trí 6 giờ) [23].
1.4.3.2. Phẫu thuật cắt bỏ vòng niêm mạc ống hậu môn
Phẫu thuật Whitehead (1882): nội dung cơ bản của phương pháp là cắt một vòng
tròn niêm mạc ống hậu môn, đường cắt trên vào niêm mạc, đường cắt dưới vào
da.Toàn bộ niêm mạc giữa hai đường cắt được lấy bỏ, ở đó có các búi trĩ. Sau đó kéo
niêm mạc từ trên xuống khâu với da bằng mũi rời [75].
Phẫu thuật Buie (1932): rạch da hai bên búi trĩ, sau đó rạch vòng theo
đường lược đến vị trí 6 giờ và 12 giờ. Bên đối diện cũng tương tự, hai đường rạch này
không được liên tục nhau. Từ hai bên, bóc tách niêm mạc ra khỏi cơ thắt và lên cao
đến khi hết trĩ, khâu niêm mạc phía trên vào đường lược [42].
Phẫu thuật Toupet (1969): cải biên phương pháp Whitehead, điểm cơ bản là
đường rạch ở trên cao ngay trên đường lược. Bảo tồn vùng nhận cảm của ống hậu môn
[73].
1.4.3.3. Phẫu thuật cắt bỏ một khoanh niêm mạc trên đường lược
Phẫu thuật Longo (1998): tháng 6/1998 tại Hội nghị phẫu thuật nội soi quốc tế
lần thứ 6 ở Rome (Italy), Antony Longo đã trình bày tổng kết một phương pháp phẫu
thuật để điều trị bệnh trĩ (cho 144 BN từ năm 1993 đến

1996). Nội dung cơ bản của phương pháp này là cắt một khoanh niêm mạc, dưới
niêm mạc trực tràng trên đường lược khoảng 3 cm bằng kỹ thuật khâu nối máy, nhằm
kéo búi trĩ và niêm mạc trực tràng sa trở về vị trí cũ đồng thời loại bỏ nguồn máu tới các
búi trĩ [8], [30], [61].
Tháng 7/2001 tại Missillac, Pháp, các chuyên gia ở NewYork, Chicago, Florida,
Illinois, Weston, Burlinton (Mỹ), Italia, Pháp, Thụy Điển, Anh, Đức, Thụy Sỹ, Singapore,
Scotland và Australia đã thống nhất và đưa ra chỉ định,

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


21

chống chỉ định của phương pháp điều trị trĩ bằng phương pháp Longo. Hội nghị thống
nhất không dùng thuật ngữ ”Stapled hemorroidectomy” mà đặt tên cho kỹ thuật là
”Stapled Hemorroidopexy” vì phẫu thuật này không phải là phẫu thuật cắt trĩ [30].
Cũng có thể gọi tên phẫu thuật này là ”Kỹ thuật Longo”. Hội nghị đã thống nhất:
Chỉ định: trĩ vòng, trĩ độ nội III độ IV, trĩ nội độ II đã được điều trị các phương pháp
khác thất bại, trĩ kèm theo những bệnh vùng hậu môn khác cần phẫu thuật như (nứt
kẽ, da thừa, rò, u nhú, tắc mạch, sa niêm mạc trực tràng
…).
Chống chỉ định: áp xe hậu môn, hoại thư, hẹp hậu môn, sa toàn bộ
trực tràng.

Hình 1.6: Phẫu thuật Longo [48]
A. Nong hậu môn và đặt van
C. Đặt máy stappler, buộc chỉ


B. Khâu vòng niêm mạc trên đường lược 3 cm
D. Đóng máy từ từ đến vạch quy định

E. Sau bấm máy cắt khoanh niêm mạc ống hậu môn

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


22

1.5. Các nghiên cứu về điều trị bệnh trĩ phẫu thuật Longo
1.5.1. Nghiên cứu trên thế giới
Trong thời gian từ tháng 9/2001 đến 3/2003 Jai Bikhchandani (Ấn Độ) và cộng
sự đã điều trị trĩ độ 3 và độ 4 cho 84 bệnh nhân được chia làm 2 nhóm (nhóm 1
phẫu thuật theo phương pháp Longo, nhóm 2 phẫu thuật theo phương pháp Milligan Morgan), kết quả thu được: phẫu thuật Longo đơn giản, an toàn trong điều trị, là phẫu
thuật ít xâm hại, ít đau sau mổ, thời gian nằm viện ngắn hơn so với mổ theo phương
pháp Milligan - Morgan, tuy nhiên việc đánh giá kết quả xa của phẫu thuật Longo theo
tác giả cần phải được theo dõi thêm [54].
Năm 2001, Arnaud J. P. và cộng sự áp dụng PT Longo trên 140 BN, kết quả 95,7%
BN hoàn toàn hài lòng sau 18 tháng theo dõi, tác giả kết luận đây là phương

pháp

an toàn, hiệu quả, nhanh, ít biến chứng và tỷ lệ bệnh nhân đau sau mổ thấp [39].
Theo Ganio E., năm 2001, tại vương quốc Anh, tỉ lệ tái phát trĩ sau mổ
Longo là 20% [47].

Năm 2001, nghiên cứu hồi cứu của Ganio E. và cộng sự về kết quả và biến chứng
56 bệnh nhân có trĩ độ 2, 3, 4 được điều trị phương pháp Longo, theo dõi thời gian
trung bình 33 tháng; ngắn nhất 5 tháng, dài nhất 120 tháng. Kết quả: toàn bộ các
cuộc mổ đều thành công. Sau mổ không có bệnh nhân nào đau khi đi ngoài, chảy
máu vết mổ, ngứa hoặc ỉa không tự chủ, không có triệu chứng tái phát [47].
Năm 2004, Lienert M., người Đức, nghiên cứu hồi cứu 219 trường hợp được phẫu
thuật Longo, thời gian theo dõi trung bình là 281 ngày. Theo dõi cho thấy hẹp hậu môn
ở 9 bệnh nhân chiếm 3,1% [59].
Nhóm tác giả Arnaud J. P. và cộng sự khi đo áp lực hậu môn sau mổ cho
112/140 bệnh nhân (80%), áp lực nghỉ trung bình trước mổ là 61 mmHg (trong

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


23

khoảng 43 - 111mmHg) và 59 mmHg sau mổ (p >0,05), áp lực hậu môn co bóp
trung bình trước mổ là 139 mmHg (trong 90-229mmHg) sau mổ là 143 mmHg (84-189
mmHg) [39].
Trong một thông báo của Ravo B. và cộng sự, kết quả xa sau mổ bằng phương
pháp Longo thấy 0,5% trường hợp còn mảnh da thừa, 2,3% còn tồn tại búi trĩ. Qua
nghiên cứu, tác giả thấy có sự liên quan giữa thói quen đại tiện sau mổ với vấn đề tái
phát bệnh trĩ [68].
Shalaby R. và Desoky A. (2001) nghiên cứu 200 bệnh nhân. Khi so sánh ngẫu
nhiên phẫu thuật Longo và Milligan - Morgan cho thấy. Sau 1 năm theo dõi có 1% trĩ
tái phát, 2% hẹp hậu môn trong nhóm PT Longo so với 2% tái phát, 5% hẹp hậu môn ở
nhóm cắt trĩ theo phương pháp Miligan – Morgan [70].

Năm 2011, Aerny S. và cộng sự đánh giá hồi cứu phẫu thuật Longo cho
750 bệnh nhân, từ tháng 01năm 2000 đến tháng 12 năm 2009. Thời gian theo dõi dao
động từ 3 tháng đến 3,5 năm. Kết quả giai đoạn hậu phẫu sớm biến chứng xảy ra trên
76 BN chiếm 10,1%, biến chứng muộn phát hiện ở 52 bệnh nhân chiếm 6,9% [37].
Nhóm tác giả Bharati Hiremath, năm 2012, tại Ấn Độ có 60% bệnh nhân mắc
bệnh là nam giới, 40% mắc bệnh là nữ giới, thời gian phẫu thuật trung bình là 29 phút.
Tình trạng búi trĩ và các phẫu thuật đi kèm như cắt polyp, cắt da thừa hậu môn có ảnh
hưởng đến yếu tố đau sau mổ của bệnh nhân [41].
Theo nghiên cứu của Ammaturo C. và cộng sự (Italia), năm 2012, thấy các bệnh
nhân được phẫu thuật bằng phương pháp Longo thời gian nằm viện sau mổ ngắn hơn
so với phương pháp Milligan- Morgan (trung bình là 1,3 ngày so với 2,5 ngày) [43].

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


24

Theo nghiên cứu của các tác giả Ahmet Pergel, Ahmet Fikret Yucel tại Thổ Nhĩ Kỳ,
năm 2012, thời gian mổ trung bình là 37,6 ± 8,1 (từ 24 đến 55 phút) [38].
Theo nghiên cứu của Zanella S. và cộng sự năm 2014, thấy tuổi trung
bình ở 320 bệnh nhân được chỉ định điều trị bằng phẫu thuật Longo là 45 ±
11,5 phút [77].
1.5.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, năm 2001, giáo sư Descottes mổ trình diễn phương pháp Longo
trên 3 bệnh nhân tại bệnh viện Việt Đức. Cho đến nay phần lớn cơ sở y tế trong nước áp
dụng phẫu thuật phẫu thuật Longo [1], [24], [32].
Nguyễn Mạnh Nhâm (2004), cải tiến kỹ thuật Longo khâu gấp niêm mạc trực

tràng trên đường lược 2 - 3 cm, đồng thời buộc cố định một phần niêm mạc (bị sa ra
ngoài) có tác dụng sửa chữa cả sa niêm mạc. Theo tác giả kết quả
điều trị hậu phẫu nhẹ nhàng, bệnh nhân đau ít [26].
Thông báo của Trịnh Hồng Sơn và cộng sự (2005) về kết quả bước đầu trong điều
trị trĩ bằng phẫu thuật Longo tại bệnh viện Việt Đức, 100% bệnh nhân có trĩ nội ngoại
độ 3 hoặc độ 4. Kết quả bước đầu của phẫu thuật tốt, bệnh nhân đau rất ít, thời gian
nằm viện ngắn (trung bình 2 ngày), không có biến chứng chảy máu hoặc ỉa không tự
chủ [32].
Theo Nguyễn Hoàng Diệu, năm 2007, qua nghiên cứu trên 65 bệnh nhân trĩ được
điều trị bằng phẫu thuật Longo tại Bệnh viện Việt Đức giai đoạn
2005 – 2007. Thấy thời gian phẫu thuật trung bình là 24,7 ± 9,4 phút. Đa số bệnh nhân
đau ít, có tới 27,7% sau mổ không phải dùng giảm đau, đau nhẹ và vừa chiếm 46,15%.
Thời gian nằm viện ngắn, trung bình là 1,91 ± 0,88 ngày. Kết quả tốt đạt 93,8%,
trung bình 6,2%, không có kết quả xấu. 93,8% bệnh nhân hài lòng với kết quả điều
trị. Phẫu thuật xử trí các bệnh lý kèm theo như da

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


25

thừa hậu môn, polyp hậu môn, nứt kẽ hậu môn có ảnh hưởng đến vấn đề đau
sau mổ của bệnh nhân [2].
Trịnh Hồng Sơn và cộng sự (2007) báo cáo kết quả điều trị các trường hợp trĩ tắc
mạch cấp cứu bằng phẫu thuật Longo, điểm nổi bật trong nghiên cứu này tác giả
không can thiệp lấy bỏ búi trĩ tắc mạch, không lấy máu cục của búi trĩ. Theo dõi sau
mổ dài nhất 14 tháng, ngắn nhất hơn 1 tháng thấy kết quả tốt, không bệnh nhân nào

trở lại viện vì ngứa hậu môn, không đau hậu môn, không ỉa máu, không hẹp hậu môn,
không sa niêm mạc trực tràng và không són phân [33].
Nguyễn Trung Học (2009) nghiên cứu trên 88 BN so sánh kết quả điều trị PT bệnh
trĩ theo hai phương pháp Longo và Milligan – Morgan tại Bệnh viện Việt Đức kết luận
nhóm PT Milligan – Morgan mức độ đau nhiều hơn, thời gian hết đau và lượng thuốc
giảm đau nhiều hơn nhóm PT Longo. Có liên quan giữa tình trạng đau sau mổ và xử trí
các bệnh lý đi kèm như cắt da thừa hậu môn, cắt polyp ống hậu môn… [14].
Nông Thái Sơn Hà (2009) nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật Longo trên 97
BN tại Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, thấy thời gian phẫu thuật trung
bình là 29,49±14,24 phút. Sau mổ, đa số bệnh nhân đau ít và vừa, chỉ phải dùng thuốc
giảm đau đường uống chiếm 82,5%. 11,3% không đau, đau nhiều chiếm 6,2%. Mất tự
chủ hậu môn độ 1 là 1,03%, kết quả tốt
95,9%, trung bình 4,1%, không có kết quả xấu.
Phân độ trĩ trước mổ có liên quan đến kết quả phẫu thuật. Tuổi và nghề nghiệp
bệnh nhân không liên quan đến kết quả phẫu thuật, xử trí bệnh lý bổ xung liên quan
đến mức độ đau sau mổ của bệnh nhân [11].
Nguyễn Thành Quang (2012) nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật
Longo trên 90 BN tại Bệnh viện Việt Đức từ 21/07/2005 - 18/03/2010. Thấy

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


×