PHẦN A: MỞ ĐẦU
Nhà nước cũng như pháp luật là những hiện tượng có tính lịch sử. Nó
chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất và năng xuất lao động xã hội làm xuất hiện chế
độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng không thể điều hòa
được, thì Nhà nước ra đời. Nhà nước đặt các quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị thay cho tập tục lạc hậu và thừa nhận các quy tắc tập
quán còn phù hợp để nâng lên thành luật để điều hành các quan hệ xã hội.
Nhà nước XHCN là công cụ sắc bén để nhân dân lao động trấn áp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột. Nhà nước XHCN được xây dựng và không
ngừng hoàn thiện trong suốt thời kỳ quá độ từ CNTB - CNXH - CNCS văn
minh.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, mọi hoạt động diễn ra rất
phức tạp, các thành phần kinh tế hoạt động đan xen, vừa thúc đẩy hợp tác,
vừa cạnh tranh, mâu thuẩn trong quan hệ kinh tế thường xuyên xảy ra. Mặt
trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực đến bản chất XHCN, đó là xu
hướng phân hóa giàu nghèo quá mức, tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền
mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con người…Vì vậy, quản lý nhà nước
về kinh tế - xã hội là một yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm điều khiển các
thành phần kinh tế và thị trường hoạt động theo định hướng XHCN; đấu tranh
khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội.
Thời đại ngày nay, việc nâng cao quản lý kinh tế của Nhà nước là
cần thiết đối với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - XH, nó
được thể hiện:Mọi Nhà nước sinh ra, phải nắm giữ quyền lực chính trị, quyền
lực kinh tế nhằm điều tiết mối quan hệ kinh tế - xã hội. Để thực hiện quyền
lực, Nhà nước phải tiến hành quản lý mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có
lĩnh vực quản lý kinh tế đối với nền kih tế quốc dân. Ngày nay, lực lượng sản
1
xuất phát triển, trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao do cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật và công nghệ tạo ra, cho nên cần thiết có sự quản lý của
Nhà nước về kinh tế. Nhà nước tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng
theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Trong lịch sử kinh
tế thế giới, có hai mô hình kinh tế đặc trưng tương ứng với vai trò quản lý
kinh tế của Nhà nước: Thứ nhất, là mô hình kinh tế chỉ huy – vai trò quản lý
kinh tế của Nhà nước được tuyệt đối hóa; thứ hai, là mô hình kinh tế thị
trường, nó kết hợp giữa vai trò của Nhà nước với vai trò của cơ chế thị
trường.
Hiện nay, trên phạm vi toàn thế giới không một nhà nước nào đứng
ngoài việc quản lý kinh tế; Nhà nước nào cũng có chức năng quản lý kinh tế,
tuy mỗi nước có cách quản lý khác nhau.
Ở nước ta, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu là các hoạt động
được tổ chức, điều hành và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài
nước và có khả năng tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển bền vững.
Nhằm tìm hiếu sâu hơn về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,
em xin chọn vấn đề: “Quản lý Nhà nước về kinh tế- thực trạng và mục tiêu”
làm đề tài tiểu luận cuối khóa
2
PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1.1. Những thành tựu của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp. Trong khi nền kinh tế ngày
càng được thị trường hóa thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn
còn ở mức độ cao. Hiện tại, nhà nước vẫn sử dụng các biện pháp quản lý giá
cả kiểu hành chính như yêu cầu các tập đoàn kinh tế và tổng công ty điều
chỉnh mức đầu tư, quyết định giá xăng dầu, kiểm soát giá thép, xi măng, than.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ra quyết định về chiến lược
phát triển kinh tế xã hội cho thời kỳ 10 năm và phương hướng thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt Nam
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm để trình Quốc
hội góp ý và thông qua.
Chính phủ Việt Nam tự nhận rằng kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường, và nhiều nước và khối kinh tế bao gồm cả
một số nền kinh tế thị trường tiên tiến cũng công nhận Việt Nam là nền kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn chưa công
nhận kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Tổ chức Thương mại Thế
giới công nhận Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp
và đang chuyển đổi.
Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế. Theo cách xác định hiện nay của
chính phủ, Việt Nam có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một trong những biện pháp mà Đảng
và Chính phủ Việt Nam thực hiện để khu vực kinh tế nhà nước trở thành chủ
đạo của nền kinh tế là thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng cổng ty
3
nhà nước. Tuy nhiên, từ đầu thập niên 1990 cho đến nay, Việt Nam đã liên tục
thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Đảng và Nhà nước
chủ trương ưu tiên phát triển các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể, song tốc độ tăng trưởng của hai thành phần này lại thấp hơn so với của
kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu sơ bộ] của
Tổng cục Thống kê, năm 2007, khu vực kinh tế nhà nước là khu vực lớn nhất,
chiếm 36,43 % GDP thực tế của Việt Nam, tiếp theo lần lượt là kinh tế cá thể
(29,61 %), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (17,66 %), kinh tế tư nhân
(10,11 %).
Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn)
kinh tế, đó là: 1) nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; 2) công nghiệp (bao gồm
công nghiệp khai thác mỏ và khoáng sản, công nghiệp chế biến, xây dựng và
sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối khí, điện, nước); 3) thương
mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế.
Vào năm 2007, khu vực thứ nhất chiếm 20,29 % GDP thực tế, khu vực
thứ hai chiếm 41,58 % (trong đó công nghiệp chế biến chiếm 21,38 %).
Ngành tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,81 % GDP thực tế.
Năm 2008, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam ước khoảng 22,97 %. ao hơn
nhiều mức Quốc hội đề ra là dưới 8,5-9% trong kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội năm 2008. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế tính theo đơn vị
tiền tệ quốc gia của Việt Nam năm này là 6,18%, thấp hơn mức Quốc hội đề
ra là trên 7,5-8%. Những lo ngại về lạm phát tăng tốc nhanh trong năm 2007
và nửa đầu năm 2008 đã khiến Chính phủ quyết định thực hiện các biện pháp
thắt chặt tiền tệ và tài chính cũng như tác động của khủng hoảng tài chính
toàn cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến.
Thu chi ngân sách nhà nước được điều chỉnh bởi Luật Ngân sách nhà
nước và các văn bản pháp lý khác. Kỳ họp cuối năm là lúc Quốc hội phê
duyệt dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương
4
năm sau. Các cấp ngân sách nhà nước đều có nguồn thu riêng. Ngoài ra còn
có một số nguồn thu chung - là nguồn thu của ngân sách cấp trên chia cho
ngân sách cấp dướ.
Ngân hàng Nhà nước đang quản lý tương đương 20,7 tỷ dollar dự trữ
ngoại hối nhà nước của Việt Nam (tính vào thời điểm ngày 19/6/2008). Ngân
hàng này quản lý tỷ giá hối đoái chính thức của Việt Nam thông quan can
thiệp vào giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tác động tới tỷ
giá bình quân liên ngân hàng và tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu. Bộ Tài chính
(Việt Nam) cũng công bố một tỷ giá chính thức nữa để phục vụ hạch toán
ngoại tệ. Ngoài các loại tỷ giá hối đoái chính thức nói trên, Việt Nam còn có
tỷ giá hối đoái không chính thức thường áp dụng trong giao dịch ngoại tệ tại
các cửa hàng kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý của tư nhân.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tích cực vào tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị đầu tư thực tế và giá trị giải
ngân thấp hơn nhiều so với giá trị đăng ký. Tính theo giá trị lũy kế từ năm
1988 đến hết năm 2007, công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực thu hút được
nhiều FDI nhất – 67% số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Sau đó đến
khu vực dịch vụ - 22,3% về số dự án và 34,3% về giá trị. Trong 82 quốc gia
và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, các nước đầu tư nhiều nhất tính theo giá trị
FDI đăng ký lần lượt là Hàn Quốc,Singapore, Đài Loan và Nhật Bản. Còn
theo giá trị FDI thực hiện thì Nhật Bản giữ vị trí số một. Các tỉnh, thành thu
hút được nhiều FDI (đăng ký) nhất lần lượt là thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng năm 2008, số FDI
mới đăng ký (nghĩa là không tính số xin phép tăng vốn phát sinh trong năm)
đạt 32,62 tỷ dollar. Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài tới 37 quốc gia và
lãnh thổ, nhiều nhất là đầu tư vào Lào. Tính đến hết năm 2007, có 265 dự án
đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký khoảng 2 tỷ dollar
5
và vốn thực hiện khoảng 800 triệu dollar. Đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp
chiếm phần lớn, tiếp theo là nông, lâm nghiệp.
Việt Nam bắt đầu chủ trương hội nhập kinh tế từ sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), chủ trương này càng được đẩy mạnh. Hội
nhập kinh tế của Việt Nam diễn ra càng ngày càng nhanh và càng sâu. Từ chỗ
chỉ hợp tác thương mại thông thường đã tiến tới hợp tác kinh tế toàn diện, từ
chỗ hợp tác song phương đã tiến tới hợp tác kinh tế đa phương. Cho đến giữa
năm 2007, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, đã ký hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp
định thương mại, 51 hiệp định thúc đẩy và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định tránh
đánh thuế hai lần, 81 thoả thuận về đối xử tối huệ quốc. Đỉnh cao về hợp tác
kinh tế song phương là việc ký hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản,
còn về hợp tác kinh tế đa phương là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới với tiêu chuẩn “WTO Plus”, nghĩa là chấp nhận các đòi
hỏi về tự do hóa thương mại (hàng hóa và dịch vụ), đầu tư, mua sắm của
chính phủ cao hơn so với mức độ quy định trong các văn kiện có hiệu lực
đang áp dụng của WTO.
1.2. Vấn đề đặt ra với nền kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam hoạt động kém hiệu quả. Việt Nam trong thời
gian vừa qua phát triển kinh tế theo chiều rộng. Tuy nhiên, chiến lược phát
triển kinh tế chủ yếu theo chiều rộng cũng như bất kỳ một chính sách nào
cũng đều có những hạn chế của nó. Phát triển kinh tế theo chiều rộng thông
thường đòi hỏi vốn đầu tư cao và dàn trải. Do vậy, hiệu quả vốn đầu tư khó có
thể cao, biểu hiện chỉ số ICOR của Việt Nam mặc dù có được cải thiện nhưng
vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Hiệu quả đầu tư
6
không cao và dàn trải được tích tụ qua các năm là nguyên nhân chủ yếu làm
cho lạm phát tăng cao.
Nhu cầu đầu tư lớn dẫn đến tình trạng đầu tư vượt xa khả năng tích lũy
của nền kinh tế, thâm hụt ngân sách luôn ở mức cao. Để bù đắp phần thiếu hụt
phải trông cậy vào đầu tư nước ngoài và vay nợ nước ngoài. Thực tế này đã
làm cho nợ quốc gia và nợ công nước ngoài tăng nhanh trong những năm vừa
qua, mặc dù vẫn trong ngưỡng an toàn nhưng cũng đến lúc phải thận trọng.
Thâm hụt cán cân thương mại, nhập siêu ở mức cao và trở thành căn
bệnh kinh niên của nền kinh tế. Lạm phát cao, nhập siêu lớn là nguyên nhân
cơ bản làm mất giá đồng Việt Nam, suy giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia và làm
giảm lòng tin của người dân vào VND, tạo cơ hội cho đầu cơ, găm giữ, buôn
lậu, buôn bán trái phép ngoại tệ và vàng. Tới tháng 4/2011, các nước lân cận
lạm phát đều không quá 5 – 6%, còn Việt Nam thì lên đến gần 18% so với
cùng kỳ.
Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ nguyên nhân: “Về
khách quan, do tác động tiêu cực của tình hình kinh tế thế giới; về chủ quan là
do những hạn chế, yếu kém vốn có của nền kinh tế, mô hình tăng trưởng và cơ
cấu kinh tế chậm được khắc phục, bị tích tụ nặng nề hơn trong những năm phải
đối phó với tình trạng suy giảm kinh tế và do một số hạn chế trong quản lý,
điều hành của các cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
trạng trong nhiều năm qua, nước ta luôn phải đối mặt với tình trạng lạm phát
cao và kinh tế vĩ mô không vững chắc, gay gắt hơn các nước trong khu vực.”
Mặc dù Việt Nam đã bước vào ngưỡng đầu của các nước có mức thu
nhập trung bình, nhưng kết cấu cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn nhiều bất
cập và yếu kém.. tâm lý thỏa mãn lan tràn trong dân cư cũng như các nhà lãnh
đạo; quyền lợi của các nhóm người trong xã hội trỗi dậy, đan xen và ràng
7
buộc lẫn nhau kìm hãm mọi quá trình cải cách trong nền kinh tế; tham ô, tham
nhũng bóp méo mọi quan hệ của đời sống kinh tế xã hội.
Trong những năm vừa qua khi lạm phát gia tăng, kinh tế vĩ mô có nhiều
biểu hiện không ổn định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chững lại, đầu tư
nước ngoài gián tiếp cũng nhỏ giọt. Sau khủng hoảng kinh tế - tài chính thế
giới, mặc dù đã có dấu hiệu hồi phục song các nền kinh tế lớn tăng trưởng còn
chậm, không rõ nét và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, các luồng vốn đầu tư đang đổ
dồn vào các nước Đông Nam Á. Nhiều nước trong khu vực đang phải vất vả
tìm mọi giải pháp để hấp thụ các luồng vốn này một cách hiệu quả nhất, đồng
bản tệ của họ liên tục lên giá. Trong khi đó tại Việt Nam, các luồng vốn này
hầu như im ắng và VND liên tục mất giá. Ở những thời điểm nhất định trong
thời gian qua Chính phủ Việt Nam cũng đặt vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô,
kiềm chế lạm phát nhưng không nhất quán và nhiều khi còn bị đánh đổi lấy
các mục tiêu kinh tế khác. Điều này đã làm giảm lòng tin của cộng đồng các
nhà đầu tư, các nhà tài trợ vào môi trường đầu tư của Việt Nam. Mức xếp
hạng tín nhiệm đầu tư của Việt Nam bị giảm sút
Cơ sở hạ tầng là một trong những trở ngại lớn nhất của phát triển kinh
tế tại Việt Nam. Cơ sở hạ tầng Việt Nam bị đánh giá là yếu kém, thiếu thốn.
Việc nâng cấp hạ tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và trậm
trễ. Nhất là trong việc phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu, như các tuyến đường
liên tỉnh, cầu… Những hạn chế về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam theo đánh giá
bởi các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đe doạ các dự án FDI đối với xuất khẩu và
sản xuất. Chừng nào Việt Nam còn chưa cải thiện hạ tầng và cơ sở hậu cần thì
Việt Nam còn tụt hậu.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam không hợp lý thể hiện ở cơ cấu sở hữu (tài sản
và đầu tư tập trung quá lớn vào khối doanh nghiệp nhà nước, trong khi khối
này hoạt động không hiệu quả). Sự bất cập trong cơ cấu nền kinh tế còn được
8
thể hiện qua việc lựa chọn ngành trong chiến lược phát triển công nghiệp
chưa tận dụng được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang có.
Một trong những trở ngại của nền kinh tế Việt Nam là thiếu nguồn nhân
lực có trình độ. Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào, trẻ, có trình độ học
vấn nhưng thiếu kỹ năng và tay nghề. Nhiều dự án đầu tư của Việt Nam
không phát huy được những lợi thế này.
Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa
kém, giá trị gia tăng của các sản phẩm chưa cao
9
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
TRONG THỜI GIAN TỚI
Mục tiêu quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Giống như các nền kinh tế thị trường
truyền thống, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là nhằm hạn chế
những tồn tại của kinh tế thị trường và đi tới mục tiêu cuối cùng: Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn đạt được điều đó,
quản lý nhà nước về kinh tế phải thực hiện được các mục tiêu cụ thể về thúc
đẩy tăng trưởng, thực hiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là mô hình kinh
tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị
trường mới trong lịch sử phát triển. kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa mang những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại (đã và
đang tồn tại, phát triển ở các nước trên thế giới) vừa có những đặc điểm riêng
phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Xét về bản chất, nó
là một mô hình tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và được sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội ở một đất nước cụ thể.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà
nước về kinh tế là một yêu cầu khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc
chung của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường như
mọi nước khác. Nhìn chung, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là
nhằm mục tiêu hạn chế và khắc phục những tồn tại của kinh tế thị trường.
Ngoài ra, Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn phải chủ động sử dụng kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, dẫn dắt nền kinh tế phát triển đi lên xã hội chủ nghĩa,
10
chứ không để kinh tế thị trường phát triển tự phát theo con đường tư bản chủ
nghĩa.
Đảng ta đã chủ trương nhất quán việc xây dựng một Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm căn cứ cho toàn
bộ hoạt động của Nhà nước và khẳng định mục tiêu cuối cùng của việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính
là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa cũng phải hướng tới mục tiêu tổng thể đó thông qua việc thực hiện
các mục tiêu cụ thể dưới đây.
Thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Tăng trưởng nhanh và bền
vững là mục tiêu hàng đầu đối với mọi quốc gia. Đặc biệt, đây là vấn đề
sống còn đối với những nước đi sau, có xuất phát điểm thấp về kinh tế như
nước ta. Theo Báo cáo phát triển con người toàn cầu do UNDP công bố năm
2004, GDP bình quân đầu người tính theo sự ngang bằng sức mua năm 2002
của Việt Nam là 2.300 USD, đứng thứ 124/177 nước có số liệu công bố. Mức
thu nhập đó bằng khoảng 9,6% so với Singapo; 13,6% so với Hàn Quốc;
32,8% so với Thái Lan và 50,2% so với Trung Quốc.
Với vị trí khiêm tốn như vậy, chỉ có tăng trưởng nhanh và bền vững thì
chúng ta mới tránh được nguy cơ tụt hậu, giảm dần khoảng cách về mức thu
nhập so với các nước phát triển hơn và sẽ sớm được xếp vào nhóm các
nước có mức thu nhập trung bình trong khu vực. Hơn nữa, cũng chỉ có
tăng trưởng nhanh và bền vững hơn so với các nước có những điều kiện tương
đồng mới thể hiện được tính ưu việt của mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa so với mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ở tất cả các nước (kể cả đang phát triển
và phát triển) khu vực tư nhân luôn là động lực chủ yếu của quá trình tăng
trưởng và phát triển bền vững. Một đặc điểm nổi bật của các nền kinh tế
11
trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế theo định hướng thị trường là tình trạng độc quyền và
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà nước
với doanh nghiệp tư nhân. Vị trí độc quyền của doanh nghiệp hầu hết đều do
Nhà nước quyết định theo phương thức hành chính chứ không phải hình thành
nhờ hiệu quả kinh doanh thông qua quá trình tự tích lũy và tập trung tư
bản. Trong bối cảnh đó, tự do kinh doanh và bãi bỏ các hàng rào bảo hộ sẽ
là những biện pháp hữu hiệu để hạn chế sự bất công và phi hiệu quả gắn liền
với độc quyền.
Để có thể duy trì tăng trưởng bền vững ở mức cao, một điều đặc biệt
quan trọng cần nhận thức rõ là, Nhà nước có vai trò không thể thay thế trong
việc bảo vệ môi trường. Lý thuyết kinh tế hiện đại đã khẳng định rằng thất
bại của kinh tế thị trường trong việc bảo vệ môi trường bắt nguồn từ thực tế là
sản xuất tư nhân có thể gây ra tác động tiêu cực đối với môi trường do chi
phí xã hội không được phản ánh đầy đủ vào chi phí sản xuất.
Do đó, lượng ô nhiễm luôn có khuynh hướng vượt quá mức “tối ưu” và
các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác cạn kiệt. Khi đó chúng
ta không thể nói đến tăng trưởng bền vững, và càng không thể nói đến phát
triển bền vững.
Thực hiện công bằng xã hội Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bên
cạnh mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, Nhà nước còn phải
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đảm
bảo cho mọi người chứ không phải chỉ một số người được hưởng lợi từ
thành quả tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Đây là vấn đề cốt lõi của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một tiêu chí quan trọng
bậc nhất để phân định chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
12
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, cần coi trọng việc đảm
bảo công bằng về: Cơ hội làm việc (bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn
lực phát triển và các hoạt động làm ăn kinh doanh theo pháp luật); nghĩa vụ
và sự đóng góp cho Nhà nước và xã hội theo pháp luật; hưởng thụ các thành
quả phát triển chung của đất nước (thông qua các chế độ phúc lợi công
cộng, dịch vụ công, chính sách xã hội...).
Theo lý thuyết, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội có thể mâu thuẫn
với mục tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả và tăng trưởng
nhanh. Lý do cơ bản là để lấy thu nhập của người giàu chuyển cho người
nghèo, Chính phủ phải theo đuổi các chính sách tái phân phối thu nhập. Với
các chính sách này, những người có thu nhập cao phải nộp thuế cao, những
người có thu nhập thấp nhận được các khoản chuyển giao thu nhập. Điều này
sẽ làm giảm động lực lao động và gây ra tổn thất xã hội. Do vậy, Nhà nước
phải cân đối giữa những lợi ích thu được từ sự bình đẳng và những thiệt hại
do việc bóp méo các động cơ khuyến khích. Ngoài ra, nhiều nhà kinh tế và
hoạch định chính sách còn tin rằng phân phối không công bằng là điều kiện
cần thiết để tăng tiết kiệm, đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, có nhiều lý do cho thấy sự công bằng cao hơn ở các nước
nghèo như Việt Nam có thể có lợi cho tăng trưởng. Theo nhà kinh tế Simon
Kuznets (giải thưởng Nobel về Kinh tế năm 1971), bất bình đẳng về phân
phối thu nhập có xu hướng nới rộng trong những giai đoạn đầu của quá
trình phát triển (khi lực lượng lao động chuyển từ ngành nông nghiệp được
đặc trưng bởi thu nhập thấp nhưng phân phối tương đối bình đẳng sang khu
vực công nghiệp ở các đô thị được đặc trưng bởi thu nhập cao hơn nhưng
phân phối ít bình đẳng hơn) trở nên ổn định trong một giai đoạn; và sau đó
thu hẹp dần trong những giai đoạn sau khi nền kinh tế đã chín muồi. Điều đó
hàm ý Việt Nam có thể phải chấp nhận hy sinh ở một mức độ nhất định mục
13
tiêu phân phối công bằng trong giai đoạn đầu của phát triển, tuy nhiên khi nền
kinh tế đã phát triển đến trình độ cao thì chúng ta có thể đồng thời đạt được cả
hai mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững đi cùng với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Ổn định kinh tế vĩ mô ổn định kinh tế vĩ mô hiện được chấp nhận rộng
rãi là môi trường thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm và gia tăng đầu tư, do
đó nó là điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và vững
chắc. Những kinh nghiệm thành công nhất về phát triển kinh tế ở các quốc gia
Đông á cho thấy các yếu tố quan trọng đểduy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định bao gồm: Mức thâm hụt ngân sách thấp, tốc độ tăng trưởng tiền tệ và tín
dụng hợp lý, tỷ lệ lạm phát tương đối thấp và các khoản nợ của khu vực công
cộng duy trì ở mức có thể quản lý được, lãi suất thực dương và tránh để đồng
nội tệ bị đánh giá cao.
Ngay sau khi thực hiện đổi mới, nước ta đã vấp phải một thách thức
lớn: Nền kinh tế bị mất ổn định nghiêm trọng. Giá cả hàng hoá và dịch vụ bắt
đầu tăng với mức độ ngày càng cao và có tính dây chuyền. Giai đoạn 19861988 là những năm siêu lạm phát. Năm 1989, Việt Nam đưa ra chương trình
ổn định và thực hiện cải cách cơ cấu với nội dung chủ yếu là tự do hoá giá
cả, nới lỏng thương mại với các nước, thắt chặt chính sách tài chính, áp
dụng chính sách lãi suất thực dương và phá giá tiền tệ. Những biện pháp này
đã có tác dụng tức thời trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát
cao đã quay trở lại trong hai năm 1990-1991 do thâm hụt ngân sách còn lớn
và được tài trợ chủ yếu bằng việc phát hành tiền. Từ năm 1992, Chính phủ
Việt Nam đã thực hiện các chính sách tài khoá và tiền tệ thận trọng: Thâm
hụt ngân sách giảm dần xuống mức thấp và đặc biệt là thâm hụt ngân sách
hoàn toàn không được tài trợ bằng phát hành tiền; chính sách lãi suất thực
dương liên tục được duy trì. Những giải pháp này có tác động tích cực trong
cuộc đấu tranh chống lạm phát và Việt Nam đã thực sự thành công trong
14
việc kiềm chế và duy trì lạm phát ở mức thấp. Từ năm 1999, trước đà
tăng trưởng kinh tế chậm lại, chủ trương kích cầu của Đảng và Nhà
nước ta đã có tác động tích cực trong việc phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Năm 2004, lạm phát lại đột ngột dâng cao cũng đòi hỏi Nhà nước cần có
giải pháp thích hợp, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Ba mục tiêu trên có quan hệ qua lại với nhau, tác động tương hỗ trong
một thể thống nhất nhằm hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế, xây dựng xã
hội công bằng và văn minh. Bản thân mục tiêu tăng trưởng bền vững đã
hàm ý đi liền với mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác có hiệu
quả các nguồn lực hiện có, thực hiện công bằng xã hội và đảm bảo ổn định vĩ
mô. Đó là các bộ phận hợp thành của một chiến lược hướng tới sự phát triển
bền vững, một sự phát triển cho phép làm tăng phúc lợi của các thế hệ hiện tại
mà không làm giảm khả năng cải thiện phúc lợi của các thế hệ tương lai.
Công bằng xã hội và ổn định vĩ mô vừa là điều kiện, vừa là kết quả của tăng
trưởng bền vững. Thực tế về tăng trưởng chậm đi liền với bất bình đẳng xã
hội ngày càng cao ở châu Mỹ Latinh là một ví dụ rõ nét phản ánh tính thiếu
bền vững trong phát triển, với nhiều căng thẳng và nguy cơ tiềm ẩn dẫn
đến sự suy giảm hiệu quả và ổn định vĩ mô trong dài hạn. Bên cạnh đó, bài
học kinh tế đắt giá về mất ổn định vĩ mô ở Việt Nam trong thời kỳ 1986-1988
là một minh chứng sinh động cho mối quan hệ khăng khít giữa hai mục tiêu
ổn định vĩ mô và phát triển bền vững.
Nói tóm lại, ba nhóm mục tiêu trên cần được nhận thức đúng đắn và
nhất quán, nhằm tạo nên một hệ mục tiêu không xung đột, mâu thuẫn với
nhau, mà đóng vai trò tương hỗ, bổ sung lẫn nhau trong việc phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
15
PHẦN C: KẾT LUẬN
Nhà nước là cơ quan thực thi quyền lực của nhân dân, bảo vệ lợi ích của
quốc gia, chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu; vận hành nền kinh tế bằng
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, cho nên vai trò của Nhà
nước rất nặng nề và quan trọng:Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường ra đời phù hợp với xu hướng thời đại, đồng thời phải điều tiết thị
trường để nền kinh tế ổn định & phát triển; Nhà nước phải kiên quyết đấu
tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng: phân hóa giàu nghèo
quá mức và tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân
phẩm, đạo đức… đồng thời hạn chế và khắc phục khuyết điểm, yếu kém của
bộ máy Nhà nước; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý
mới, định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với bản chất của Nhà nước ta.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường sẽ tồn tại lâu dài – suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các thành phần hoạt động sản xuất kinh doanh đan xen nhau, vừa hỗ trợ thúc
đẩy, lại vừa cạnh tranh mâu thuẩn đối lập thường xuyên xảy ra. Mặt trái của
cơ chế thị trường mâu thuẩn với bản chất của xã hội chủ nghĩa, đó là xu
hướng phân hóa giàu nghèo quá mức, tâm lý sùng bái đồng tiền và vì đồng
tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con người. Vì vậy, quản lý Nhà
nước về kinh tế là một yêu cầu cần thiết - khách quan, nhằm quản lý các
thành phần kinh tế và thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
theo quan điểm:tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường.
Bằng những công cụ của mình, Nhà nước ta thực hiện được các chức
năng quản lý Nhà nước về kinh tế, đưa nề kinh tế xã hội phát triển, thực hiện
mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
– vững bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội – con đường mà Đảng – Bác Hồ và
Nhân dân ta hằng mong ước.
16
MỤC LỤC
17