Mở đầu
Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã
diễn ra những biến đổi to lớn. Trước “âm mưu diễn biến hoà bình” của chủ
nghĩa đế quốc, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, xu thế toàn cầu hoá kinh tế, chạy đua về kinh tế, cuộc đấu tranh giữa
CNXH và CNTB diễn biến phức tạp. Điều đó đã đặt hệ thống XHCN trước
những thách thức mới. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, Trung Quốc
thực hiện cải cách, mở cửa; Liên Xô và các nước XHNC ở Đông Âu tiến
hành cải tổ, cải cách. Trong khi Trung Quốc có sự vươn lên mạnh mẽ thì
những sai lầm về đường lối và cách làm đã khiến công cuộc cải tổ, cải cách
ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu ngày càng khó khăn, sự khủng
hoảng toàn diện dần dần xuất hiện ở các nước này.
Công cuộc cải tổ, cải cách ở các nước XHCN đã có những tác động sâu sắc
đến nước ta.
Có thể coi Hội nghị TƯ 6 khoá IV (tháng 8/1979) với chủ trương và
quyết tâm là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Đại hội
VI (tháng 12/1986), Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đảng khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và
chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; Đại hội cũng làm rõ hơn định
hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần;
tiếp tục khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân;
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Theo đó, chủ đề Đại hội VIII của Đảng là “ Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
I.
Các khái niệm
1/ Khái niệm “đổi mới”
Đổi Mới là một chương trình cải cách toàn diện các mặt của đời sống xã
hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách
Đổi Mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần VI, năm 1986 .
2. Đổi mới kinh tế
Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu
thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã
hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa...
Đổi Mới ở Việt Nam tương tự quá trình Cải Tổ của các nước Đông
Âu, Cải Cách Khai Phóng ở Trung Quốc và Đổi Mới ở Lào.
Các quan điểm về Đổi Mới của Việt Nam dựa chủ yếu trên chính sách
kinh tế mới (NEP) của Lênin và các kinh nghiệm cải cách của các nước
Đông Âu và Trung Quốc.
3. Khái niệm “kinh tế thị trường”
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở đa dạng các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh(1).
4. Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đó là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận
hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để
(1).
Tài liệu học tập Nghị quyết TW 5 khoá IX, trang 69,70,71
sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh(2).
5. Khái niệm “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đó là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, các quy định, quy tắc
chế định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình sản xuất, lưu thông
diễn ra trong nền kinh tế nhằm tạo điều kiện cho sự hình thành, vận hành
thông suốt và phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa(3).
6. Đổi mới về kinh tế
Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình
thực hiện. Ngày nay, Đổi Mới về kinh tế được Nhà nước Việt Nam định
nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa(4).
6.1. Đặc điểm của Đổi Mới về kinh tế
Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành
phần kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX
quy định có 6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài), nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ
vai trò chủ đạo.
(2).
Tài liệu học tập Nghị quyết TW 5 khoá IX, trang 69,70,71
Tài liệu học tập Nghị quyết TW 5 khoá IX, trang 69,70,71
(4)
Tài liệu học tập Nghị quyết TW 5 khoá IX, trang 69,70,71
(3)
Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, một trường phái kinh tế
học mà đại biểu tiêu biểu của nó là Paul Samuelson- Nobel kinh tế năm
1970- với lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp. Luận điểm của nó là nền kinh tế
thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi
hai bàn tay: thị trường và Nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy
tính tối ưu trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi nhuận thông qua
cạnh tranh, mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được những thất
bại của thị trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế...
Định hướng xã hội chủ nghĩa: Theo quan điểm trước Đổi Mới, Nhà
nước Việt Nam cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư
bản và hoạt động không tốt. Sau Đổi Mới, quan điểm của Nhà nước Việt
Nam là kinh tế thị trường là thành tựu chung của loài người, không mâu
thuẫn với chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vẫn
giữ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế, vì theo quan
điểm của chủ nghĩa Marx về chủ nghĩa xã hội thì mọi tư liệu sản xuất đều
thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước đại diện
cho nhân dân.
Nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa, sang mở cửa, hội nhập với
thế giới.
6.2. Quá trình Đổi Mới về kinh tế
Giai đoạn đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm phát
tăng lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền.
•
1986: Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
chính thức thực hiện Đổi Mới, bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa-hiện
đại hóa.
•
1/3/1987: giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các tuyến đường
nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa.
•
18/5/1987: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Đỗ Mười sang thăm Liên Xô. Gorbachyov giục Việt Nam cải
cách kể cả thông thương với các nước tư bản.
•
5/4/1988: Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ về Đổi Mới quản lý kinh
tế nông nghiệp (hay còn gọi là Khoán 10).
•
24/5/1988: 19 tỉnh miền Bắc đói to. Chính quyền chính thức yêu cầu
Liên Hiệp Quốc viện trợ nhân đạo khẩn cấp.
•
12/6/1988: Nghị quyết bỏ hẳn chính sách hợp tác hóa nông nghiệp để
tăng gia sản xuất.
•
1989 Việt Nam đã xuất khấu gạo đứng thư 3 thế giới(sau Thái Lan và
Hoa Kì)
•
1989: Trung Quốc xảy ra sự kiện Thiên An Môn. Năm 1991, Liên Xô
sụp đổ. Tuy nhiên, đánh giá về các sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết định tiếp tục Đổi mới theo con đường đã chọn và vẫn thực
hiện chủ nghĩa xã hội.
•
1990: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm thể chế
hóa chính thức và đầy đủ hơn chủ trương phát triển kinh tế tư nhân [2].
Bắt đầu có chủ trương thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
•
Tháng 5 năm 1990: pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp
lệnh ngân hàng chính thức chuyển ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
•
1993: bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính
quốc tế.
•
2000: Luật Doanh nghiệp ra đời.
•
2001: Ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
7. Khái niệm “chính trị”
Chính trị là tổng thể các hoạt động nhằm giành, giữ quyền lực Nhà
nước. Chính trị là một lĩnh vực thuộc đời sống xã hội, nó thể hiện mối
quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành,
giữ, sử dụng hoặc chi phối quyền lực Nhà nước.(1)
8. Khái niệm “Đổi mới về chính trị”
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì “đổi mới về chính
trị ” không phải là từ bỏ việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh đạo duy nhất. Đổi Mới chỉ là thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến nay, Đổi Mới về chính trị ở Việt Nam là chuyển từ việc lãnh đạo
kinh tế chủ quan, duy ý chí sang tôn trọng quy luật khách quan của thị
trường.(
nguồn:
/>
%C3%A1ch)
Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp
tác với các nước XHCN sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm
bạn với tất cả các nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Các tổ chức tôn giáo được quyền tự do hoạt động mà không gặp bất
cứ cản trở nào của chính quyền . Chính phủ Việt Nam cũng tuyên bố rằng
các quyền con người khác được đảm bảo ở Việt Nam: quyền tự do cư trú,
.(1)
Giáo trình Chính trị học, Học viện Hành chính quốc gia, 2008
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền được bảo vệ bình đẳng
trước pháp luật, quyền được học hành, chăm sóc y tế...
9. Khái niệm “Thể chế”
Theo cuốn "Từ điển tiếng Việt" năm 2008 của Trung tâm từ điển học,
"thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người
phải tuân theo".
Khái niệm học thuật về thể chế (Institution) rất phong phú và đa dạng.
Khái niệm thể chế đầu tiên do tác giả Thorstein Veblen (1914) đưa ra, thể
chế là "tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc xác định hành vi trong
tình huống cụ thể, được các thành viên của một nhóm xã hội chấp thuận và
tuân thủ".
Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2002, cũng đưa ra khái niệm
thể chế là "Những quy tắc và tổ chức, gồm cả các chuẩn mực không chính
thức, phối hợp hành vi con người".
Theo Douglas C. North (1994), thể chế được định nghĩa là "những giới
hạn do con người đặt ra nhằm cơ cấu sự tương tác giữa con người với nhau.
Đó là tổng hợp những giới hạn chính thức (như nguyên tắc, luật lệ, hiến
pháp) và phi chính thức (ví dụ những quy phạm về hành vi, tục lệ, nguyên
tắc đạo đức) và những đặc điểm cưỡng chế của chúng". Một nhánh kinh tế
học đã xuất hiện đặt trọng tâm vào các thể chế, gọi là "Kinh tế học về thể
chế mới (New Institutional Economics - NIE)". Theo NIE, thể chế là "những
nguyên tắc của cuộc chơi" trong xã hội; không có chúng thì các thị trường
không hoạt động được.
Như vậy, với các khái niệm trên thể chế bao gồm hai thành phần là cấu
trúc
(structures)
và
cơ
chế
(mechanism).
Tuy nhiên, các khái niệm này chỉ mới liên quan đến "phần mềm". Thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội nói chung, người ta nhận thấy rằng "phần mềm" có
thể hoạt động tốt trong điều kiện vật chất này mà không hoạt động tốt trong
điều kiện vật chất khác. Các điều kiện vật chất chính là "phần cứng". Chính
vì vậy, thể chế phải bao gồm các điều kiện vật chất cụ thể tạo điều kiện để
"phần mềm" vận hành. Đây chính là "sân chơi" mà các chủ thể tham gia.
Các "luật chơi" và chủ thể tham gia "trò chơi" hình thành nên cấu trúc tổ
chức của thể chế và cấu trúc này được vận hành theo một cơ chế nhất định,
trong điều kiện vật chất nhất định. Như vậy, thể chế là cấu trúc tổ chức và
cơ chế vận hành của một hệ thống xã hội điều chỉnh hành vi của 2 hay
nhiều chủ thể khác nhau phù hợp với những điều kiện vật chất cụ thể.
Trong một hệ thống xã hội, người ta chia thể chế thành nhiều bộ phận
khác nhau như chính trị, kinh tế, gia đình, tôn giáo… Thể chế kinh tế
(economic institution) là thể chế liên quan hệ thống kinh tế (economic
system) của một xã hội. Như vậy, thể chế kinh tế là cấu trúc tổ chức và cơ
chế vận hành của hệ thống kinh tế điều chỉnh hành vi của 2 hay nhiều
chủ thể khác nhau phù hợp với điều kiện vật chất nhất định.
Thể chế kinh tế thị trường (market economic institution) hay còn gọi tắt là
thể
chế
thị
trường
(market
institution)
là thể chế kinh tế được hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị
trường.
Nếu xét theo mức độ can thiệp của Nhà nước vào thị trường thì người ta
chia thể chế thị trường thành 3 loại: thể chế thị trường tự do, thể chế thị
trường xã hội và thể chế thị trường nhà nước phát triển. Nếu xét theo đối
tượng tham gia thị trường, người ta chia thể chế thị trường thành 5 loại: thể
chế thị trường hàng hóa và dịch vụ (goods and services market institution),
thể chế thị trường bất động sản (real estate market institution), thể chế thị
trường tài chính (financial market institution), thể chế thị trường sức lao
động (labour market institution) và thể chế thị trường chuyển giao công nghệ
(technology transfer market institution).
II - Bối cảnh ra đời đường lối tiếp tục đổi mới
1. Tình hình quốc tế
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20, CNXH tạm
thời lâm vào thoái trào sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu,
“nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH” ( Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb, CTQG, H,
1996, Tr.76).
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình dodoj
ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã
hội. Quốc tế hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới đã và đang trở thành xu
hướng chủ đạo, cuốn hút nhiều quốc gia tham gia.
Bên cạnh đó, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn
cầu như ô nhiễm môi trường, nguy cơ bùng nổ dân số, ngăn ngừa và đẩy lùi
bệnh tật hiểm nghèo… để giải quyết các vấn đề trên đòi hỏi các quốc gia
phải cùng nhau hợp tác.
Khu vực châu Á- Thái Bình Dương đã và đang phát triển năng động
với tốc độ cao. Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể
gây mất ổn định.
Bối cảnh quốc tế nói trên có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới
của Việt Nam.
2. Tình hình trong nước
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tư tưởng chủ
quan, say sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội
trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với khuyết
điểm của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho tình
hình kinh tế- xã hội nước ta lúc bấy giờ rơi vào tình trạng khủng hoảng, trì
trệ. Việt Nam lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên
giới Tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra…
Trong bối cảnh đó, để đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng đó, vấn đề
có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản, cách nghĩ, cách làm.
Cuối những năm 70, ở một số địa phương bắt đầu có những tìm tòi, thử
nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề do
thực tiễn đặt ra.
Sau 10 năm đổi mới toàn diện (1986-1996), Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế- xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo
nhân dân, giữ vững ổn định chính trị; quốc phòng, an ninh được củng cố.
Đồng thời thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho
công cuộc CNH-HĐH đất nước.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng ta thực hiện đường lối ngoại giao rộng
mở, tích cực, năng động, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Đến năm 1996, nước ta có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ
buôn bán với trên 100 nước. Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân
tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bao vây, cấm vận, cải
thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhiệm vụ do Đại hội VII của Đảng đề ra cho 5 năm (1991-1995) đã
được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội,
những tiền đề cho công nghiệp hoá cơ bản được hoàn thành, cho phép
chuyển sang thời kỳ mới; đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Đất nước bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh có những đặc điểm nổi
bật là: Mặc dù CNXH trên thế giới bước vào thoái trào, nhưng tính chất quá
độ từ CNTB lên CNXH không thay đổi. Chiến tranh cục bộ, hoạt động can
thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi; cách mạng khoa học và công
nghệ thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội, song
chênh lệch giàu- nghèo ngày càng lớn. Các nước có chế độ chính trị- xã hội
khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình, độc lập tự
chủ chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài; các lực lượng cách mạng
kiên trì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nước
ta đang đứng trước thời cơ lớn được tạo ra do xu thế tích cực của thế giới,
nhưng trước hết là từ thành tựu của đổi mới đem lại. Tuy nhiên, những thách
thức lớn vẫn là bốn nguy cơ: Tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội
chủ nghĩa, tham nhũng quan liêu và “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch ( nguồn: PGS, TS Vũ Như Khôi- Đảng cộng sản Việt Nam với công
cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, tr.158).
Tình hình thế giới và thực tiễn đổi mới sinh động của đất nước đặt ra
cho Đảng ta những nhiệm vụ và bước đi mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng
Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28/6 đến ngày 1/7/1996 tại Hội trường
Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu
130 ngàn đảng viên trong cả nước. Đại hội với quyết tâm “ Tiếp tục sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH- HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
III- Nội dung đường lối đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị
1. Đổi mới thể chế kinh tế
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường
đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng làm rõ hơn định hướng
XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; tiếp tục
khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân,
mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc,
tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện CNH-HĐH
đất nước.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là:
“Hệ thống luật pháp, thể lệ, quy định,… của Nhà nước và các chủ thể
kinh tế tham gia thị trường được xây dựng, vận hành và hoạt động sao
cho vừa đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa đảm bảo thực hiện công
bằng xã hội ngày càng tốt hơn”. (nguồn: GS.TS. HOÀNG NGỌC HÒA:
Các mô hình thể chế thị trường và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam, tạp chí Cộng sản số 1(122) năm 2006)
Để tiếp tục chính sách phát triển các thành phần kinh tế, Đảng khẳng
định “phải nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần. Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối
đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho CNH- HĐH” ( nguồn: PGS,
TS Vũ Như Khôi- Đảng cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước
và hội nhập quốc tế, tr.160).
Đại hội VIII cũng khẳng định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo,
cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Mở rộng các hình
thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế
khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản
Nhà nước. Thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao
động nhưng không để biến thành quan hệ thống trị dẫn tới sự phân hoá xã
hội thành hai cực đối lập. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá
đói, giảm nghèo. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp
luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân, không phân biệt thành phần kinh tế.
Để quá trình đổi mới phát huy hiệu quả, Đảng đã đề ra một loạt các
chủ trương, chính sách cụ thể đó là phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước
để làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần
khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết và quản lý vĩ mô. Tập trung các nguồn lực phát triển các lĩnh
vực trọng yếu như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… Ngoài ra, để tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, trong những năm 1996-2000, tiếp tục đổi mới,
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong
đó, đẩy mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ, xây dựng thị trường vốn, từng
bước hình thành thị trường chứng khoán.
Trong 5 năm (1996-2000) nhiều đạo luật về kinh tế, xã hội được ban
hành đã thể chế, cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
hình thành về cơ bản khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần trong cơ chế thị trường. Xây dựng các chính sách tài chính, tiền
tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường.
Để thực hiện tốt các mục tiêu mà Đại hội VIII đề ra, trong các Hội
nghị BCH khoá VIII đã tiếp tục cụ thể hoá các nội dung nhằm đẩy mạnh
CNH- HĐH đất nước. Trong đó đáng chú ý nhất là Hội nghị lần thứ tư BCH
TƯ Đảng khoá VIII. Hội nghị đã xác định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là : ‘
Tiếp tục đẩy manh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh CNHHDDH, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ
với phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng XHCN. Nâng cao ý thức tự cường, giữ vững bản sắc
dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Bảo đảm an ninh quốc phòng
vững chắc. Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế- xã hội với cải cách bộ máy
nhà nước và hệ thống hành chính, xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của
thời kỳ mới”. ( Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện Hội nghị lần
thứ tư BCH TƯ Đảng khoá VIII, NXB, chính trị quốc gia, 1998, tr.54)
* Các Hội nghị Trung ương khoá XIII
Hội nghị Trung ương 2 khoá XIII (tháng 12-1996)nhấn mạnh hơn vai
trò quốc sách hang đầu của phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ; Đảng khẳng định việc phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế- xã hội, với những tiến bộ của khoa học công nghệ; coi
khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế- xã hội, là điều kiện để giữ
vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH.
Hội nghị Trung ương 3 khoá XIII (tháng 6-1997) tập trung giải quyết vấn đề
tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững
mạnh để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Lần đầu tiên trong
quá trình đổi mới, Hội nghị đã ra Nghị quyết về chiến lược cán bộ trong thời
kỳ CNH-HĐH; chỉ ra 5 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ và xác định
tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới. Một trong những chủ trương và giải
pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan
trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội,
giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt
động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó,
Chính phủ ban hành các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Hội nghị Trung ương 5 khoá XIII (tháng 7-1998) đã đề cập một cách toàn
diện những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá XIII
(tháng 10-1998) quyết định mở cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng
trong hai năm 1999-2001; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan
lieu; chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.
2. Đổi mới thể chế chính trị
Chính trị là loại hoạt động đặc biệt quan trọng của đời sống, quan hệ
đến lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thể chế chính trị là
bộ phận cấu thành của chính trị. Trong một chế độ xã hội, thể chế chính trị
tác động trực tiếp đến đời sống của mọi người dân. Nó là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn đối với sự tiến bộ xã hội.
Ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với những điều kiện kinh tế - xã
hội đặc trưng sẽ có một thể chế chính trị tương ứng, phù hợp với nó. Thể chế
chính trị sẽ bộc lộ những bất cập, sự bảo thủ, lạc hậu, thậm chí là phản động
khi nó không phát triển kịp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Ngược
lại, nếu luôn được đổi mới và được xây dựng nên bởi một giai cấp tiến bộ,
thì thể chế chính trị ấy sẽ trở thành động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
Trong cải cách thể chế chính trị, đặc trưng bao trùm và nổi bật là dân
chủ hóa, xây dựng nền dân chủ, bảo đảm dân chủ của cá nhân phù hợp và
đồng thuận với dân chủ của cả cộng đồng xã hội, tăng cường pháp luật, pháp
chế, kỷ cương trong khuôn khổ Nhà nước pháp quyền, nâng cao vai trò của
xã hội dân sự trong đời sống xã hội.
Phương hướng chung, lâu dài cũng như trước mắt cải cách thể chế
chính trị ở Việt Nam là hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ, bảo đảm
dân chủ và phát huy quyền làm chủ của mọi người dân; nâng cao năng lực
lãnh đạo và cầm quyền của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa
và hội nhập quốc tế; xây dựng một Nhà nước pháp quyền mạnh, có thực lực
và thực quyền trong quản lý kinh tế và điều hành xã hội; đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ công chức hiện đại với các tiêu chí: thành thạo chuyên môn, nghiệp
vụ, đề cao trách nhiệm xã hội và đạo đức công chức, tăng cường kỷ luật
công vụ; xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, đẩy mạnh cải cách
hành chính để có một nền hành chính công minh bạch, đáp ứng yêu cầu của
xã hội và dân cư. Cùng với những điều nói trên cần phải đẩy mạnh giáo dục
ý thức trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội, thực hiện đoàn
kết dân tộc và đồng thuận xã hội cùng hướng vào mục tiêu phát triển. Mục
tiêu đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã
được khẳng định trong các văn kiện chính trị của Đảng.
Nếu trước đổi mới, tình trạng Đảng bao biện, làm thay công việc của
Nhà nước là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho bộ máy Nhà
nước trở nên trì trệ, xơ cứng, hoạt động kém hiệu quả, thì khi bước vào thời
kỳ đổi mới quan niệm về Đảng cầm quyền, về vị trí, vai trò của Đảng, Nhà
nước; về mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước trong hệ thống chính trị đã
từng bước được nhận thức lại với những quan điểm đổi mới hết sức căn bản.
Nhờ đó, tình trạng Đảng bao biện, làm thay công việc Nhà nước đã dần được
khắc phục ở mọi cấp, mọi ngành. Vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước
cũng dần được phát huy. Nhiều bộ luật được ban hành trong giai đoạn này
không chỉ thể hiện sự cố gắng của cơ qquan lập pháp mà nó còn góp phần
quan trọng vào việc tạo cơ sở hành lang pháp lý, bảo đảm dân chủ, lấy lại
niềm tin của nhân dân, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với sự
nghiệp đổi mới kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
Với vai trò là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống chính trị, Đảng đã có
nhiều chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, bảo đảm
cho Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều đó, thể hiện
khá rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) khoá VIII. Đảng đã
nhận thức rõ những yếu kém của mình để tự chỉnh đốn: “Trước yêu cầu đổi
mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một
số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan
liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển
nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không
nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi
mới”.1
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá
VIII), đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành
cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ
thống
chính
trị.
Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã đi đến
khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ
các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách
hành chính trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành
chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng
không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi
mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp.
Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến
hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị
gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ
chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính
sách tiền lương.
Để chính đốn và tự hoàn thiện mình, Đảng đã đề ra các nhiệm vụ sau:
- Tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động,
kiên trì đấu tranh đẩy lùi bốn nguy cơ, đảng viên phải nói và làm theo Nghị
1
Các nghị quyết của TƯ Đảng 1996-1999, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000.
quyết, thực hiện đúng cương lĩnh, điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước, kiên
định các lập trường đã được xác định.
- Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm rõ
hơn những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra, làm rõ hơn mô hình và con
đường đi lên CNXH ở nước ta.
- Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về CN Mác- Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng. Pháp luật của
Nhà nước.
- Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên
- Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có
hiệu quả.
- Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê
bình trong Đảng.
- Củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ
chức cơ sở Đảng.
- Sắp xếp lại tổ chức, bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị
gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh, gọn, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Từ nay đến Đại hội IX, kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy
các tổ chức trong hệ thống chính trị, giảm biên chế ở các cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan đảng, đoàn thể. Có chế độ, chính sách hợp lý để thực hiện
yêu cầu giảm biên chế, cải tiến chính sách tiền lương…. ( nguồn: Các nghị
quyết của TƯ Đảng 1996-1999, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000).
Chính phủ và các cơ quan hành chính Nhà nước đã được đổi mới về
chức năng, cơ cấu tổ chức bộ máy gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế. Có sự phân biệt, tách dần chức năng quản lý hành chính Nhà
nước với quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, Chính phủ
và các bộ, ngành tập trung nhiều hơn vào hoạt động xây dựng chính sách,
chỉ đạo chính quyền và các cấp xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và từng ngành, từng vùng lãnh thổ;
giảm bớt sự can thiệp vào quá trình sản xuất, kinh doanh ở những nội dung
không đúng chức năng, thẩm quyền.
Việc đổi mới mạnh mẽ cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của
Chính phủ đã góp phần nâng cao chất lượng bộ máy, giảm bớt sự ôm đồm,
can thiệp vào quá trình sản xuất, kinh doanh, phát huy tính tích cực, chủ
động, năng động, sáng tạo của các cơ quan, đơn vị cơ sở. Các cơ quan bảo
vệ pháp luật cũng đã được kiện toàn và đổi mới về tổ chức hoạt động, về
phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm, giải quyết các tranh chấp dân sự,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Song song với sự đổi mới của Đảng, Chính phủ, vai trò của Quốc hội
trong việc giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước được
tăng cường. Phương thức hoạt động của Quốc hội ngày càng dân chủ hơn,
tăng cường thảo luận, tranh luận thẳng thắn, thiết thực; mở rộng chất vấn và
trả lời chất vấn; tăng cường lắng nghe và tiếp xúc cử tri. .. Nhiều bộ luật
quan trọng và rất mới đối với nước ta lần lượt ra đời như Luật Đầu tư nước
ngoài, luật thuế thu nhập… Việc đẩy mạnh cải cách hệ thống luật pháp và
xây dựng các bộ luật mới đã góp phần quan trọng vào việc tạo hành lang
pháp lý cho cuộc sống, tăng cường quản lý xã hội, định hướng cho sự nghiệp
đổi mới đi đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị- xã hội
cũng từng bước đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Nhiều hội,
đoàn hợp pháp theo nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của các tầng lớp khác
nhau, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được thành lập.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy. Các
tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp
đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Trong tiến trình cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam, những đặc
điểm và tình hình sau đây là rất đáng lưu ý:
Thứ nhất, chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam là chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ý thức hệ ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
phấn đấu cho lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, mô hình thể chế chính trị ở Việt Nam là nhất nguyên chứ không
phải là đa nguyên chính trị.
Thứ ba, ở Việt Nam không có chế độ đa đảng, không có đảng đối lập. Đảng
cầm quyền và duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản. Trong điều kiện một
Đảng duy nhất cầm quyền, để bảo đảm dân chủ, phát huy quyền tự do dân
chủ và làm chủ của mọi người dân, bảo đảm cho Nhà nước và các tổ chức
đoàn thể do Đảng lãnh đạo thực sự có vai trò và tác dụng, luôn đặt ra như
một vấn đề thời sự và phải không ngừng tìm tòi các giải pháp đổi mới để
giải quyết vấn đề này, trước hết thuộc về trách nhiệm của Đảng đối với toàn
xã hội, đồng thời phải có một Nhà nước mạnh với pháp luật được coi là tối
thượng. Phân định rõ mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước theo chức năng -
nhiệm vụ, thẩm quyền - trách nhiệm là một trong những vấn đề cốt yếu nhất
trong lý luận thể chế và thực tiễn cải cách thể chế.
Thứ tư, Nhà nước ở Việt Nam cũng như nhà nước của các nước trên thế
giới, trong cơ cấu tổ chức có lập pháp, hành pháp và tư pháp. Song cơ quan
lập pháp ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình một viện là Quốc hội chứ
không phải "lưỡng viện" như nhiều nước khác (Thượng viện và Hạ viện).
Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền nhưng không theo cơ chế tam
quyền phân lập mà quyền lực tập trung thống nhất, thuộc về nhân dân. Các
cơ quan nhà nước hoạt động theo cơ chế phân công phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ. Có phân công và phân quyền nhưng phải bảo đảm quyền lực là
thống nhất, không phân chia quyền lực. Theo đó, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo
Nhà nước để bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, trong cơ cấu hệ thống chính trị Việt Nam, ngoài Đảng, Nhà nước
còn có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (trước đây là Mặt trận dân tộc thống
nhất) với tư cách là một liên minh chính trị rộng lớn bao gồm nhiều tổ chức
thành viên.
Thứ sáu, cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam trong đổi mới nổi lên một
nhiệm vụ bức xúc, gay gắt là đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Tình
trạng này ở Việt Nam là khá trầm trọng và phổ biến, đã trở thành quốc nạn.
Đây là nguy cơ đối với sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ. Đây
cũng là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam trong hội nhập
quốc tế, trong bối cảnh và xu thế toàn cầu hóa. ( nguồn: Hoàng Chí Bảo,
GS,
TS.
Hội
đồng
Lý
ương, />Object=4&news_ID=12960632).
luận
Trung
IV- Bài học kinh nghiệm về đổi mới
“Có bốn kinh nghiệm quan trọng mà thế giới đúc kết ở các quốc gia
tiến hành đổi mới kinh tế. Riêng ở VN có một bài học chí lý khác. Tôi xin nói
về bài học riêng đó của VN trước. Đó là bài học lòng dân. Nhìn lại động
thái của giới lãnh đạo như sự linh hoạt các chính sách, cơ chế; chấp nhận
những hành vi thử nghiệm, tự sáng tạo hay để cơ sở tự tìm tòi... trong thời
kỳ trước và trong đổi mới cho thấy Đảng và Nhà nước VN đã tiến hành công
trình này vì quyền lợi người dân, chấp nhận và rất lắng nghe ý kiến, kể cả
trái ngược từ quần chúng. Điều này làm các DN, địa phương tin vào nhà
cầm quyền và dám xông pha thử thách tìm tòi. Mặt khác, với động cơ trên,
Nhà nước có thể lựa chọn những sáng kiến, điển hình ưu việt nhất để nghiên
cứu và nhân rộng”. ( nguồn: Giáo sư Martin Gainsborough (ĐH Bristol Anh), cố vấn cao cấp của dự án đồng thời là người có nhiều năm nghiên
cứu về đổi mới kinh tế ở VN đánh giá).
Sau hơn 10 năm đổi mới, mặc dù đó là khoảng thời gian cách mạng
Việt Nam luôn phải đối mặt với những khó khăn, thử thách lớn, song công
cuộc đổi mới ở nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất
quan trọng. Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm, Đại hội lần thứ VIII của
Đảng rút ra 6 bài học chủ yếu:
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi
mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, kiên trì
Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ khi có
Đảng. Chính nhờ nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật đó, cách mạng
Việt Nam đã liên tục giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toy nhiên
sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong các thời kỳ lịch
sử có nội dung không hoàn toàn giống nhau.
Là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu
sắc rằng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc
cho độc lập dân tộc. Bởi vậy, ngay từ đầu và trong suốt quá trình đổi mới,
Đảng ta luôn xác định, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy
bằng những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp. Đổi mới phải trên cơ
sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và những
kinh nghiệm cách mạng đã đạt được, nghiêm túc phê phán sai lầm, khuyết
điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không phủ nhận sạch
trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này
chuyển sang thái cực khác. Đổi mới không phải là xa ròi chủ nghĩa Mác và
tư tưởng Hồ Chí Minh mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát
triển học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và của cách mạng nước ta.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản, có mối quan hệ biện chứng, tác
động lẫn nhau. Giải quyết đúng dắn mỗi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị không chỉ là vẫn đề then chốt mà còn là nghệ thuật lãnh đạo,
chỉ đạo của các đảng Cộng sản, có ý nghĩa quyết định sự thành bại trong quá
trình cải cách, cải tổ và đổi mới ở các nước XHCN.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối
ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song,
Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ đổi mới kinh tế, đưa đất nước từng bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã
hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định về
chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi
mới các mặt khác của đời sống xã hội.
Đồng thời với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và cơ chế
hoạt động của hệ thống chính trị. Toy nhiên, đây là lĩnh vực phức tạp và cực
kỳ nhạy cảm, đụng chạm đến mọi mối quan hệ trong xã hội. Bởi vậy, việc
đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị nhất thiết phải
tiến hành từng bước, vội vàng, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn,
tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới. Ngược lại,
chậm chạp trong việc đổi mới hệ thống chính trị sẽ cản trở sự nghiệp phát
triển kinh tế cũng như toàn bộ công cuộc đổi mới. Với nhận thức và quan
điểm chỉ đạo đúng đắn đó, Đảng ta đã đi những bước thận trọng và chắc
chắn. Bắt đầu từ việc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm cho Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa thực hiện
được vai trò “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy; đồng thời từng bước tăng
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước cũng như phát huy vai trò, tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của các đoàn thể nhân dân; mở rộng dân chủ, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Song, nhất thiết dân chủ
phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, dân chủ phải có lãnh đạo, không chấp
nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, kiên quyết xử lý mọi biểu hiện,
hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân cũng như mưu toan lợi
dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá hoặc can thiệp vào công việc
nội bộ của nước ta.