Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

NGHIÊN CỨU NGUYÊN NHÂN, MỨC ĐỘ GÂY HẠI BỆNH THỐI NHŨNG HOA LAN DENDROBIUM SPP. Ở HUYỆN BÌNH CHÁNH TP.HỒ CHÍ MINH VÀ HIỆU QUẢ PHÒNG TRỪ CHÚNG BẰNG MỘT SỐ THUỐC HÓA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.94 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH

LA QUỐC VIỆT

NGHIÊN CỨU NGUYÊN NHÂN, MỨC ĐỘ GÂY HẠI BỆNH
THỐI NHŨNG HOA LAN DENDROBIUM SPP. Ở HUYỆN
BÌNH CHÁNH TP.HỒ CHÍ MINH VÀ HIỆU QUẢ PHÒNG
TRỪ CHÚNG BẰNG MỘT SỐ
THUỐC HÓA HỌC

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CẢNH QUAN & KỸ THUẬT HOA VIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 7/2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH

LA QUỐC VIỆT

NGHIÊN CỨU NGUYÊN NHÂN, MỨC ĐỘ GÂY HẠI BỆNH
THỐI NHŨNG HOA LAN GIỐNG DENDROBIUM Ở HUYỆN
BÌNH CHÁNH TP.HỒ CHÍ MINH VÀ HIỆU QUẢ PHÒNG
TRỪ CHÚNG BẰNG MỘT SỐ
THUỐC HÓA HỌC

Ngành: Cảnh Quan & Kỹ Thuật Hoa Viên


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN THỊ CHẮT
KS VƯƠNG THỊ THỦY

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 7/2009

i


MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING
NONG LAM UNIVERSITY – HO CHI MINH CITY

LA QUOC VIET

RESEARCHING THE CAUTION, INFESTING THE BUDS
OF DENDROBIUM SPP. AT BINH CHANH DISTRICT- HO
CHI MINH CITY AND EFFECTING OF MANAGEMENT
PRACTICES ITS BY SOMEINSECTISIDES

Department of Landscaping and Environmental Horticulture

GRADUATION THESIS

Advisor : Dr. NGUYEN THI CHAT
Er. VUONG THI THUY

Ho Chi Minh City
July – 2009


ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp cuối khóa, tôi chân thành cảm ơn tới:
Gia đình và người thân đã nuôi dưỡng và tạo mọi điều kiện cho tôi trong
những năm học đại học.
Ban Giám Hiệu Trường Đại học Nông Lâm Tp.Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
cho tôi học tập và rèn luyện trong 4 năm học qua.
Tiến sĩ Đinh Quang Diệp trưởng bộ môn Cảnh Quan và Kỹ thuật Hoa Viên
và toàn thể các thầy cô bộ môn Cảnh quan và Kỹ thuật Hoa Viên đã tận tình giảng
dạy và giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập.
Toàn thể quí thầy cô trường Đại Học Nông Lâm Tp.Hồ Chí Minh.
PGS.TS Nguyễn Thị Chắt và Ks.Vương Thị Thủy đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Trung tâm khuyến nông huyện Bình Chánh,
những hộ trồng lan giống Dendrobium ở các xã Tân Kiên, Bình Chánh, An Phú
Tây và Tân Quý Tây của huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tận tình
và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Đại Học Nông Lâm – Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 07/2009

iii


TÓM TẮT
Đề tài “Nghiên cứu nguyên nhân, mức độ gây hại bệnh thối nhũng hoa lan
Dendrobium spp. ở huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh và khảo sát hiệu quả phòng
trừ chúng bằng một số thuốc hóa học” được tiến hành tại huyện Bình Chánh Tp.Hồ

Chí Minh, thời gian thực hiện đề tài từ 15/02/2009 đến 15/07/2009.
Kết quả thu được:
Qua 20 phiếu điều tra đã ghi nhận diện tích trồng lan tập trung từ 150 m2 –
500 m2. Các thâm niên trồng lan chưa lâu từ 1 – 4 năm, đa số hộ trồng lan bằng xơ
dừa, các hộ phun thuốc 1 – 4 lần\tháng.
Nguyên nhân gây thối nhũng hoa trên giống lan Dendrobium là nuỗi
Contarinia maculipennis Felt (bộ hai cánh: Diptera; họ muỗi năn: Cecidomyiidae).
Ấu trùng dạng giòi không chân. Nhộng là nhộng trần, thành trùng có 1 cặp cánh dài
gấp 1 – 2 lần cơ thể, trên cánh có hoa văn.
Mức độ gây hại của muỗi Contarinia maculipennis Felt trên giống lan
Dendrobium tại huyện Bình Chánh, điều tra theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên trên líp.
Và đã ghi nhận mức độ hại đối với phát hoa và hoa cao nhất ở hộ ông Hải là
64,48% và 21,02%; thấp nhất ở hộ ông Nhật là 49,11% và 9,85%.
Hiệu quả phòng trừ ấu trùng muỗi Contarinia maculipennis Felt của một số
thuốc hóa học được bố trí thí nghiệm theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 5
nghiệm thức (Marsahl 200SC, Fastac 5EC, Vifuran 3G, Vibam 5H và đối chứng)
với 3 lần lặp lại trên giống lan Dendrobium. Kết quả xử lí thuốc cho thấy các loại
thuốc có hiệu quả rất thấp.

iv


SUMMARY
The thesis “Researching the caution, infesting the buds of Dendrobium spp.
at Binh Chanh district, Ho Chi Minh City and effecting of management practice its
by some insecticides” has been carried out Binh Chanh district, Ho Chi Minh City
from 15/02/2009 to 15/07/2009.
The results:
There were 20 questionaires that were recorded, included: area of
greenhouses concentrated from 150 to 500 square meters, greenhouses had seniority

from one to four years, maiority of greenhouses grew with form flower beds under
land, greenhouses spray chemicals periodic: from once to fourth a month.
The caution of infestion the flower buds of Dendrobium has been Contarinia
maculipennis Felt (Diptera: Cecidomyiidae). Blossom midges are maggots. Pupues
are naked starks, the adult has a single pair of spotted wings about one to two times
as long as its body.
Infesting of Contarinia maculipennis Felt on Dendrobium orchids at Binh
Chanh district, investigation has been completely randomized on the beds. And that
has been presented in greenhouse’s Hai on the blossoms and flower buds, were the
highest: 64,48% and 21,02 % ; blossoms and flower buds of greenhouses’Nhat were
the shortest: 49,11 and 9,85 %.
Effecting of management practice Contarinia maculipennis Felt by some
insecticides has been arranged experiment to follow capacity completely
randomized design, included five treaments (Marsahl 200SC, Fastac 5EC, Vifuran
3G, Vibam 5H and control) with 3 replications on Dendrobium orchids. The result
of treaments have been that: all insecticides were very low effection.

v


MỤC LỤC
TRANG
Trang tựa

i

Trang tựa tiếng Anh

ii


Lời cảm ơn

iii

Tóm tắt

iv

Sumarry

v

Mục lục

vi

Danh sách các bảng

ix

Danh sách các hình

x

Danh sách các sơ đồ, biểu đồ.

xi

1. MỞ ĐẦU


1

1.1. Đặt vấn đề.

1

1.2. Mục đích và nội dung.

2

1.2.1. Mục đích.

2

1.2.2. Nội dung.

2

1.3. Giới hạn đề tài.

2

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

2.1. Khái quát về cây lan Dendrobium spp.

3


2.1.1. Nguồn gốc và phân bố.

3

2.1.2. Đặc điểm thực vật học.

4

2.1.3. Giá trị cảnh quan và kinh tế của phong lan.

6

vi


2.2. Sự phát triển phong lan ở Thành phố Hồ Chí Minh.

7

2.2.1. Sự phát triển ngành trồng phong lan.

7

2.2.2. Mức độ phát triển giống Dendrobium ở Thành phố Hồ Chí Minh.

8

2.3. Một số sâu hại chính trên phong lan.

9


2.3.1. Nghiên cứu nước ngoài về sâu hại phong lan.

9

2.3.2. Nghiên cứu trong nước về sâu hại phong lan.

12

2.4. Muỗi hại phong lan Dendrobium spp.

13

2.4.1. Nghiên cứu nước ngoài.

13

2.4.2. Nghiên cứu trong nước.

16

2.5. Một số đặc điểm sử dụng các loại thuốc hóa học dùng trong thí
nghiệm.

17

2.5.1. Thuốc Marsahl 200SC

17


2.5.2. Thuốc Fastac 5EC

17

2.5.3. Thuốc Vifuran 3G

17

2.5.4. Thuốc Vibam 5H

18

3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

19

3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu.

19

3.2. Đặc điểm thời tiết khí hậu nơi nghiên cứu.

19

3.3. Nội dung nghiên cứu.

21

3.4. Phương pháp nghiên cứu.


21

3.4.1. Vật liệu nghiên cứu.

21

3.4.2. Phương pháp thực hiện.

21

3.4.2.1. Hiện trạng trồng giống lan Dendrobium ở huyện Bình Chánh
Tp.Hồ Chí Minh.

21

vii


3.4.2.2. Xác định đối tượng và điều tra mức độ gây hại đối với giống lan
Dendrobium ở huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh.

22

3.4.2.3. Khảo sát hiệu quả phòng trừ của một số loại thuốc hóa học đối với
muỗi đục hoa lan giống Dendrobium.

23

3.4.3. Cách xử lí thuốc.


24

3.5. Xử lí số liệu

25

4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

26

4.1. Hiện trạng trồng giống lan Dendrobium ở Bình Chánh Tp.Hồ Chí
Minh.

26

4.2. Đối tượng và mức độ gây thối những hoa đối với giống lan
Dendrobium ở huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh.

30

4.2.1. Đối tượng gây thối những hoa đối với giống lan Dendrobium.

30

4.2.2. Mức độ gây thối nhũng hoa đối với giống lan Dendrobium.

35

4.3. Hiệu quả phòng trừ của một số thuốc hóa học đối với muỗi đục hoa
giống lan Dendrobium.


42

5. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

46

5.1. Kết luận

46

5.2. Kiến nghị

47

TÀI LIỆU THAM KHẢO

48

PHỤ LỤC

49

viii


DANH SÁCH CÁC BẢNG

BẢNG


TRANG

Bảng 4.1 Một số thông tin chung về các hộ trồng giống lan Dendrobium
ở huyện Bình Chánh, 2009

26

Bảng 4.2 Kỹ thuật trồng và chăm sóc giống lan Dendrobium ở huyện
Bình Chánh, 2009

27

Bảng 4.3 Sâu bệnh hại và công tác bảo vệ thực vật ở các hộ trồng giống
lan Dendrobium ở huyện Bình Chánh, 2009

29

Bảng 4.4 Mức độ giống lan Dendrobium bị muỗi gây hại nụ (hoa) tại hộ
Nguyễn Văn Sinh ở xã Tân Kiên huyện Bình Chánh, 2009

37

Bảng 4.5 Mức độ giống lan Dendrobium bị muỗi gây hại nụ (hoa) tại hộ
Đinh Đông Nhật ở xã An Phú Tây huyện Bình Chánh, 2009

38

Bảng 4.6 Mức độ giống lan Dendrobium bị muỗi gây hại hoa (nụ) tại hộ
Hồ Hồng Hải ở xã Bình Chánh huyện Bình Chánh,2009


39

Bảng 4.7 Kết quả xử lí thống kê hiệu lực của một số thuốc hóa học
trong khảo sát hiệu quả phòng trừ muỗi Contarinia maculipennis Felt
gây thối nhũng trên phát hoa giống lan Dendrobium ở Bình Chánh,
2009

43

Bảng 4.8 Kết quả xử lí thống kê hiệu lực của một số thuốc hóa học
trong khảo sát hiệu quả phòng trừ muỗi Contarinia maculipennis Felt
gây thối nhũng trên hoa (nụ) trên giống lan Dendrobium ở Bình Chánh,
2009

44

ix


DANH SÁCH CÁC HÌNH

HÌNH

TRANG

Hình 2.1 Rễ lan Dendrobium spp.

5

Hình 2.2 Thân lan Dendrobium spp.


5

Hình 2.3 Lá lan Dendrobium spp.

5

Hình 2.4 Hoa lan Dendrobium spp.

5

Hình 2.5 Quả lan Dendrobium spp.

5

Hình 2.6 Hạt lan Dendrobium spp.

5

Hình 4.1 Triệu chứng gây thối nhũng trên giống lan Dendrobium và
Mokara

31

Hình 4.2 Ấu trùng của muỗi Contarinia maculipennis Felt

32

Hình 4.3 Ấu trùng tuổi lớn và đốt bụng thứ 8 của nó


32

Hình 4.4 Các giai đoạn phát triển của nhộng

33

Hình 4.5 Thành trùng muỗi Contarinia maculipennis Felt

34

Hình 4.6 Râu đầu và đốt râu đầu của con đực

35

Hình 4.7 Râu đầu và đốt râu đầu của con cái

35

Hình 4.8 Hộ nhà ông Nhật

36

Hình 4.9 Hộ nhà ông Sinh

36

Hình 4.10 Bố trí thí nghiệm

42


Hình 4.11 Giới hạn nghiệm thức

42

x


DANH SÁCH CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

TRANG

SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 3.1 Bố trí thí nghiệm xử lí thuốc phòng trừ muỗi đục hoa lan
Dendrobium spp.

23

Biểu đồ 3.1 Nhiệt độ và độ ẩm trung bình trong các tháng nghiên cứu ở
huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh

20

Biểu đồ 3.2 Lượng mưa của các tháng nghiên cứu ở huyện Bình Chánh
Tp.Hồ Chí Minh, 2009

20

Biểu đồ 4.1 Mức độ phát hoa bị hại ở 3 hộ trồng giống lan Dendrobium ở
huyện Bình Chánh, 2009


40

Biểu đồ 4.2 Mức độ hoa bị hại ở 3 hộ trồng giống lan Dendrobium ở huyện
Bình Chánh, 2009

41

xi


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố phát triển và năng
động nhất cả nước. Ở thành phố này, quá trình đô thị hóa diễn ra rất nhanh nhất là
những vùng ven, ngoại thành. Chính vì lẽ đó, diện tích đất nông nghiệp ngày càng
thu hẹp để nhường chổ cho những khu công nghiệp, những khu chế xuất, nhà máy,
xí nghiệp…dẫn đến môi trường càng ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng và lao động
nông thôn ở những vùng ven, ngoại thành không có việc làm nhất là những người
nông dân ngày xưa gắn với ruộng đồng và những người lao động không có tay
nghề. Để giải quyết một phần vấn đề trên, Thành phố đưa ra chương trình phát triển
hoa lan cây kiểng với mục đích để nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn
ngoại thành, góp phần cải thiện môi trường, giải quyết việc làm cho lao động nhàn
rỗi ở nông thôn, xóa đói giảm nghèo nhờ tận dụng diện tích đất nhỏ hẹp còn lại
quanh nhà. Thêm vào đó là nhu cầu giải trí, thưởng thức hoa lan cây kiểng sau
những giờ hay những ngày làm việc căng thẳng. Trong các giống lan được chọn
trồng thì giống Mokara và Dendrobium là hai giống chính. Trồng hai giống này, sử
dụng chủ yếu là cắt cành. Chúng tương đối dễ trồng, kỹ thuật sóc không đòi hỏi quá
cao nhưng mang lại hiệu quả kinh tế.
Lan Dendrobium spp. thường bị các loài sâu như: bọ trĩ, rệp, nhện đỏ…gây

hại và cũng thường bị bệnh đốm lá, thối đọt non, thối giả hành, đốm hồng ở gốc….
Trong những năm gần đây, trên giống lan Dendrobium bị một loài sâu gây hại.
Chúng làm cho hoa bị thối nhũng, phát hoa không phát triển bình thường, bị cong
queo lại, hoa thì không phát triển, bị dị dạng. Chúng đã gây thiệt hại rất lớn cho

1


những nhà vườn trồng giống lan Dendrobium. Nhiều nhà vườn quan sát và cho rằng
nguyên nhân gây hại là ruồi vàng, một số nhà vườn khác miêu tả chúng giống con
ruồi, tò vò…Phần lớn nhà vườn phòng trị chúng bằng thuốc trừ sâu với khoảng cách
5 – 7 ngày/lần. Tuy nhiên, theo họ hiệu quả phun thuốc trừ sâu không cao và họ chỉ
phun ngừa là chính. Thực chất loài sâu hại gây bệnh thối nhũng hoa trên giống lan
Dendrobium là gì? Đây là câu hỏi lớn mà nhiều năm qua vẫn chưa có câu trả lời.
Trước những bức xúc và mong đợi của những nhà vườn trồng lan mong sớm tìm ra
nguyên nhân để có biện pháp phòng trừ hợp lí. Vì vậy được sự đồng ý của bộ môn
Cảnh quan & kỹ thuật hoa viên và sự hỗ trợ của bộ môn Bảo vệ thực vật, trường
Đại Học Nông Lâm Tp.Hồ Chí Minh chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu nguyên nhân, mức độ gây hại bệnh thối nhũng hoa lan Dendrobium spp. ở
huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh và hiệu quả phòng trừ chúng bằng một số
loại thuốc hóa học.”
1.2 Mục đích và nội dung
1.2 1 Mục đích
Đề tài tiến hành nhằm mục đích nghiên cứu nguyên nhân, mức độ gây hại
bệnh thối nhũng hoa lan Dendrobium spp. ở huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh và
hiệu quả phòng trừ chúng bằng một số thuốc hóa học.
1.2.2 Nội dung nghiên cứu
Điều tra hiện trạng trồng giống lan Dendrobium ở huyện Bình Chánh Tp.Hồ
Chí Minh.
Xác định đối tượng và điều tra mức độ gây thối nhũng hoa đối với giống lan

Dendrobium ở huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh.
Khảo sát hiệu quả phòng trừ của một số thuốc hóa học đối với muỗi đục hoa
giống lan Dendrobium.
1.3 Giới hạn đề tài
Đề tài chỉ được thực hiện trên giống lan Dendrobium, trong thời gian từ
tháng 15/02/2009 đến tháng 15/07/2009 tại huyện Bình Chánh Tp.Hồ Chí Minh.

2


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Khái quát về cây lan Dendrobium spp.
2.1.1 Nguồn gốc và phân bố
Dendrobium là giống phụ sinh, sống trên cây gỗ. Có người gọi chúng là
Hoàng Lan hay Đăng lan.
Dendrobium là giống lan có rất nhiều loài, có trên 1.600 loài và đã được lai
tạo thêm rất nhiều loài mới. Giống lan Dendrobium mọc nhiều nhất ở vùng Đông
Nam Á, do quá đa dạng nên tập trung lại thành 2 dạng chính: dạng đứng
(Dendrobium Phalaenopsis) và dạng thòng (Dendrobium Nobile). Loại Dendrobium
(Phalaenopsis) thường mọc ở xứ nóng, chịu ẩm và rất siêng hoa, nên ở Tp.Hồ Chí
Minh trồng rất nhiều loại này. Loại Dendrobium Nobile thì chịu khí hậu mát mẻ ở
vùng đồi núi cao như Đà Lạt – Lâm Đồng vv...
Lan rừng Việt Nam:
Lan rừng Việt Nam chia ra nhiều nhóm. Nhóm có giả hành rất dài, to, đứng
thẳng như lan Thái Bình (Dendrobium Pulchellum), nhóm có giả hành dài thòng
xuống như Long Tu (D. Primilium), nhóm có giả hành to ngắn như Kim Điệp (D.
Chrysotosum), Thuỷ Tiên (D. Farmeri) Vảy Cá (D. Lindleyi)...
Lan Dendrobium ngoại.
Theo Huỳnh Văn Thới, 2000 ở Tp.Hồ Chí Minh nhập rất nhiều lan

Dendrobium được mang từ Thái lan, Úc về trồng vì phát hoa dài cho rất nhiều hoa,
màu sắc đẹp lại lâu tàn. Các loại lan Dendrobium nhập đã được lai tạo thuần hoá
nên có hoa quanh năm, không có mùa nghỉ. Chúng thường được trồng vào chậu đất
nung có nhiều lỗ chung quanh, giá thể gồm than, gạch, xơ dừa, dớn, vỏ cây vv... Ở
Thái Lan chuyên trồng Dendrobium spp. để cắt cành, trồng đại trà thành từng luống

3


ở dưới đất. Ngày nay, Ở Tp.Hồ Chí Minh cũng có nhiều vườn lan chuyên trồng
Dendrobium spp để cắt cành. Giống lan Dendrobium được nhập từ Thái lan thì rất
siêng hoa, mỗi phát hoa có từ 15 hoa trở lên, một giả hành có thể luân phiên ra từ 5
– 10 phát hoa.
2.1.2 Đặc điểm thực vật học
Theo trung tâm khuyến Nông Ngư quốc gia, 2009. Lan Dendro có tên khoa
học là Dendrobium thuộc họ phong lan Orchidaceae, bộ phong lan Orchidales, lớp
một lá mầm Monocoty – ledoneac.
Rễ lan: Lan là họ sống phụ (bì sinh) bám, treo lơ lửng trên các cây thân gỗ
khác. Các dạng thân gỗ nạc dài, ngắn, mập hay mảnh mai đưa cơ thể bò đi xa hay
chụm lại thành các bụi dày. Rễ làm nhiệm vụ hấp thu chất dinh dưỡng, chúng được
bao bởi lớp mô hút dày, ẩm bao gồm những lớp tế bào chết chứa đầy không khí, do
đó nó ánh lên màu xám bạc. Với lớp mô xốp, rễ có khả năng hấp thu nước mưa
chảy dọc dài trên vỏ cây, lấy nước lơ lửng trong không khí. (hình 2.1)
Thân cây lan: Giống lan Dendrobium thuộc loại đa thân, mọc bụi, giả hành
thường rất dài, hình trụ, có hai hàng lá mọc hai bên giả hành. Giả hành là bộ phận
dự trữ nước và các chất dinh dưỡng để nuôi cây trong điều kiện khô hạn khi sống
bám trên cao. (hình 2.2)
Lá lan: Lá lan giống Dendrobium thường có hình xoan dẹp. (hình 2.3)
Hoa lan: Hoa phong lan giống Dendrobium có 3 đài (sepal), 3 cánh (petal),
trong đó cánh thứ 3 to lớn, biến thành môi (líp), 3 tâm bì. Phấn hoa dính lại thành

phân khối pollinia, có rất nhiều hạt nhỏ liti. (hình 2.4 )
Quả lan: Quả lan thuộc quả nang, nở ra theo 3 – 6 đường nứt dọc. Quả có
dạng cải dài đến hình trụ ngắn phình ở giữa. Khi chín, quả nở ra và mảnh vỏ còn
dính lại với nhau ở phía đỉnh và phía gốc. (hình 2.5)
Hạt lan: Hạt lan rất nhiều, hạt liti. Hạt chỉ cấu tạo bởi một lớp chưa phân
hoá, trên một mạng lưới nhỏ, xốp, chứa đầy không khí. Hạt trưởng thành sau 2 – 18
tháng. (hình 2.6)

4


Hình 2.1 Rễ lan Dendrobium spp.

Hình 2.2 Thân lan Dendrobium spp.

Hình 2.3 Lá lan Dendrobium spp.

Hình 2.4 Hoa lan Dendrobium spp.

Hình 2.5 Quả lan Dendrobium spp.

Hình 2.6 Hạt lan Dendrobium spp.

5


2.1.3 Giá trị cảnh quan và kinh tế của phong lan
Theo Bùi Xuân Đáng, 2009. Phong lan được trồng với nhiều hình thức khác
nhau như: khí hậu tại Malanda thuộc vùng Atherton Tableland phía Bắc Queenland
ẩm độ khá cao cho nên trên các cành cây thuộc vùng này rong rêu mọc đầy chen lẫn

với dứa dại và lan. Trên thân các cây khuynh diệp lớn nhỏ đủ loại hoa lan nhưng
phần đông là các giống lan Dendrobium đủ màu sắc và hình dạng khác nhau.
Những bụi Phaius tankervillae hay Spathoglottis plicata trồng thẳng xuống đất,
những khóm Oncidium sphacelatum trồng ở gốc cây, trên những cành cây nằm
ngang nào là Cattleya hay Laelia anceps. Ở sát gốc là những khóm lan hài hoa nở
theo mùa. Xen vào đó là những khóm Cymbidium madidum hay Cymbidium suave,
khóm còn đương mang những chùm hoa dài buông thòng, trong khi những cây khác
đã ra đầy trái dù rằng mới vào mùa Xuân.
Tại khắp các công viên, phi trường, khách sạn hay quán ăn nhỏ ven đường
họ cũng trồng lan vào trong chậu đất hay vỏ quả dừa hoặc tạo thành những tiểu
cảnh rất có mỹ thuật. Những cảnh trí này tuy mất công nhưng không quá tốn kém
bởi vì giá rất rẻ, chỉ khoảng 1 đôla cho 2 chậu dù rằng lan Cattleya hay
Dendrobium. Nếu ở ngoài trời, họ cứ để mặc cho thiên nhiên nuôi dưỡng vì độ ẩm
rất cao 50 – 60% và cứ vài ngày lại có trận mưa lớn. Còn nếu ở trong phi trường,
khách sạn hay những nơi có mái lợp họ mỗi ngày cho phun nước 2 lần và tưới một
lần cũng chẳng tốn công hơn là trồng những cây vạn niên thanh là bao. Tại Florida
và những thành phố ven biển miền Nam California cũng có nhiều người trồng lan
trên cây, tạo nên những cảnh trí tăng thêm vẻ mỹ quan cho khu vườn hay giá trị của
căn nhà. Nếu độ ẩm không cao chúng ta có thể gia tăng được nhờ vào kỹ thuật phun
sương giá tiền không quá đắt.
Các loài phong lan có thể dùng trang trí trong các chậu cây treo cho hoa đẹp
hoặc trồng bám cây, bám đá tạo phong cảnh tự nhiên. Phong lan là nét trang điểm
nhẹ nhàng, duyên dáng mà cuốn hút. Những loài địa lan được trồng trong chậu như
những loại cây cảnh có hoa khác. Cũng có những loài địa lan lá có màu, vân đẹp

6


dùng để bàn nước trong phòng. Nhiều loài lan được lai tạo từ các loài lan rừng có
hoa chùm lớn, thích hợp cho trồng hoa cắt cành. Các loài lan cũng là những cây

thuốc Nam có giá trị đối với người dân miền núi..
Theo sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Tp.Hồ Chí Minh giá trị sản
xuất của lúa chỉ đạt 6,76 triệu đồng/ha/năm trong khi đó giá trị sản xuất của hoa lan
đối với Dendrobium spp. là 91 triệu đồng. Lan Dendrobium spp. có hai hình thức
trồng chính để kinh doanh. Một hình thức là trồng trong chậu treo hoặc đặt trên sạp
vừa cắt cành vừa bán chậu. Giá của mỗi chậu trong bình từ 25.000 – 30.000 đồng/
tùy theo loại. Hình thức thứ hai là trồng thành luống trên đất. Trồng bằng cách này,
chủ yếu là bán bông. Hiện nay, giá phát bông mà nhà vườn bán cho các thương lái
tới nhà cắt cành là 500đồng/bông. Chính vì vậy việc chuyển đổi từ trồng lúa sang
trồng lan sẽ giúp người nông dân có thu nhập cao hơn, tận dụng tối đa được quỹ đất
nông nghiệp, phù hợp với phát triển nông nghiệp đô thị, đảm bảo vệ sinh môi
trường sống ngày càng tốt hơn là làm tăng vẻ mỹ quan đô thị.
2.2 Sự phát triển phong lan ở Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1 Sự phát triển ngành trồng phong lan.
Theo Q. Hương, 2004. Indonesia là nước có nhiều loài phong lan thứ hai thế
giới, chỉ sau Brazil, chiếm khoảng 5.000 trong tổng số 26.000 loài phong lan hiện
có trên toàn cầu. Tuy nhiên, nước này hiện vẫn đứng sau Malaysia, Thái Lan,
Singapore về trồng và xuất khẩu phong lan.
Trồng lan từ lâu đã được xem là một ngành sản xuất đòi hỏi những đầu tư
lớn về vốn và nghiên cứu phát triển công nghệ, song nó cũng mang lại lợi nhuận rất
cao. Thái Lan, nước đang dẫn đầu thế giới về xuất khẩu lan, đã đạt 110 triệu đôla
trong năm 2003. Những nước chung quanh ta như Đài Loan, Malaysia, Indonesia
cũng có ngành lan phát triển mạnh không kém.
Theo VietNamNet, 2004. Các nước trong khu vực Đông Nam Á đang chạy
đua phát triển ngành lan. Chính phủ Singapore đặt kế hoạch vào năm 2010 đạt 100

7


triệu đôla xuất khẩu. Thái Lan xây dựng đầy đủ cơ sở hạ tầng và mời các nhà sản

xuất vào trồng. Thủ tướng Malaysia giao 300 ha đất của bang Johor cho các nhà
trồng lan và yêu cầu ngành lan phải mau chóng bắt kịp các nước phát triển. Cả Đài
Loan cũng đưa ra kế hoạch đến năm 2005 sẽ biến đất nước thành một Hà Lan thứ
hai.
Theo các chuyên gia về hoa của trường Đại học Nông nghiệp I, 2007. Với
khoảng 755 loài phong lan hiện có, khí hậu thích hợp và nhiều nguyên liệu làm giá
thể tốt cho cây sinh trưởng. Chính những điều kiện thuận lợi đó, ngành trồng phong
lan của Việt Nam không ngừng phát triển và trở thành một nước sản xuất hoa phong
lan lớn trong khu vực.
Ở Việt Nam, theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
nếu trồng phong lan cắt cành giống Dendrobium và giống Mokara, mỗi ha đất trồng
có thể cho thu nhập 500 triệu – 1 tỷ đồng/năm, cao hơn nhiều lần so với trồng lúa và
một số hoa màu khác.
Chỉ tính riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003 doanh số kinh doanh
hoa lan và cây cảnh mới đạt 200 – 300 tỷ đồng, nhưng chỉ trong quý I năm 2006,
doanh số này đã đạt 400 tỷ đồng; các cơ sở kinh doanh hoa lan, cây cảnh tăng nhanh
từ 264 cơ sở năm 2003 lên trên 1.000 cơ sở. Riêng phong lan mỗi năm ở thành phố
này cũng đã tiêu thụ trên triệu cây.
2.2.2 Mức độ phát triển giống lan Dendrobium ở Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển đó thì
nhu cầu của con người về vật chất và tinh thần cũng tăng cao. Trong nhu cầu về tinh
thần thì giải trí và thưởng thức cái đẹp có một vai trò rất quan trọng. Trước kia, do
vần đề về vật chất thiếu thốn nên con người ít hoặc không quan tâm đến nhu cầu
giải trí. Ngày nay, về vật chất hầu như đầy đủ hơn, con người chú trọng hơn về mặt
tinh thần. Hoa phong lan nói chung ngày càng thỏa mãn những đòi hỏi về thưởng
thức, giải trí và tiêu khiển của con người. Hoa lan cắt cành với nhiều loại và màu
sắc phong phú góp phấn đáp ứng những nhu cầu về tinh thần của con người. Hoa

8



lan cắt cành gồm hai giống chính là giống lan Dendrobium và Mokara. Trong đó,
giống Dendrobium dễ trồng, đầu tư ít vốn hơn so với Mokara.
Giống Dendrobium ngày càng được lai tạo và nhập khẩu nhiều hơn góp phần
làm cho giống này trong thị trường trong nước thêm phong phú, đa dạng hơn về
màu sắc và chủng loại. Còn đối với người trồng lan, một phần là để giải trí thư giãn
sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng đó chỉ là một bộ phận nhỏ trong nội thị,
nhưng bộ phận này cũng đóng góp đáng kể cho mảng xanh của thành phố và diện
tích trồng lan. Phần lớn trồng lan với mục đích kinh tế. Ở những vùng ngoại thành
hoặc vùng ven ngoại thành như quận 2, quận 9, quận 12, Hóc Môn, Củ Chi, Bình
Chánh …thì diện tích trồng lan cắt cành tương đối lớn. Theo trung tâm khuyến
nông Thành phố Hồ Chí Minh “qui mô trồng lan của các hộ biến động rất lớn: nhỏ
nhất là 50 – 100 m2, lớn nhất là 3 ha. Bình quân 2.000 – 3.000 m2/hộ”. Chính vì
hiệu quả kinh tế và được sự quan tâm và hỗ trợ của các ban ngành đoàn thể thuộc
lĩnh vực nông nghiệp mà diện tích trồng lan, chủ yếu là lan cắt cành trong đó có
giống Dendrobium không ngừng phát triển về diện tích. Theo trung tâm khuyến
nông Tp.Hồ Chí Minh thì diện tích trồng lan cắt cành tăng từ năm 2003 là 20 ha
năm 2005 là 50,3 ha năm 2006 là 64,3 ha và năm 2008 là 97,74 ha. Cơ cấu giống,
chủng loại lan được trồng nhiều nhất là giống Mokara (chiếm 44,83%), kế đến là
giống Denbrobium (chiếm 39,57%). Dự kiến tới năm 2010 thì diện tích trồng lan sẽ
đạt tới 200 ha.
2.3 Một số sâu hại chính trên phong lan
2.3.1 Nghiên cứu nước ngoài về sâu hại phong lan.
Theo Avas B. Hamon, 1996. Một số loài sâu hại phong lan như: Rệp vảy
Diaspis boisduvalii, Rệp vảy đỏ Chrysomphalus aonidium, Rệp vảy vàng
Parlatoria proteus, Rệp nâu vảy mềm Coccus hesperidum, Rệp hình sao Vinsonia
stellifera, Rệp sáp lan Pseudocossus microcirculus, Rệp sáp sọc Ferrisia virgat,
Rệp bọc trên lan Asterolecanium epidendri, Bọ trĩ Cuba Gynaikothrips ficorum, Bọ
trĩ hoa Frankliniella cephalic, Bọ trĩ nhà kính Heliothrips haemorrhoidali, Bọ trĩ


9


lan Chaetanophothrips orchidii, Bọ trĩ sọc đỏ Selenothrips rubrocinctu, Rầy mềm –
rệp dưa Aphis gossypii, Rầy mềm Macrosiphum luteum, Bọ đen đục nhánh
Xylosandrus compactu, Ong vẽ: Hymenoptera, Gián Orthoptera, Muỗi mắt cánh đen
– Diptera, Ốc sên và ốc Stylommatophora, Bọ bét Brevipalpus californicus, Bọ bét
Phalaenopsis Tenuipalpus pacificus và nhện bét hai chấm Tetranychus urticae.
Rệp vảy Diaspis boisduvalii: Con cái rệp vảy gần như tròn, đường kính 1 – 2
mm, mỏng và có màu vàng lợt. Con đực lúc trưởng thành có hình thon dài, có 3 vệt
song song dài, dài khoảng 1 mm, trắng như tuyết. Các con đực thường gom lại
thành cụm, hình dáng như vệt bông vải trên lá, vì vệt này người ta mới nhận ra
chúng.
Rệp vảy đỏ Chrysomphalus aonidium: Con cái lúc trưởng thành có hình tròn,
đường kính 2 mm, lồi vừa phải, nâu hơi đỏ sậm đến gần như đen màu xám tro. Con
đực trưởng thành thì thon dài hơn con cái và có màu thường sáng hơn.
Rệp vàng Parlatoria proteus: Con cái trưởng thành có hình trái xoan, thon,
dài từ 1 – 2 mm, hơi lồi có màu vàng hoặc hơi xanh hay nâu với những rìa sáng,
khi lột xác lần 2 lớn với vệt nhăn dọc cơ thể. Con đực trưởng thành hình thon dài
hơn, hai bên mép song song, dài 1 mm, có màu giống con cái, thường tụm lại từng
cụm ở gốc lá lan.
Rệp vảy mềm nâu Coccus hesperidum: Con cái hình trái xoan, từ dẹp đến hơi
lồi dài từ 1 – 3 mm. Màu xanh hơi vàng hay màu nâu hơi vàng. Chúng hại lá và
thân của cây lan.
Rệp hình sao Vinsonia Stellifera: Rệp này có thân mềm hình ngôi sao, giống
như con sao biển thu nhỏ. Con cái trưởng thành dài từ 4 – 5 mm, từ chót đỉnh sao
này đến chót sao kia.
Rệp sáp giả lan Pseudocossus microcirculus: Dài khoảng 2 – 4 mm, bọc bởi
lớp sáp mềm không có phần nào lộ ra. Có một loại sợi sáp dọc theo rìa thân, với
những sợi phía sau dài gấp đôi. Chu kỳ sống của rệp sáp lan là 2,5 tháng.


10


Rệp bọc trên lan Asterolecanium epidendri: Vỏ hoặc sáp bọc con cái có phần
dài hơn là rộng hoặc gần tròn. Cỡ bình thường có đường kính là 1,5 mm. Sáp bọc
tương đối dẹp và thường hơi xanh, vàng nhạt hoặc trong suốt.
Bọ trĩ Cuba Gynaikothrips ficorum: Màu vàng sáng ở giai đoạn chưa trưởng
thành, con trưởng thành có màu nâu đậm đến đen và dài từ 2,5 – 3,5 mm, di chuyển
nhanh khi bị quấy rầy. Giống bọ trĩ này có thể vô ý cắn nguời.
Bọ trĩ hoa Frankliniella cephalica: Nó làm hại hoa lan. Bọ trưởng thành có
đầu và ngực màu cam, bụng màu vàng chanh.
Bọ trĩ nhà kính Heliothrips haemorrhoidalis: Dài cỡ 1,8 mm, thân nâu đen,
hình mắt lưới rõ rệt với phần cuối thân hơi sáng hơn. Các chân và râu 8 đoạn màu
vàng lợt, các cánh màu hơi tối nhưng không có vạch. Chỗ tổn hại biểu hiện bằng sự
bạc lá, lá khô rồi chết, thêm vào đó lá bị lấm chấm đen bởi các vết phân.
Bọ trĩ lan Chaetanophothrips orchidii: Dài chừng 1,2 mm, vàng, không có
vết chạm.
Bọ trĩ sọc đỏ Selenothrips rubrocinctus: Con cái trưởng thàng dài chừng 1,5
mm, thân màu nâu đậm tới đen, chân nâu đậm tới đầu xương đùi và tất cả cổ chân
có màu vàng trắng. Ba khúc đầu của bụng ở giai đoạn chưa trưởng thành có màu đỏ,
vì vậy mới có tên chung là bọ trĩ sọc đỏ.
Rầy mềm – rệp dưa Aphis gossypii: Giống rệp này phá nụ và hoa, màu xanh
hơi vàng hoặc màu xanh hơi đen dài từ 1,5 – 2 mm.
Rầy mềm Macrosiphum luteum: Có màu hơi vàng đến nâu vàng gây hại trên
lá và thân.
Bọ đen đục nhánh Xylosandrus compactus: Nó là loại bọ nhỏ nâu đậm, dài
khoảng 4 mm. Nó đục vào thân của cây Dendrobium và cũng đục vào giả hành cây
Cattleya.
Ong vẽ Hymenoptera dài khoảng 1,5 – 3 mm, cho trứng của nó vào bên

trong mô cây . Sự tổn hại là do ấu trùng ăn ở trong mô cây.

11


Gián Orthoptera: Thỉnh thoảng gián có gây hại cho hoa lan.
Muỗi mắt cánh đen – Diptera: Côn trùng này khi trưởng thành là các con ruồi
nhỏ thân nâu đậm, cánh màu tối, đầu nhỏ, mắt lộ, râu như sợi chỉ và chân tương đối
dài.
Bọ bét Brevipalpus californicus: Sự tổn hại do bọ bét này gây ra đầu tiên trên
lá xuất hiện những vùng như bạc sau đó đậm dần và thành nâu.
Bọ bét Phalaenopsis Tenuipalpus pacificus: Loại này sống trên lá sẽ tạo ra
các đóm đen và làm chết các mô.
Nhện bét hai chấm Tetranychus urticae: màu xanh nhạt hoặc vàng với hai
chấm đen ở mỗi bên.
Ốc sên và ốc Stylommatophora
2.3.2 Nghiên cứu trong nước về sâu hại phong lan
Theo Phí Thị Hường, 2003. Ghi nhận một số loại sâu gây hại trên lan như:
Rệp sáp nâu Coccus sp; Rệp sáp nâu nhỏ Coccus sp.
Rệp sáp nâu (Coccus sp.) gây hại trên giống lan Dendrobium với tỷ lệ hại
8,23%, chỉ số hại 3,45% ở Thủ đức Tp.Hồ Chí Minh. Rệp sáp gây hại nặng vào các
ngày giữa tháng 9 và giữa tháng 10 do chủ vườn không thường xuyên vệ sinh vườn,
giữa tháng 10 trời thường hay mưa vườn lan không thông thoáng vì vậy tạo điều
kiện cho rệp sáp nâu nhỏ phát triển. Rệp sáp gây hại nhẹ vào đầu tháng 8 do thời tiết
khô ráo. Rệp sáp nâu nhỏ (Coccus sp.) gây hại trên giống lan Dendrobium nặng với
tỷ lệ hại 5,46%, chỉ số hại 3,16% ở Tân Bình Tp.Hồ Chí Minh. Rệp sáp nâu nhỏ gây
hại nặng nhất vào các ngày cuối tháng 10 do mưa nhiều ẩm độ cao thích hợp cho
sâu bệnh phát triển. Cuối tháng 8, đầu tháng 9 rệp sáp gây hại thấp nhất do thời tiết
khô ráo không thuận tiện cho sâu hại phát triển. Diễn biến mức độ biến động của
rệp sáp nâu nhỏ (Coccus sp.) ở vườn lan có chiều cao vườn che khác nhau trên

giống lan Dendrobium ở Hóc Môn Tp.Hồ Chí Minh, 2002. Vườn trồng lan có chiều
cao che 4 m bị rệp sáp nâu nhỏ gây hại thấp nhất với tỷ lệ hại 3,53%, chỉ số hại

12


2,03%; vườn có chiều cao giàn che 3 m rệp sáp nâu nhỏ hại cao với tỷ lệ hại
12,17%, chỉ số hại 6,28%. Do vườn có giàn che quá thấp độ thông thoáng kém nhiệt
độ trong vườn cao dẫn tới ẩm độ cao tạo điều kiện cho sâu hại phát triển.
Theo Phạm Công Bình, 2007. Trồng giống Dendrobium bằng xơ dừa rất hay
bị các loại côn trùng thông thường như dán, cuốn chiếu, con tiêu (màu xám, đen,
nhỏ, nhiều chân) phá hại. Các loại này dễ trị bằng cách dùng thuốc Malathion,
Melthyl Parathion, nồng độ 2cc/1 lít nước. Trồng bằng xơ dừa hay bị ốc sên cắn
phá, chúng thường ăn đầu rễ non, làm cây mất sức, rễ phân nhánh nhiều. Chúng ta
có thể dùng mồi độc Methaldehyde để trị, rải thuốc lên mặt chất trồng, ốc sên ăn
vào sẽ chết hoặc mất khả năng sinh sản. Đối với những vườn cây Dendrobium spp.
trồng khô, thiếu nước thường bị loại nhện đỏ phá hại. Nhện đỏ bám vào mặt dưới
làm lá có màu xanh xám bạc, sần sùi, sau chuyển thành đen và rụng. Chúng ta có
thể dùng thuốc Kelthane 2cc/1 lít nước xịt ướt mặt dưới lá và toàn cây và cứ 5 ngày
1 lần cho đến khi hết nhện đỏ. Để phòng ngừa nhện đỏ trên lan, ta nên giữ độ ẩm và
tưới nước đủ cho lan, chú ý vào màu nắng.
2.4 Muỗi hại phong lan Dendrobium spp.
2.4.1 Nghiên cứu nước ngoài
Theo Arnold H. Hara và Ruth Y. Niino – DuPonte, 2002. Muỗi hại hoa,
Contarinia maculipennis Felt (bộ hai cánh: Diptera; họ muỗi năn: Cecidomyiidae),
đã có xuất hiện ở Hawai từ trước những năm 1900 và có nguồn gốc từ châu Á (tây
Ấn độ). Hiện nay, muỗi hại hoa có thể tìm thấy trên tất cả các đảo thuộc quần đảo
Hawai. Ở nước Mỹ, muỗi hại trên lan Dendrobium spp. được báo cáo ở Florida năm
1992. Muỗi hại hoa sinh sôi, nảy nở quanh năm ở Hawai. Vòng đời của chúng từ
trứng đến thành trùng khoảng 21 – 28 ngày.

Con cái trưởng thành đẻ trứng thành từng khối vào bên trong những nụ hoa.
Những trứng có màu trắng kem, mắt thường không thể nhìn thấy, 24 giờ trứng sẽ nở
thành ấu trùng. Ấu trùng của con muỗi hại hoa có hình dạng giống con giòi, chúng
ăn những phần mô bên trong của những nụ hoa dẫn đến nụ hoa, hoa biến dạng, méo

13


×