Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

phê bình và tự phê bình ở nước ta hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.46 KB, 36 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thực tiễn ngày càng chứng minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh cũng như trong thời kỳ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng” Bởi vậy, nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh một cách sâu sắc, có hệ thống đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối
với toàn Đảng, toàn dân. Đặc biệt, công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, là quan điểm xuyên suốt của Đảng đối với việc xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh. Để đáp ứng nhu cầu đó, cần có những nguyên tắc hoạt
động của Đảng, trong đó tự phê bình và phê bình là một phương pháp để
nâng cao trình độ lý luận, trình độ lãnh đạo, đấu tranh để bảo vệ, phát triển
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
thực hiện mục tiêu chính trị đã đề ra.
Tự phê bình và phê bình không chỉ là một nhu cầu, mà còn là một quy
luật, một động lực xây dựng Đảng. Theo nguyên lý mác xít- Lênin nít thực
tiễn từng cho thấy, sự non yếu của nhiều tổ chức, sự thoái hoá biến chất của
một bộ phận của cán bộ đảng viên, một phần rất quan trọng là xa rời quần
chúng thậm chí đánh mất vũ khí phê bình và tự phê bình trong một giai đoạn
cách mạng, tự phê bình và phê bình là việc làm không thể thiếu được trong
sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Nó giúp cho cán bộ đảng viên và tổ chức
Đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, tìm ra cách thức,
phương pháp khắc phục nhằm tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động,

1


nâng cao năng lực lãnh đạo và sự chiến đấu để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
sắp tới. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay việc Đảng thực hiện có chất lượng


tự phê bình và phê bình trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của mình sẽ đóng
góp phần to lớn thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng và những nhiệm vụ, mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ mới. Thấy được tầm quan trọng của
tự phê bình và phê bình như vậy em mới chọn đề tài này. Một mặt là, để
nâng cao trình độ của mình để nhằm đáp ứng nhu cầu của Đảng và Nhà
nước đạt ra. Em mong các thầy cô trong khoa, đặc biệt là thầy cô chủ nhiệm
bộ môn này sẽ có ý kiến, nhận xét bài làm của em, lần nữa em mong các
thầy cô thông cảm cho em. Bởi vì, trình độ học vấn của em con non kém,
kinh nghiệm viết tiểu luận còn chưa có. Chắc chắn lần sau em sẽ rút kinh
nghiệm và cố gắng viết tốt hơn nữa.

2


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Quan điểm của Mác- Ăngghen
Mác- Ăngghen rất quan tâm đến tự phê bình và phê bình. Hai ông coi
tự phê bình và phê bình là một thứ vũ khí sắc bén nhất của cách mạng. Làm
cách mạng mà không dùng cái vũ khí sắc bén nhất của cách mạng hoặc chỉ
dùng nó một cách qua loa thì cách mạng sẽ không thành công. Vậy, phải thật
thà tự phê bình sẽ giúp cho mình sửa chữa, giúp cho mình tiến bộ mà còn
giúp cho người khác biết để mà tránh.
Tự phê bình rồi sửa chữa để tiến bộ, cho nên phải thật thà, phải triệt
để mới có kết quả. Nếu chỉ làm cho qua chuyện, chỉ có hình thức vô ích.
Trong qúa trình hoạt động lý luận thực tiễn của Mác- Ăngghen những
lãnh tụ tiền bối của phong trào Cộng Sản và công nhân quốc tế. Chúng ta
thấy các ông luôn luôn quan tâm đến vấn đề tự phê bình và phê bình để giữ
gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mác- Ăngghen đã từng nhấn mạnh:

“tự phê bình và phê bình đoàn kết thống nhất của phong trào cộng sản,
phong trào công nhân là vấn đề có tính nguyên tắc”. Hai ông cho rằng: “Tự
phê bình và phê bình là phương pháp tốt nhât để đoàn kết, thống nhất nội bộ
Đảng, để xây dựng Đảng ngày càng phát triển”. Mác khẳng định Cách mạng
vô sản có điểm khác với mọi cuộc cách mạng. Khác là ở chỗ nó tự phê bình
bản thân và nhờ tự phê bình mà được củng cố.
Mác còn nhấn mạnh: chế độ tập trung được thực hiện chặt chẽ, các cơ
quan cấp dưới phải phục tùng các cơ quan cấp trên, thiểu số phải phục tùng
đa số. Việc phát huy dân chủ được thực hiện gắn liền với việc tôn trọng kỷ
luật của Đảng là kỷ luật bắt buộc đối với mọi đảng viên, không trừ một đảng
3


viên nào, và gắn liền với việc thực hành các yêu cầu của Cương lĩnh và điều
lệ Đảng, trong đó lấy tự phê bình và phê bình làm nguyên tắc để thực hiện.
2. V.I. Lênin:
Theo Lênin: tự phê bình và phê bình là một trong những tiêu chuẩn
quan trọng để xem xét Đảng. Chỉ có Đảng mác xít chân chính- Đảng cách
mạng thật sự- mới có thái độ đúng đắn đối với sai lầm của mình. Trong qúa
trình lãnh đạo, Đảng có khuyết điểm cũng bình thường, điều quan trọng là
có thái độ đúng đắn đối với sai lầm của mình hay không, đó mới là điều
quan trọng. Lênin đòi hỏi rằng: Công khai thừa nhận sai lầm, phân tích hoàn
cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những biện pháp để sửa chữa những sai lầm.
Đó là thái độ nghiệm túc của Đảng.
Chỉ có Đảng nghiêm túc như vậy mới thật sự là Đảng mác xít chân
chính.
Những người cộng sản “ tả khuynh” đã không có thái độ đó, đã không
nghiêm túc trước những sai lầm của mình cho nên họ không phải là Đảng
của giai cấp. Không phải là Đảng của quần chúng, và chỉ là nhóm nhỏ mang
tính bè phái. Đối với người đảng viên cộng sản, Lênin đòi hỏi rằng: trước sai

lầm của mình, người đảng viên phải thực hiện tốt phê bình. Người nói:
người thông minh không phải là người không phạm sai lầm. Người nào
phạm sai lầm, không nặng lắm, và biết sửa chữa một cách dễ dàng và nhanh
chóng thì người đó là thông minh.
Đối với Đảng cũng như đối với đảng viên, không có thái độ đúng đắn
đối với khuyết điểm thì chỉ đi đến những khuyết điểm lớn hơn mà thôi.
Lênin đã khẳng định: “Nếu cữ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bảo
chữa cho nó, “đưa nó đến chỗ tột cùng” thì từ một sai lầm nhỏ, người ta luôn
luôn làm cho nó thành một sai lầm lớn ghe gớm.

4


Để chống lại những tính xấu đó để làm cho giai cấp vô sản có thể thực
hiện được một cách đúng đắn vai trò tổ chức của nó (đó là vai trò chính của
nó) một cách có kết quả và thắng lợi thì tính Đảng của giai cấp vô sản phải
thực hiện được trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một
kỷ luật nghiêm ngạt.
Lênin còn cho rằng: Sai lầm cũng dạy chúng ta nhiều bài học, trong
lĩnh vực này cũng như trong lĩnh vực khác, chúng ta nói rằng chúng ta sẽ
học tập bằng tự phê bình.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình:
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến tự phê bình và phê bình của
mỗi cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc
bén, cách tốt nhất để Đảng đoàn kết, thống nhất, ngày càng phát triển. Tự
phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên, theo Người phải được thực hành
theo 3 yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, thành nền nếp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “ Người đời không phải thánh thần,
không ai tránh khỏi khuyết điểm” Vì vậy, cán bộ đảng viên có khuyết điểm,

sai lầm không có gì là lạ. Điều quan trọng cần thiết là mỗi người phải thiết
tha tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình, không sợ có
khuyết điểm, sai lầm, rối quyết tâm sửa chữa, đồng thời tích cực phê bình
giúp đỡ đồng chí để cùng nhau tiến bộ, được dân phục, dân yêu, dân nghe.
Quan niệm về khuyết điểm, sai lầm trong qúa trình tiến bộ như vậy,
đồng thời xuất phát từ thực tế nhờ tự phê bình và phê bình mà Đảng ngày
càng lớn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ tự phê bình và phê bình cũng
giống như người ta luôn luôn cần không khí để sống. Tự phê bình và phê
bình phải được thực hành thành nền nếp, có như vậy cán bộ, đảng viên và
toàn Đảng mới không ngừng tiến bộ.
5


Người nhắc nhờ: “ngày nào cũng phải ăn cho khỏi đói, sửa mặt cho
khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải tự phê bình và phê bình cho khỏi sai lầm.
Nghĩa là tự phê bình thường xuyên chứ không phải chờ có khai hội mới tự
phê bình, không phải khi làm khi không. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh muốn tiến bộvà được mọi người mến phục, tin yêu, thì hằng ngày
trong từng công việc, mỗi cán bộ đảng viên phải thật thà kiểm điểm tự phê
bình và phê bình, không phải chỉ đến khi tập thể sơ kết, tổng kết hay phát
động mới làm công việc này. Được như vậy sẽ kịp thời phát hiện, tránh được
khuyết điểm, ngăn chặn khuyết điểm không để trở nên tầm trọng, khó sửa
chữa. Chi bộ tốt là chi bộ thường xuyên căn cứ vào công việc mà tự phê bình
và phê bình để giúp đỡ đảng viên tiến bộ.
Hiện nay, khi sự nghiệp cách mạng yêu cầu ngày càng cao năng lực và
đạo đức cách mạng, khi trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thái
về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu lãng phí của một bộ
phận cán bộ đảng viên có chiều hướng gia tăng nghiêm trọng hơn thì tự phê
bình và phê bình thường xuyên thành nề nếp của mỗi cán bộ, đảng viên, của
mỗi cơ sở đảng càng trở nên cần thiết.

Thứ hai là, đề cao tự phê bình và phê bình triệt để:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “tự phê bình và phê bình phải đi
đôi với nhau” đồng thời Người nhấn mạnh trước hết phải để cao tự phê bình
và phê bình phải triệt để, chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau,
phê bình mình là chính, phê bình người là phụ. Có đề cao tự phê bình và triệt
để tự phê bình mới tẩy sửa được tinh thần và tư tưởng cho thật sạch”. Bởi vì,
theo Người: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự
phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong
Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh vô cùng”.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở tự phê bình và phê bình “phải
khởi đầu từ cấp trên, dẫn đến cấp dưới” và “cán bộ cấp trên phải làm cương
mẫu”. Đồng thời Người thường xuyên gương mẫu thực hiện.
Thứ ba là, phê bình phải chất thành, được phê bình phải lo sửa lỗi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thuốc đắng thì dã tật, nói thật thì
được việc”; “Mục đích của phê bình là cốt lợi cho công việc chung”. Vì
người phê bình phải đúng đắn, tích cực. Cụ thể, Người phê bình thì vạch ra
khuyết điểm của đồng chí phải nghiêm chỉnh, rõ ràng, đúng mực, tinh thần
thân ái, chân thành, xây dựng đúng mục đích “trị bệnh cứu người” và cũng
phải nêu cả ưu điểm; thuyệt đối không nên có ý mỉn mai, bởi móc, báo thù,
cũng không nên phê bình lấy lệ; càng không nên “trước mắt không nói, xoi
mói sau lưng”. Người được phê bình phải thật thà, khiêm tốn, nếu phê bình
đúng thì nhận khuyết điểm và sửa chữa; nêu phê bình sai thì phải giải thích,
khuyết không được “phớt” lời phê bình và “ tru” người phê bình.
II. TẦM QUAN TRỌNG, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC
TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG, BIỆN PHÁP CĂN BẢN
XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ KHỐI ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT CỦA

ĐẢNG.
1. Tự phê bình và phê bình là quy luât phát triển của Đảng.
Các sự vật hiện tượng của đời sống xã hội và vận động phát triển theo
quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, Đảng Cộng sản là cơ
thể chính trị - xã hội sống, nên Đảng cũng vận động và phát triển theo quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Tự phê bình và phê bình là
một trong những biểu hiện của quy luật này. Lênin nói: “sự xuất hiện của
một giai cấp mới trên vũ đại lịch sử, với tư cách là người lãnh tụ và người
lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ “tròng
trành” hết sứ giữ đội một thời kỳ chân động, đấu tranh và bảo đáp, đó là một
7


mặt; mặt khác không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mô mẫm, thí
nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới
đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới.
Dĩ nhiên, không phải chỉ cần mất hàng tuần mà phải mất hàng bao
nhiêu tháng, bao nhiêu năm, thì một giai cấp mới trong xã hội, hơn nữa một
giai cấp trước kia bị áp bức, bị dàng doạ, trong cảnh khốn cùng và dốt nát,
mới có thể làm quen với tình hình mới của mình mới nhìn nhận kỹ lưỡng
mọi vật xung quanh được, mới tổ chức tốt công tác của mình. Cố nhiên,
Đảng lãnh đạo của giai cấp vô sản cách mạng chưa thể có được kinh nghiệm
và thoái quen trong việc thi hành những biện pháp tổ chức đại quy mô cho
hàng triệu và hàng chục triệu công nhân; Đảng ấy phải mất rất nhiều thóai
quen mới thay đổi được những thoái quen cũ. Thoái quen hầu như chỉ biết
làm cổ động. Nhưng trong việc đó không có gì không thể thực hiện được và
một khi chúng ta có nhận thức rõ ràng là cần phải thay đổi những thoái quen
ấy, một khi chúng ta đã có sự quyết tâm vững chắc để thực hiện sự thay đổi
đó, một khi chúng ta kiên trì theo đuổi mục tiêu vĩ đại và khó khăn ấy, thì
chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu ấy. Trong “nhân dân”, nghĩa là trong

công nhân và những nông dân không bóc lột lao động của người khác có rất
nhiều nhà tổ chức có tài. chính tư bản đã vùi dập, đã bóp chết, vứt bỏ hàng
nghìn những nhà tổ chức như thế. Chúng ta vẫn chưa biết phát hiện, khuyến
khích, nâng đỡ để bạt họ. Nhưng chúng ta sẽ học tập được cách làm công tác
đó, nếu chúng ta bắt tay vào việc học cách làm công tác đó với tất cả nhiệt
tình cách mạng, vì thiếu nhiệt tình này thì cách mạng sẽ không thể nào thắng
lợi được.
Những mâu thuẫn nảy sinh trong Đảng như mâu thuẫn trong tiến bộ
và lạc hậu, trong đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng với trình
độ, năng lực còn hạn chế của đội ngũ đảng viên, mâu thuẫn trong hình thức,
8


phương pháp lãnh đạo cũ của Đảng với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới; mâu thuẫn trong những ý kiến trái ngược nhau trong
Đảng,... là những mâu thuẫn không đối kháng chỉ có thể bằng tự phê bình và
phê bình mới giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đó, cùng cố sự thống
nhất nội bộ tạo nên sự vận động phát triển của Đảng. Bởi vì, Đảng ra đời,
tồn tại, phát triển là để lãnh đạo cách mạng để thực hiện tốt nhiệm vụ vẻ
vang đó. Đảng phải xây dựng ngày càng vững mạnh luôn vận động, nhiệm
vụ cách mạng ngày càng nặng nề, phức tạp hơn, hoạt động lãnh đạo cách
mạng của Đảng tuỳ đã được chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
soi sáng dẫn đường cũng không thể có đầy đủ những chỉ dẫn cặn kẽ trong
những hoàn cảnh thời điểm cụ thể. Vì thế, trong hoạt động xây dựng nội bộ
Đảng cũng như lãnh đạo cách mạng Đảng khó tránh khỏi sai lầm, khuyết
điểm, Đảng vừa lãnh đạo, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, tức là Đảng phải
coi trọng tự phê bình và phê bình, trước hết là tự phê bình. Để tự phê bình và
phê bình trong Đảng đạt kết quả tốt, Đảng rất cần nhân dân phê bình. Bởi vì,
dù Đảng là lực lượng tiên tiến nhất trong xã hội, song Đảng cũng chỉ là một
bộ phận trong xã hội, hơn nữa Đảng lãnh đạo nhân dân, chịu trách nhiệm về

cuộc sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo vệ vận mệnh của đất nước,
của dân tộc nên Đảng càng phải được nhân dân góp ý phê bình. Đồng thời,
Đảng phải dũng cảm tự phê bình, công khai thừa nhận sai lầm khuyết điểm
của mình thì nhân dân sẽ góp ý phê bình Đảng.
Tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển
của Đảng Cộng sản. Ăngghen nhận mạnh: việc Đảng phê bình là rất cần
thiết cho hoạt động đã qua của mình, là việc tuyệt đối cần thiết và bằng cách
đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn.
Lênin coi tự phê bình và phê bình là quy luật bất di, bật dịch về sự
phát triển của Đảng cách mạng. Tự cao tự đại, không thấy những sai lầm,
9


khuyết điểm là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sức chiến đấu
của Đảng.
Tại Đại hội XI Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga, Người chỉ rõ: “tất cả
những Đảng cách mạng đã bị tiêu vong tới nay đều bị tiêu vong vì tự cao tự
đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt
không giám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ
không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của
chúng ta, và những nhược điểm đó chúng ta sẽ học được cách khắc phục,...”.
Lênin còn cho rằng, thái độ của một chính Đảng đối với những sai
lầm, khuyết điểm của mình là một tiêu chuẩn chắc chắn nhất để xem xét
Đảng ấy có nghiêm túc không. Có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối
với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Một Đảng mà
công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm, phân tích hoàn
cảnh để ra sai lầm, nghiên cứu cận thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm
là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng nghiêm túc, là một Đảng làm tròn nghĩa vụ
của mình- giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đến quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tự phê bình và phê bình.

Trong báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng Cộng sản Việt Nam, Người
khẳng định: “về luật phát triển”.
Người thường căn dặn các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên “mỗi
người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình.
Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa
chữa. Phải như thế Đảng mới nhanh chóng phát triển, công việc mới nhanh
chóng thành công. Hồ Chí Minh cho rằng: nếu không kiến quyết sửa chữa
khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh của mình, không giám
uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng.

10


Nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, hoặc khinh lý luận,
hoặc lý luận suông.
Lý luận đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc
tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm bằng kết luận. Rồi lại
đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính.
Lý luận như kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Hiện nay, phong
trào cách mạng rất cao, nhưng còn nhiều cán bộ đảng viên của chúng ta chưa
biết rõ lý luận và chưa áp dụng lý luận vào thực tế chính trị, kinh tế, quân sự,
văn hoá. Bời vì, kém lý luận cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho
rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn
cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy, kết quả thường thất bại.
Đó là chứng kém lý luận cho bệnh chủ quan.
- Bệnh hẹp hòi:
Bệnh này rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải.
Bên trong, thì bệnh này đã làm ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết.

Bên ngàoi thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân.
Có những cán bộ chỉ thấy lợi ích bộ phận của mình, không thấy lợi cíh
của toàn thể, muốn đem lợi ích của toàn thể phục tùng lợi ích của bộ phận
mình. Họ quen hẳn cái chế độ dân chủ tập trung. Họ quen rằng thiểu số phải
phục tùng đa số, hạ cấp phải phục tùng thượng cấp, bộ phận phải phục tùng
toàn thể.
Có nhiều đồng chí có bệnh tự tộn, tự đại, khinh rẻ người ta, không
muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Biết được vài câu lý
luận đã cho mình là giỏi, không xem ai ra gì, tưởng mình là hơn hết. Đó là
bệnh hẹp hòi hạng nặng,...
11


Họ quen rằng: chỉ đoàn kết trong Đảng cách mạng cũng không thành
công được còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quen rằng: so với số
nhân dân thì đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một
đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được cái gì
hết.
Vì vậy, chúng ta cần phải kết hợp với những người ngoài Đảng. Ta
không được kinh rẽ họ, che bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng,
không được rơi xa quần chúng. Rời xa dân chúng là cô độc, cô độc thì mất
định thất bại.
Cũng vì bệnh này mà không biết sử dụng nhân tài, việc gì cũng ôm
lấy hết, ôm hết thì cố nhiên làm không nổi.
Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy
lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai
việc đó phải đi đôi với nhau.
Đối với Đảng Hồ Chí Minh cho rằng: Một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm
của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn

cảnh sinh ra khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn, chân chính.
Đảng cần phải biết những ưu điểm, khuyết điểm của mình để dạy rỗ
đảng viên, dạy rỗ quần chúng. Sợ phê bình tức là “quan liêu hoá”, tức là tự
nãn tự tác, tức là “mèo khen mèo dài đuôi”.
Phê bình không phải để công khích, để nói xấu, để chửi rủa.
Trong qúa trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn coi trọng tự phê bình và phê bình, coi đó là quy luật
phát triển của Đảng. Nhờ đó Đảng ngày càng lớn mạnh, vượt qua những thử

12


thách quyết liệt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I năm 1930, khi đó Đảng còn
có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng đã phát động và mở rộng cuộc
tự chỉ trích Bônxevích trong các cấp đảng bộ để nghiên cứu, học tập các ưu
điểm, tìm ra các khuyết điểm mà trách. Trong lúc đó Đảng Nhân Dân cách
mạng Lào còn thuộc vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tổ chức Đảng còn
hoạt động bí mật nhưng Ông Cay Sỏn Phôm Vị Hản nhà lãnh tụ vĩ đại sáng
suốt đã tìm cách để đưa bài học kinh nghiệm của Đảng Bônxêvích và lời
hướng dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoạt động ở đảng bộ của mình.
Đến năm 1951, Đảng Cộng sản Việt Nam mở cuộc vận động chỉnh
đốn Đảng, trong đó đặc biệt chú ý tới tự phê bình và phê bình của các tổ
chức Đảng và đội ngũ đảng viên, nhằm khắc phục như biểu hiện, ngại khó
khăn gian khổ, vô tổ chức, vô kỷ luật, tham ô, hủ hoá,... Năm 1961, Đảng
mở đợt chỉnh huấn mùa Xuân, thông qua tự phê bình và phê bình giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng, phát huy dân chủ nội bộ. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV, V, VI đã tạo cho Đảng ngày càng lớn mạnh.

Bước vào lãnh đạo công cuộc đổi mới, tại Đại hội VI Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm của mình.
Đó là một yếu tố đặc biệt quan trọng để Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng
đắn, sáng tạo. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: phải đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình với ý nghĩa là quy luật phát triển của Đảng.
Tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
thấy rõ hơn vai trò, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong điều kiện nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và mở rộng
quan hệ với bên ngoài, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Một quy luật
cơ bản trong phát triển, tiến bộ của Đảng là thường xuyên tự phê bình và phê
13


bình”. ( Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb CTQG. HN, 1996. trang 49).
Tại Hội nghị lần thứ VI ( lần II ) Ban chấp hành Trung ương khoá
VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định tiến hành cuộc vận động xây
dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực
hiện di chúc của Bác và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng, trong đó tiến hành
tự phê bình và phê bình trong Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương đến
cơ sở là khâu đột phá và là biện pháp có ý nghĩa quan trọng bảo đảm thực
hiện thắng lợi nghiệp vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng. Cuộc vận động đó đã đem
lại kết quả bước đầu quan trọng, tạo điều kiện để Đảng lãnh đạo thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX.
2. Tự phê bình và phê bình là phương pháp để giáo dục rèn luyện
cán bộ, đảng viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức bao gồm những người tiên
tiến, ưu tú nhất của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp lao
động khác, trong họ bao giờ cũng có sự chênh lệch nhất định về trình độ và
nhận thức. Vì vậy, trước một vấn đề nào đó thường có những ý kiến, những

cách thức, phương pháp giải quyết khác nhau. Bằng tự phê bình và phê bình,
khơi dậy và phát huy trí tụê, tính sáng tạo của từng đảng viên, phê phán cái
sai, tìm ra cái đúng và dần dần tiếp cận chân lý. Qua tự phê bình và phê bình
trình độ mọi mặt của đội ngũ đảng viên, nhất là trình độ tổ chức thực hiện,
dần dần được nâng lên, góp phần nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng.
Trong qúa trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới
hiện nay Đảng phải giải quyết nhiều vấn đề mới phức tạp, cán bộ, đảng viên
không thể nắm bắt, nhận thức đẩy đủ và sâu sắc ngay được những vấn đề
mới đang hàng giờ nảy sinh trong xã hội. Vì vậy, đối với họ việc mắc sai
lầm, khuyết điểm là khó tránh. Thông qua tự phê bình và phê bình mới có
14


thể chỉ ra cặn kề những nguyên nhân dẫn tới sai lầm, khuyết điểm và đề ra
biện pháp khắc phục. Qua đó giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng
lực công tác của cán bộ đảng viên để họ trở thành những cán bộ, đảng viên
khác tránh những sai lầm, khuyết điểm tương tự.
Tự phê bình và phê bình là một trong những đặc trưng quan trọng về
phong cách của Lênin - nít của người cán bộ. Việc thường xuyên phân tích,
xem xét đánh giá có tính phê phán ưu điểm, khuyết điểm của những hoạt
động tổ chức đảng viên và cả tất cả cán bộ, đảng viên. Đó chỉ có thể bằng tự
phê bình và phê bình thường xuyên của tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên
mới có thể dần dần hình thành và củng cố phong cách đó. Đó chính là một
trong những đặc trưng quan trọng về phong cách Lênin của người cán bộ
đảng viên.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận đảng viên là những cán
bộ có chức, có quyền dễ mắc những bệnh như tham ô, móc ngoặc, gia
trưởng, độc đoán, trù dập cán bộ dưới quyền và quần chúng, sự trao đổi, tính
nhu nhược, kèn cựa địa vị, cục bộ cũng dễ nảy nở và phát triển trong Đảng.
Trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội

chủ nghĩa và mở rộng quan hệ với các nước, bên cạnh những mặt tích cực,
những mặt tiêu cực của tiêu chí đó đang hàng ngày hàng giờ tác động mạnh
mẽ đến đội ngũ cán bộ đảng viên làm cho một số tha hoá về đạo đức, lối
sống thoái hoá về phẩm chất chính trị,... Những tệ nạn nêu trên làm giảm uy
tín của Đảng trong nhân dân, nguy hại cho sự nghiệp cách mạng. Đó là chưa
kể một số người vào Đảng vì mục đích và động cơ không đúng, một số
người bị kẻ xấu, kẻ địch mau chuộc. Để khắc phục những thiếu sót đó,
không thể sử dụng một cách tuỳ tiện biện pháp tổ chức hành chính và pháp
lý, mà phải chủ yếu sử dụng phương pháp giáo dục thuyết phục, trong đó tự
phê bình và phê bình là việc làm thuyết phục. Nó đã được Chủ tịch Hồ Chí
15


Minh xem là thang thuốc hay nhất để sửa chữa những sai lầm khuyết điểm.
Với những đảng viên giác ngộ thấp, trình độ năng lực còn hạn chế và những
đảng viên khoái hoá, biến chất nhưng có thể sửa chữa được những sai lầm,
khuyết điểm thì Đảng cần phải giáo dục họ. Còn đối với những sai phạm lớn
cần đưa ra khỏi Đảng. Đặc biệt phải bằng mọi cách phát hiện và đưa ngay
những phần tử cơ hội, thù địch ra khỏi Đảng và trừng trị theo pháp luật.
3. Tự phê bình và phê bình là biện pháp căn bản củng cố và phát
triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng.
Trong qúa trình vận động, phát triển trong Đảng cũng có những mâu
thẫun, những ý kiến khác nhau, sự không ăn khớp trong phong cách công tác
của một số cán bộ, đảng viên,... Đó chỉ là những mâu thuẫn, những bất đồng
có tính tích cực trong nội bộ Đảng, nhưng nếu không được giải quyết kịp
thời, thảo đáng có thể gây nên tình trạng mất đoàn kết và cá nhân như tự cao,
tự đại, cực bộ, kéo bè, kéo cánh, ảnh hưởng không nhỏ đến sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Nhờ tự phê bình và phê bình nghiêm túc, đúng đắn
những mâu thuẫn, bất đồng, những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân được giải
quyết có lý, có tình, không để chúng tích tụ lại từ nhỏ thành lớn, phá hoại

khối đoàn kết thống nhất của Đảng. Không để những người thiếu thiện chí
đối với Đảng lợi dụng những bất đồng, những mâu thuẫn đó mà gây chia sẻ
Đảng.
Thấy rõ điều đó, trong suốt qúa trình lãnh đạo phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân, Mác - Ăngghen, Lênin đặc biệt xây dựng và củng cố
sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức của chính Đảng của
quần chúng công nhân. Các ông luôn luôn cảnh giác với những biểu hiện
biện phái, phe nhóm, chia sẻ nội bộ, đấu tranh quyết liệt và đòi loại trừ ngay
khỏi Đảng những dấu hiệu của sự chia rẽ, khẳng định tự phê bình và phê
bình là biện pháp căn bản để loại trừ tình trạng đó, xây dựng Đảng thành
16


một khối đại đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng khẳng định: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố
và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng, phải có tính đồng chí thương
yêu lẫn nhau”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng Cộng sản Việt Nam thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân.
Tổng kết qúa trình khắc phục tình trạng mất đoàn kết trong một số tổ
chức đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định thường xuyên tự phê bình và phê bình là một biện pháp
“đặc biệt” cần thực hiện để tăng cường sự đoàn kết thống nhất của Đảng. Để
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn
mạnh: “Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh
đạo. Đối với những cấp uỷ, tổ chức Đảng nhưng phạm nguyên tắc tập trung

dân chủ, cán bộ kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, cấp uỷ, cấp trên
phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm minh những người có
khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ, nơi không có khả năng khắc phục
khuyết điểm thì phải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của điều
lệ Đảng”.
III. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình, có lúc Hồ Chí Minh coi tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, cũng có khi Người coi đó
là nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng. Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí

17


Minh rất nhấn mạnh tự phê bình và phê bình coi đó là vũ khí sắc bén để làm
Đảng trong sạch vững mạnh.
Dù cách gọi khác nhau có lúc là “vũ khí sắc bén” là quy luật hoặc
“quy luật phát triển” của Đảng, nhưng quan niệm một cách tổng thể trong
các nội dung xây dựng Đảng thì tự phê bình và phê bình chính là một
nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Người đời không phải là thánh thần, không ai
tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ
không biết kiên quyết sửa nó đi. Từ này, tôi mong đồng bào ra sức giúp tôi
sửa chữa những khuyết điểm đó bằng nhiều cách, trước hết là bằng việc thi
hành cho đúng và triệt để những mệnh lệnh của chính phủ.
Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho
phần tốt của con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi
đó là thái độ của người cách mạng. Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải thật
thà, tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố
gắn sửa chữa và quý sửa chữa lẫn nhau. Vì vậy, thang thuốc hay nhất là thiết
thực phê bình và tự phê bình.

Nhận thức sâu sắc rằng: Đảng bao gồm nhiều thành phần, tầng lớp
trong xã hội có nhiều người rất trung thành, rất kiên quyết cách mạng. Song
trong Đảng cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nét những
khuyết điểm của xã hội bên ngoài lấy ngâm và Đảng Cộng sản Việt Nam
gồm những người có tài, có đức. Phần đông những người hăng hái nhất,
thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, Đảng cảm thấy nhất đều ở trong
Đảng ta. Tuy vậy, không phải là người ngoài đều tốt, việc việc đều hay” do
đó Đảng phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để làm dần hết khuyết
điểm, ưu điểm ngày càng nhiều thêm. Cách phê bình mục đích phê bình cốt

18


để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc tốt
hơn đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ.
Mỗi cán bộ, đảng viên hằng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa
chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như vậy trong Đảng sẽ không có
bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng.
Tự phê bình và phê bình “triệt để, thật thà, không nể nang, không
thêm bớt” Hồ Chí Minh nhấn mạnh: nếu không kiên quyết, thực hiện tự phê
bình và phê bình thì cũng giống như giấu giếm bệnh tật của mình, không
giám uống thuốc, để bệnh tật ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính
mạng. Cách phê bình “thành thật” “thấm đượm” “lòng nhân ái”,....không
phải để xói mòi, phê bình phải “công khai” như vậy phải tránh thái độ “lững
mắt bắt chim” thái độ “giấu bệnh sợ thuốc” một thái độ không thật thà,
không đúng đắn. Mặt khác, việc tự phê bình và phê bình phải có “tính chất
xây Đảng” “không nửa mai, nói xấu” “chớ phê bình lung tung không chịu
trách nhiệm” không được trù dập người phê bình.
Bên cạnh tính chất kiên quyết trong tự phê bình và phê bình. Hồ Chí
Minh rất chú trọng tới cái tâm trong sáng trong sự hoạt động Đảng. Hồ Chí

Minh viết di chúc từ tháng 5/1965. Từ đó cho đến năm 1969, năm nào
Người cũng bổ sung, có năm bổ sung rất nhiều, riêng năm 1966 Người chỉ
bổ sung một câu “phải có tính đồng chí yêu thương lẫn nhau”.
1. Tính Đảng:
Tính Đảng của tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải đứng trên cơ sở
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng để phê bình và tự phê bình. Tính Đảng của tự
phê bình và phê bình là phải đấu tranh không khuôn nhượng với mọi tư

19


tưởng và hoạt động sai trái, không chấp nhận tính thụ động, bàng quan với
những sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí mình.
Tính Đảng của tự phê bình và phê bình là căn cứ để phân biệt ranh
giới trong tự phê bình và phê bình của Đảng đối với tự phê bình của những
lực lượng khác, nhất là những lực lượng đối lập với Đảng vì mục đích, động
cơ cá nhân cực bộ,...
Để giữ vững tính Đảng của tự phê bình và phê bình, cán bộ đảng viên,
không chỉ nhận thức sâu sắc và tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, mà còn phải tham gia tích cực vào việc thực hiện và bảo vệ
nó khỏi sự tấn công, xuyên tạc của kẻ thù.
Lênin đã lên án và phê phán cực liệt tình trạng phê bình vô căn cứ, trái
với những chuẩn mực, quy định của Đảng. Người dạy rằng: cần phải ủng hộ
phê bình và sửa chữa đối với bất kỳ một hệ thống tổ chức nào nhưng không
được trái ngược với nguyên tắc của Đảng.
Người còn nói: Trong cuộc đấu tranh thực tế chống bè phái, mỗi tổ
chức của Đảng phải hết sức kiên quyết không dung thứ bất cứ hoạt động bè
phái nào. Sự phê bình tuỵêt đối cần thiết đối với những khuyết điểm của
Đảng phải đưa ngay lập tức, dưới hình thức rõ ràng nhất, không lề mề quan

liêu cho các cơ quan lãnh đạo địa phương và Trung ương của Đảng xem xét
và quyết định.
Ngoài ra về mặt tổ chức phát biểu, người có ý kiến phê bình phải chú
ý đến hoàn cảnh Đảng bị kẻ thù bao vây tứ phía; còn về mặt nội dung thì
người đó phải tham gia trực tiếp vào hoạt động của các Xô Viết và của Đảng
để kiểm tra trong thực tế, xem những sai lầm của Đảng, hoặc một số đảng
viên đã sửa chữa như thế nào. Mọi sự phân tích đường lối chung hoặc sự áp
dụng kinh nghiệm thực tế của Đảng, việc nghiên cứu những phương pháp
của những sai lầm,v.v.. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng đều không được
20


đưa cho những nhóm thiết lập trên mọi “cương lĩnh” nào đó,v.v.. thảo luận
trước, mà tuyệt đối phải đưa trực tiếp cho tất cả đảng viên thảo luận. Để thực
hiện việc đó Đại hội quyết định xuất bản một cách đều dặn hơn nữa tờ
“chuyên san thanh luận” và những vắn tắt đặc biệt, đồng thời luôn luôn cố
gắn làm hơn sự phê bình đi vào thực chất của vấn đề, mà tuyệt đối không
được dùng những hình thức nào có thể làm lợi cho kẻ thù, giai cấp của giai
cấp vô sản.
Theo Hồ Chí Minh: “ Mỗi cán bộ đảng viên cần phải có tính đảng mới
làm được việc, kém tính đảng thì việc gì cũng không làm nên.
Tính Đảng theo Hồ Chí Minh có nội dung như sau:
Một là, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trước hết.
Hai là, việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cận thận và phải làm đến
nơi đến chốn.
Phải hiểu rằng: Đảng có hiểu rõ tiến hành thì đạt chính sách mới đúng,
mà muốn Đảng hiểu rõ thì đảng viên và cán bộ phải điều tra và báo cáo rõ
ràng tình hình từng xã, từng huyện, từng tỉnh, từng khu.
Nếu không biết rõ tình hình mà đặt chính sách thì kết quả là “nỗi
vuông úp vung tròn”, không ăn khớp gì hết.

Ba là, lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
Vì kém tính đảng mà có những bệnh như sau này.
Bệnh ba hoa,

Bệnh chủ quan

Bệnh địa phương

Bệnh hình thức

Bệnh ham danh vị

Bệnh ích kỷ

Bệnh thiếu kỷ luật

Bệnh hư hoá

Bệnh cẩu thả (gặp sao hay vậy)
Bệnh xa quần chúng

Bệnh thiếu ngăn nắp.

Bệnh lười biếng.

21


Mắc phải một bệnh trong mười bệnh đó tức là hỏng việc. Vì vậy,
chúng ta phải ráo riết dùng tự phê bình và phê bình để giúp nhau chữa cho

hét những bệnh ấy có như thế Đảng mới phát triển.
Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình.
Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau Mục đích là cho mọi
người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm.
Về mặt Đảng thì phải thực hành những điều sau đây:
1. Phải nghiêm ngạt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực
hành những Nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết
một đường thi hành một nẻo.
2. Nơi nào sai lầm, ai sai lầm thì lập tức sửa chữa, kiến quyết chống
thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng” phê
bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật- mục đích là cốt sửa
chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không phải
làm cho đồng chí khó chịu, nản lòng.
3. Phải kiên quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt đối
phục tùng tổ chức, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, địa phương phải phục tùng Trung ương.
4. Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự
phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng,
của dân tộc trên hết, kiên quyết chống bệnh tự mãm tự túc, tự tư tự lợi, kêu
ngạo, ba hoa. Phải thực hành khẩu hiểu “chí công vô tư, cần kiệm, liêm,
chính” vì đó là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc.
2. Tính giáo dục
Tự phê bình và phê bình của Đảng được thực hiện đúng đắn, nghiêm
túc, tự bản thân nó đã chứa đựng tính giáo dục sâu sắc. Tự phê bình và phê
22


bình của Đảng Cộng sản nhằm mục đích củng cố Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong

Đảng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, phong cách công tác, phát triển trí tuệ,
nâng cao năng lực của cán bộ, đảng viên,.... Đây là những điểm thể hiện rõ
nhất tính giáo dục sâu sắc của tự phê bình và phê bình của Đảng Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính giáo dục của tự phê bình và phê
bình. Người viết: “Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch rõ ràng, mà
ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là
để khiến khích nhau, bắt trước nhau”.
Người lại nói: Nếu phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí
mình, của Đảng và Chính phủ, thì địch sẽ lợi dụng mà không kích ta.
Nói vậy là lỗi lầm to, khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình
cũng như ưống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không
giám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng không chết “cũng la lết
quả dưa”.
Nói về từng người, nê nang không phê bình để cho đồng chí mình cứ
sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm
mà không chứa cho họ. Nể nang mình, không giám tự phê bình để cho
khuyết điểm của mính chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc
cho mình.
Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
những cái đó, vì đầu mà không khuyết điểm đó, xét rõ hoản cảnh sinh ra
khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế
nào là Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.

23


Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy
dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình tức là “quan liêu hoá”, tức là
tự mãm tự túc, tức là “ mèo khen mèo dài đuôi”.

Phê bình không phải là để công khích, để nói xấu, để chửa rửa. Đó
chính là một cách giáo dục rất quan trọng và hiểu quả.
3. Tính nguyên tắc.
Tự phê bình và phê bình của Đảng phải tuân theo các nguyên tắc chủ
yếu sau đây:
a./ Phải tuân thủ nghiêm ngạt cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, quy chế, quy định hoạt động của tổ chức là
sự cụ thể hoá, sự bùm bọc của nguyên tắc.
Cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là
những định hướng, những điều bắt buộc mọi hoạt động của Đảng và từng
đảng viên tuân theo. Những nguyên tắc xây dựng tổ chức và hoạt động của
Đảng, những quy định và những chuẩn mực sinh hoạt của Đảng là những
căn cứ để phân tích, xem xét, đánh giá ưu, khuyết điểm của tổ chức Đảng và
cán bộ dảng viên. Nó bảo đảm cho tự phê bình và phê bình không trái ngược
với cương lĩnh, đường lối của Đảng. Lênin đã dạy rằng: cần phải ủng hộ phê
bình và sửa chữa đối với bất kỳ hệ thống tổ chức nào, nhưng không được trái
với những nguyên tắc của Đảng.
b./ Tự phê bình và phê bình tôn trọng và bảo vệ lợi ích của toàn Đảng
Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải luôn luôn đặt lợi ích chung
của Đảng lên hàng đầu. Kịch liệt lên án việc tự phê bình và phê bình vì lợi
ích riêng, cục bộ, địa phương làm giảm uy tín, hy sinh lợi ích của toàn Đảng.
c./ Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành trong tổ chức
Đảng

24


Tại Đại hội II Đảng Công công nhân dân chủ xã hội Nga, Lênin đã
kịch liệt lên án bọn Mensêvích khi chúng phê phán bừa bãi những người
Bônsêvích ở ngoài Đại hội “Theo tôi thì những lời đồn đại và những câu

chuỵên ngồi lê đôi mách ở bên ngoài đại hôi về phẩm chất và hành động của
các cá nhân là điều thiếu nhân cách và không xứng đáng,... Theo tôi thì dùng
những câu chuyện ngồi lê đôi mách ấy để tiến hành đấu tranh ở bên ngoài
đại hội thì chẳng khác nào dùng thủ đoạn đơn đạt”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịch liệt phê phán hành động phê bình ở bên
ngoài tổ chức, Người đã coi hành động đó là một trong những biểu hiện của
“cá nhân”.
- Không được dùng dân chủ để gây chia rẽ.
Tự phê bình và phê bình trong Đảng phải được tiến hành một cách
dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: thảo luận- khai hội thảo luận và phê
bình.
Trong lúc thảo luận mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến,
dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng
quanh. Những kết luận trong cuộc thảo luận phải có cấp trên duyệt y mới là
chính thức.
Đảng Cộng sản kịch liệt lên án và kiên quyết xử lý những kẻ lợi dùng
dân chủ tiến hành phê bình để vu khống bôi nhọ. Đảng và cán bộ, đảng viên,
gay chia sẽ nội bộ, phá hoại Đảng. Đảng ủng hộ việc phê bình đúng với
cương lĩnh, điều lệ, đường lối của Đảng hướng tới đoàn kết thống nhất nội
bô.
4. Tính khách quan, trung thực, chân thành và công khai.
- Tính khách quan: chính là tôn trọng thực tế không vội vàng quý kết
trung chụp, nhất là với khuyết điểm liên quan đến sinh mệnh chính trị của
cán bộ, đảng viên và tổ chức.
25


×