PHẦN I. LÝ THUYẾT ĐÁ CẦU
I.1. Sơ lược lịch sử, thực trạng và xu hướng phát triển, ý nghĩa và tác dụng của
môn đá cầu.
I.1.1. Sơ lược lịch sử đá cầu ở Việt Nam
a, Lịch sử của đá cầu
Những tư liệu đầu tiên về Đá cầu là vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyền tại
Trung Quốc. Người Trung Quốc đã chơi đá cầu (Ti Jian Zi). Ít nhất trong 1000
năm, môn thể thao này đã được chơi lần lượt tại các nước Châu Á. Tại Việt Nam,
Đá cầu được hình thành và phát triển từ các trò chơi dân gian như tâng cầu,
chuyền cầu….
Người ta cho rằng đá cầu phát triển từ môn thể thao Tsu Chu, môt môn thể thao
giông như là bóng đá. Đá cầu đòi hỏi những tố chất như là sự nhanh nhẹn khéo léo của
thể chất đồng thời cần sự tập trung khi tham gia. Chính vì những điều này, từ rất lâu, đá
cầu được dùng như những bài học đầu tiên trong tập luyện quân sự ở Trung Quốc.
Đây là một môn thể thao đơn giản. Một vài đứa trẻ có thể làm được một quả cầu với
đồng xu dùng để làm đế cầu và lông gà ở phần trên cua quả cầu. Ngày này, môn thể thào
này được chơi ở mọi trường học ở Trung Quốc. Đá cầu đã phát triển từ một hoạt động
luyện tập quân sự thời cổ xưa. Rất nhiều vị tướng Trung Hoa cổ đã dùng môn này nhằm
mục đích tập luyện và thư giãn cho quân đội. Đá cầu bát đầu phát triển vào thời nhà Hán
và Tống (207 – 906). Từ thời nhà Tống (960 – 1278) môn thể thao này được đổi tên là
Chien Tsu, từ này theo tiếng Trung Quốc nghĩa là “mũi tên”.
Môn thể thao này được chia ra làm hai loại: Đá cầu nghệ thuật và Đá cầu thi đấu.
Cả hai loại hình này có chung một điểm là không để trái cầu rơi xuống đất. Quả cầu
được đá bởi chân, đầu gối, đùi, thân mình, nhưng không bao giờ được dùng tay.
Giải đầu mang tính quốc gia đầu tiên của đá cầu được tổ chức tại Trung Quốc vào
năm 1933. Tại đại hội thể dục thể thao toàn Trung Hoa, năm 1933, tại Nam Kinh, đá cầu,
vật và một vài môn thể thao khác đã được coi là môn thể thao chính thức quốc gia (Cộng
Hòa Trung Hoa). Từ năm 1984, đá cầu trở thành mộn thể thao quốc gia chính thức tại
Trung Quốc (Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa). Năm 1984, một nhóm các cổ động viên
nhiệt tình đã thành lập hội đá cầu không chuyên. Vào năm 1994, hiệp hội này đổi tên
thành liên đoàn đá cầu Hồng Kong.
Đá cầu tới Châu Âu trước thế chiến thứ hai, khi mà các vận động viên điền kinh
Trung Quốc đế từ tỉnh Giang Tô thực hiện môt màn trình diễn ở thế vận hội Olympic
Beclin 1936. Người Đức và các quốc gia khác đã vô cùng ấn tượng, và họ đã bắt đầu học
và chơi môn thể thảo mang tính biểu diễn đó. Giải vô địch đá cầu thế giới là một sự kiện
thường niên kể từ khi Liên đoàn đá cầu thế giới (ISF – International Shuttlecock
Federation) được thành lập vào năm 1999. Từ đó, các quốc gia đã tiến hành tổ chức các
giải đấu hàng năm.
Theo thời gian, môn thể thao này đã thu được những sự nghi nhận đáng kể, nó đã
được đưa vào là môn thể thao thi đấu của Đại hội thể theo các nước Đông nam Á năm
2003. Các thành viên của ISF là Trung Quốc, Đài Loan Trung Quốc, Phần Lan, Đức, Hà
Lan, Hungary, Lào, Việt Nam, Hy Lạp, Pháp, Rumani, Serbia … Trong đó, Trung Quốc
và Việt Nam được coi là hai nước mạnh nhất, trong khi đó Hungary và Đức là hai nước
được coi là mạnh nhất Châu Âu. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2003, Phần Lan, Pháp, Đức,
Hy Lạp, Hungary, Romani và Serbia đã thành lập Liên đoàn đá cầu châu âu (SFE –
Shuttlecock Federation of Europe) tại (Hungary).
b, Lịch sử đá cầu ở Việt Nam
Đá cầu được hình thành và phát triển từ các trò chơi dân gian như tâng cầu, chuyền
cầu….
Đá cầu có một quá trình phát triển thăng trầm theo lịch sử dụng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Có thời kỳ phát triển rực rỡ: từ Vua, quan quý tộc đến tầng lớp nhân dân
lao động, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược….ở đâu môn đá cầu
cũng được ưa chuộng.
Theo sử sách đã ghi chép và miêu tả thì Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) lãnh tụ cuộc
khởi nghiã chống quân xâm lược nhà Đường (Trung Quốc) – năm 722, đã khuyến khích
và tổ chức cho quân đội thường xuyên tập luyện, giải trí bằng trò chơi đá cầu nhằm rèn
luyện sức khoẻ và tinh thần cho binh sỹ. Nhân dân quanh vùng (Vạn Xuân) dần dần
cũng tập luyện đá cầu, phong trào ngày càng phát triển. Trò chơi này thường xuyên được
tổ chức trong những ngày lễ mừng chiến thắng của dân tộc.
Lịch sử đã ghi nhận: từ thế kỷ thứ VIII, ở vùng Vạn Xuân (Nam Đàn- Nghệ An),
ngày xuân có tục lệ thi đá cầu rất sôi nổi và hào hứng. Nó không những hấp dẫn đối với
người chơi trong sân, mà còn thu hút đông đảo cả người xem cổ vũ bên ngoài.
Đến thời nhà Lý, đất nước thái bình, mùa gặt hái xong cũng là lúc các cuộc vui
chơi được tổ chức để mừng vụ mùa bội thu. Trong các cuộc vui này, luôn có trò chơi đá
cầu, từ trong triều đến ngoài nội ai cũng mê đá cầu, thái tử cũng học đá cầu. Nhà Vua
còn cho phép đá cầu trước bệ rồng tại điện Thiên An trong kinh thành.
Năm 1085, sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Tống, nhà Lý đã tổ chức linh đình
hội thi đá cầu mừng chiến thắng.
Đời Vua Lý Nhân Tông (1072-1127), đã quan tâm và tạo điều kiện khuyến khích
trò chơi đá cầu phát triển. Mùa xuân năm 1126 (mùng 1 tháng 2 năm Đinh ngọ), nhà Vua
đến Thiên An xem các vương hầu đá cầu.
Kế thừa đời nhà Lý, trò chơi đá cầu tiếp tục được phát triển ở thời nhà Trần, ở thời
này có Trương Hán Siêu nổi tiếng là người có tài đá cầu được Vua yêu, quan dân kính
nể, ông có biệt danh “thôn cầu cước”.
Đời Vua Trần Anh Tông trị vì (1293-1314), có một vị quan tên là Trần Cư “giỏi
đánh đàn, bắn cung và đá cầu được Vua quan và nhân dân nể phục. Dựa vào kinh
nghiệm của bản thân và tham khảo trong dân gian, ông đã viết ra một số lý thuyết của trò
chơi đá cầu, có thể nói đây là những tài liệu đá cầu đầu tiên của Việt Nam, làm tiền đề để
những người chơi đá cầu sau này có thể tiếp thu, kế thừa và hoàn thiện cho môn đá cầu
ngày nay.
Ở thời nhà Trần, có quy định chính thức trong hệ thống giáo dục thể chất cho tầng
lớp quý tộc, tướng sĩ trong quân đội, họ phải thường xuyên tập luyện “cưỡi ngựa, bắn
cung, đá cầu..”
Đến thời nhà Lê, trò chơi đã đến mức tài nghệ điêu luyện, có nhiều người chơi cầu
giỏi.
Đến thời nhà Nguyễn, trò chơi đá cầu vẫn được duy trì, người chơi cầu giỏi thường
là dân thành thị thuộc tầng lớp con nhà khá giả.
Trải qua bao thăng trầm của dân tộc, trò chơi đá cầu vẫn tồn tại và phát triển rộng
khắp, nó mang đặc thù của từng giai đoạn lịch sử, theo truyền thống của từng địa
phương (Bắc, Trung, Nam).
Thời Pháp thuộc, nhân dân ta sống trong cảnh cơ cực lầm than, những trò chơi dân
gian không có điều kiện phát triển, nhưng do sự ham hích của các tầng lớp nhân dân nên
trò chơi đá cầu vẫn tồn tại và lưu truyền trong dân gian. Trong thời kỳ này, những trò
chơi dân gian bị thu hẹp lại nhường chỗ cho các môn thể thao hiện đại: đua xe, đua
thuyền, quyền anh, bóng đá…
Thời kỳ hoà bình lập lại (10/1954 – 4/1975), tuy được Đảng và nhà nước quan tâm,
xong thực tế dân tộc Việt Nam phải đối mặt với cuộc chiến tranh với đế quốc Mỹ, chính
vì vậy những hoạt động thể thao nói chung và đá cầu nói riêng vẫn chưa có đủ điều kiện
để phát triển, ở thời kỳ này trò chơi đá cầu tồn tại mang tính tự phát tại các trung tâm,
trường học là chủ yếu.
Trong những năm 1972 – 1974, có tổ chức được một số giải tại các trường phổ
thông ở khu vực phía Bắc.
Sau tháng 4/1975, đất nước thống nhất. Đá cầu nói riêng và các môn thể thao nói
chung được tạo điều kiện phát triển. Trò chơi đá cầu đã từng bước được đặt đúng vị trí
của nó là một môn thể thao dân tộc.
Từ cuối những năm 70 – đầu những năm 80 của thế kỷ XX, môn đá cầu đã từng
bước được khôi phục và phát triển trở thành một môn thể thao dân tộc độc đáo nhờ rất
nhiều cá nhân tâm huyết. Trong đó phải kể tới ông Nguyễn Khắc Viện (nhà văn hoá lớn),
ông Đỗ Chỉ (GV văn người Bắc Giang), ……. là những người có công lớn trong việ
khôi phục môn đá cầu của dân tộc. Ông Nguyễn Khắc Viện, có trích trong sách: “trong
võ thuật có nhiều đòn đá, và từ thời xa xưa chúng ta đã có trò chơi đá cầu. Đây là hình
thức tập luyện võ, vì khi đá cầu người tập phải sử dụng linh hoạt các thế trong cước pháp
(đấu pháp bằng chân) để đá trúng vào mục tiêu rất nhỏ như đá gối, đá vòng cầu (cung),
đá cạnh bàn chân, đá hất, đá búng, đá móc, đá gót….”.
Một trong những hình ảnh khó phai nhạt trong lòng những người hâm mộ: vào
mùa hề năm 1983, BS Nguyễn Khắc Viện (ở độ tuổi 70) dẫn đầu đoàn VDV Hà Nội
tham gia thi đấu giao hữu tại Hải Phòng. Trong buổi khai mạc, ông đã tham gia biểu diễn
các kỹ thuật cơ bản đá cầu trước sự ngưỡng mộ của của hàng ngàn khán giả.
Tiếp theo phải kể đến là thầy giáo Đỗ Chỉ - giáo viên trường cấp 3 Ngô Sỹ Liên là
người có công lớn khi đặt những “viên gạch” đầu tiên cho phong trào Đá cầu Bắc Giang.
Những người yêu thích môn Đá cầu Bắc Giang không thể quên hình ảnh người thầyy
bình dị luôn mang bên mình hành trang một cuộn dây làm lưới, vài quả cầu lông gà tự
chế, đạp chiếc xe đạp "cà tàng" để đi đến khắp các trường học trong tỉnh vận động,
hướng dẫn các học trò chơi môn Đá cầu với tất cả lòng say mê và nhiệt huyết.
Vụ TDTT Quần chúng, đơn vị đầu tiên quản lý môn đá cầu, cũng được coi là nơi
hội tụ nhiều cán bộ tâm huyết với đá cầu như ông Lương Kim Trung, ông Trần Duy Ly,
ông Trương Quang Trung (nguyên là các Vụ trưởng)…đã có công lớn cho việc thúc đẩy
sự ra đời “luật đá cầu”.
Ngày 14/8/1985, bộ luật đầu tiên của môn đá cầu ra đời, mặc dù còn đơn giản chưa
đầy đủ, xong nó đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của đá cầu, từ một trò
chơi dân gian trở thành một môn thể thao dân tộc. Luật quy định môn đá cầu có 5 nội
dung thi đấu cá nhân.
Bắt đầu từ năm 1986, tổ chức giải đá cầu đầu tiên:”Giải đá cầu báo thiếu niên tiền
phong lần thứ nhất” tổ chức tại Thị xã Bắc Giang. Từ đây trở đi, giải đá cầu toàn quốc và
khu vực hàng năm được tổ chức luân phiên tại nhiều địa phương trên cả nước.
Năm 1990, đá cầu được đưa vào là một môn thi đấu chính thức tại Đại hội TDTT
toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội. Từ năm này, đá cầu có hệ thống thi đấu 2 giải lớn một
năm:
- Giải đá cầu vô địch quốc gia.
- Giải đá cầu vô địch trẻ và thiếu niên toàn quốc
Năm 1992, đá cầu được đưa vào là môn thi đấu chính thức của ngày hội thể thao
học đường, HKPĐ lần thứ III tại Đà Nẵng.
Ngày 1/12/1993, Tổng cục TDTT ban hành Luật đá cầu mới gồm 6 chương 32
điều, luật này cụ thể chi tiết hơn rất nhiều, đặc biệt có quy định quả cầu nhựa 93, tính
chất thi đấu cá nhân và đồng đội giống môn cầu lông.
Năm 1999, giải đá cầu Quốc tế được tổ chức tại Hà Nội, thành lập Liên đoàn đá
cầu thế giới ISF.
Cũng trong năm 1999, Việt Nam ban hành luật sửa đổi bổ xung lần thứ nhất, đưa
nội dung đá đội 3 người vào, tăng nội dung đá cầu lên 7 nội dung. Bắt đầu áp dụng vào
giải vô địch toàn quốc tại Đà Nẵng.
Năm 2000, tổ chức giải đá cầu vô định thế giới lần thứ nhất tại Hungary.
Năm 2001, tại giải vô địch quốc gia tại Đồng Tháp, thay quả cầu 201, quả cầu do
tác giả Vạn Ngọc- giảng viên Đại học Mỹ thuật Hà Nội làm ra….tăng kịch tính trong
trận.
Năm 2002, sửa đổi bổ xung luật đá cầu lần thứ 2, làm rõ hơn 1 số điều trong luật.
Cũng trong năm 2002, mở 2 lớp tập huấn trọng tài đầu tiên tại hai khu vực Tư Sơn (Bắc)
và Đồng Tháp (Nam).
Năm 2003, đá cầu được đưa vào Đại hội thể thao khu vực (Seagame 22) tại Vĩnh
Phúc, Việt Nam giành 7/7 bộ huy chương, góp phần vào thành công của đoàn thể thao
Việt Nam.
Năm 2005, Uỷ ban TDTT quyết định đưa bộ môn đá cầu về Vụ TTC 2 quản lý, mở
ra bước ngoặt lớn cho đá cầu (hoà nhập quốc tế 100%).
Năm 2006, tổ chức Giải đá cầu vô địch đồng đội toàn quốc (đồng đội nam và đồng
đội nữ), đưa nội dung thi đấu của đá cầu lên 9.
Năm 2007, hướng tới mục tiêu phát triển môn đá cầu trên thế giới, luật 2007 ra đời,
luật này áp dụng gần như 100% luật quốc tế. Chính thức áp dụng tại giải vô địch toàn
quốc 2007 tại TT Huế.
Tháng 8/2009, đá thử nghiệm nội dung đồng đội đôi trong giải vô địch đồng đội tại
Bắc Giang, đưa số nội dung thi đấu của môn đá cầu lên 10.
11/2009, đá cầu được đưa vào thi đấu chính thức tại AIG tổ chức tại Hà Nội, Việt
Nam giành 5/6 bộ huy chương.
Trải qua quá trình phục hồi và phát triển, đá cầu được lựa chọn là một môn học
trong trương trình nội khoá và ngoại khoá của các bậc học tại Việt Nam.
I.1.2. Thực trạng và xu hướng phát triển đá cầu ở Việt Nam
a, Thực trạng vị trí môn đá cầu trong hệ thống các môn thể thao
Quá trình tồn tại, phát triển và hoàn thiện môn thể thao đá cầu ở nước ta có thể chia
thành các thời kỳ sau:
+ Giai đoạn phát triển tự nhiên (khoảng từ năm 1960 về trước).
+ Giai đoạn hình thành ý tưởng và tổ chức thực hiện cải tiến như một trò chơi
mang tính thi đấu (khoảng năm1960 đến năm 1985).
+ Giai đoạn tương đối hoàn thiện và chính thức chuyển thành môn thể thao thi đấu
(từ năm 1986 đến nay)
Môn đá cầu đã được các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương quan tâm
và tạo điều kiện phát triển, đồng thời nó được đông đảo các tầng lớp nhân dân đặc biệt là
thế hệ trẻ tham gia tập luyện. Trong quá trình khôi phục và phát triển môn đá cầu của
Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến những người có tâm huyết, đóng góp
nhiều công sức cho việc duy trì từ một trò chơi đá cầu dần trở thành môn thể thao thi đấu
. Đó là nhà giáo Đỗ Chỉ(1) Nguyên là GV dạy thể dục Trường cấp II Ngô Sỹ Liên ở Thị
xã Bắc Giang và ông Giáp Văn Nhang nguyên là cán bộ của Phòng thể thao quần chúng
- Sở TDTT Hà Bắc (Cũ).
Trước xu thế phát triển của phong trào TDTT nói chung và thể thao dân tộc nói
riêng, được sự quan tâm của Tổng cục TDTT (nay là UB TDTT) và Vụ Thể thao quần
chúng - mà trực tiếp là Ông Lương Kim Chung nguyên là Vụ trưởng Vụ này và tập thể
cán bộ của vụ cùng với Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện(2) nguyên là Giám đốc nhà xuất bản
Ngoại văn đã lên đường sang Hà Bắc(Cũ ), để gặp gỡ trao đổi và thống nhất một số luật
lệ của trò chơi đá cầu (chủ yếu là đá đôi) với ông Đỗ Chỉ và Ông Nhang . Sau nhiều lần
gặp gỡ, vừa động viên, giúp đỡ lẫn nhau vừa thống nhất một số quan điểm về luật lệ
cách tổ chức thi đấu trò chơi này..... có thể nói rằng đây là một trong những cơ sở ban
đầu cho sự ra đời của Luật đá cầu sau này. Cho đến ngày hôm nay, những hình ảnh khó
có thể phai mờ trong tâm trí của người hâm mộ môn đá cầu đó là mùa hè năm 1983, Bác
sỹ Nguyễn Khắc Viện (lúc đó ngoài 60 tuổi) dẫn đầu đoàn VĐV đá cầu Hà Nội tham gia
thi đấu giao hữu tại Hải Phòng. Trong ngày khai mạc, ông đã được mời tham gia biểu
diễn các kĩ thuật cơ bản của môn đá cầu.Ông lần lượt thực hiện các kĩ thuật tâng cầu
bằng má trong, bằng má ngoài, bằng mu bàn chân kĩ thuật đỡ ngực, kĩ thuật đỡ đầu, kĩ
thuật chuyền cầu ở các tư thế khác nhau. Mỗi khi ông thực hiện các kĩ thuật khó như đá
búng, đá vẩy (Bây giờ gọi là búng cầu, giật cầu) ở các khoảng cách khác nhau làm người
xem phải xiêu lòng thán phục. Đặc biệt là với kĩ thuật điêu luyện của mình, ông đã dùng
phần gót chân để tâng cầu, cứu cầu, chuyền cầu mà trước đây thường gọi là Talon. Với
tài nghệ điều khiển quả cầu của mình, Ông đã để lại những hình ảnh đẹp luôn đậm nét
trong lòng người hâm mộ đá cầu. Ông là một trong những người có nhiều công lao đóng
góp cho sự phát triển của môn đá cầu Việt Nam. Cùng với sự khôi phục và phát triển của
phong trào đá cầu trong dân gian là sự quan tâm và đầu tư của Trung ương cũng như của
địa phương đã được thể hiện rất rõ trên các lĩnh vực như: Đầu tư về sân tập luyện, các
trang thiết bị phục vụ cho tổ chức thi đấu nhưng điều đáng quan tâm nhất là: TC TDTT
đã cho ban hành bộ luật đầu tiên của môn đá cầu vào ngày14 tháng 08 năm 1985. Mặc
dù lúc này bộ luật còn đơn giản nhưng nó đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử môn
đá cầu (ở đây cũng cần lưu ý là trước đó đã có một số văn bản quy định về Luật đá cầu,
nhưng mới chỉ phù hợp cho từng địa phương mà thôi, chưa có tính thuyết phục cao khi
sử dụng cho giải quốc gia). Sau khi Luật đá cầu được ra đời năm 1986, giải đá cầu chính
thức - đầu tiên được tổ chức với tên gọi là: "Giải đá cầu báo thiếu niên tiền phong lần
thứ nhất". Giải được tổ chức tại Thị xã Bắc Giang - Giải này có 3 đội tham gia đó là: Đội
Hà Nội, Hà Bắc (cũ), Đồng Tháp. Đây là giải đầu tiên sử dụng quả cầu cao su trong thi
đấu, tại giải này chưa có sự phân độ tuổi trong thi đấu, chưa có nội dung thi đấu của nữ.
Cũng từ giải này trở đi hằng năm có các giải đá cầu lớn được tổ chức, đó là:
- Giải vô địch đá cầu toàn quốc.
- Giải đá cầu trẻ toàn quốc.
Đến năm 1990, môn đá cầu được đưa vào nội dung thi đấu chính thức của Đại hội
TDTT toàn quốc lần thứ hai - tại Hà Nội
Để đáp ứng cho phong trào phát triển ngày càng sâu rộng của môn đá cầu. Ngày
01-12-1993, TC TDTT đã ký quyết định phê duyệt ban hành Luật đá cầu mới gồm 6
chương 32 điều được áp dụng cho các giải thi đấu từ cấp cơ sở cho đến giải toàn quốc.
Năm 1994 tại giả trẻ toàn quốc (tổ chức tại Hà Nội) có 9 đội tham gia là: Hà Nội, Hà
Bắc (cũ), TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hải Hưng (cũ), Hải Phòng, Quảng
Nam - Đà Nẵng (cũ). (Có 46 VĐV trong đó có 13 VĐV nữ). Cũng trong năm 1994 giải
vô địch quốc gia được tổ chức tại Hà Nôi, có 7 đội tham gia: Hà Nội, Hà Bắc (cũ), TP
Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hải Hưng (cũ), Hải Phòng (Giải có 43 VĐV
trong đó có 18 VĐV nữ). Đây là giải lần đầu tiên phong cấp kiện tướng cho 4 VĐV và
13 VĐV đạt cấp I. Cũng tại giải này lần đầu tiên áp dụng luật đá cầu ban hành ngày 0112-1993 và đây là giải đầu tiên sử dụng quả cầu nhựa tiêu chuẩn (theo luật).
Tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ ba diễn ra tại TP Hải Phòng (từ ngày 05- 08
đến 10- 08- 1995), môn đá cầu là một nội dung thi đấu chính thức của đại hội. Tại giải
này có 11 đội của những trung tâm TDTT lớn về tham gia thi đấu như: Hà Nội, Hà Bắc
(cũ), TP.Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hải Hưng (cũ), Hải Phòng, Quảng Ninh,
CLB Quân đội, Bộ giáo dục và đào tạo, Bình Thuận. Giải đã đón tiếp 67 VĐV tham gia
thi đấu các nội dung (có 24 VĐV nữ). Kết qủa của giải vô địch quốc gia được trao cho
các VĐV các đoàn như sau: (Phong cấp kiện tướng cho 12 VĐV; cấp I cho 4 VĐV).
Năm 1997, Giải Trẻ đá cầu quốc gia được tổ chức tại Khánh Hoà với 7 đội tham
gia( có 65 VĐV- 31 VĐV nữ ) Gồm các tỉnh: Bắc Giang, Đồng Tháp, Bình Định, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, TP Hồ Chí Minh. Tại giải lần này TC TDTT đã phong
cấp I cho 7 VĐV. Năm 1998, Giải vô địch đá cầu quốc gia được tổ chức tại thị xã Hải
Dương, với 8 đội tham gia (có 71 VĐV - 34 nữ
Năm 1999, Giải trẻ đá cầu quốc gia được tổ chức tại thị xã Bắc Giang, có 10 đội
tham gia (có 113 VĐV trong đó có 46 VĐV nữ ) Gồm các tỉnh: Đồng Tháp, Hải Phòng,
Quảng Ninh, Thanh Hoá, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Liên hợp
Đường sắt, Hải Dương.(Đây là giải áp dụng luật mới sửa đổi bổ sung ngày 3-5-1999.
Lần đầu tiên đưa nội dung thi đấu ba người).
Năm 2000, Giải vô địch đá cầu quốc gia được tổ chức tại Quảng Ninh, có 9 đội
tham gia (có 63 VĐV trong đó có 28 VĐV nữ ). Gồm các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà
Nôi, Đồng Tháp, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, TP Hồ Chí Minh. Tại giải lần này
TC TDTT đã phong cấp kiện tướng cho 6 VĐV; cấp I cho 17 VĐV. Năm 2000, Giải trẻ
đá cầu quốc gia được tổ chức tại Đồng Tháp, có 9 đội tham gia (có 63 VĐV trong đó có
28 VĐV nữ ) Gồm các tỉnh: An Giang, Bắc Thái, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng
Tháp, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Ninh Bình, Quảng Bình, Nghệ
An, Hải Phòng, Hải Dương, Hà Tây, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Phú Yên, Lạng Sơn,
Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Thái Bình, Tây Ninh.
Năm 2001, Giải vô địch đá cầu quốc gia được tổ chức tại Đồng Tháp, có 7 đội
tham gia (gồm 68 VĐV trong đó có 35 VĐV nữ ). Đây là giải đầu tiên sử dụng quả cầu
đá Việt Nam - UB TDTT - 201. Tại giải lần này UB TDTT đã phong cấp kiện tướng cho
7 VĐV; cấp I cho 15 VĐV.
Năm 2001, Giải trẻ đá cầu quốc gia được tổ chức tại Thanh Hoá, có 7 đội tham gia
(gồm 80 VĐV trong đó có 33 VĐV nữ ). Tại giải này UB TDTT đã phong cấp I cho 8
VĐV. Gồm các tỉnh: Bắc Giang, Hà Nôi, Đồng Tháp, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh
Hoá, TP Hồ Chí Minh.
Năm 2002, Giải vô địch đá cầu quốc gia được tổ chức tại Khánh Hoà , có 9 đội
tham gia (gồm 84 VĐV trong đó có 29 VĐV nữ ). Gồm các tỉnh: Bắc Giang, Bộ GD và
ĐT, Hà Nôi, Đồng Tháp, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, TP Hồ Chí Minh, Khánh
Hoà. Tại giải này UB TDTT đã phong cấp kiện tướng có 17 VĐV; cấp I cho 25 VĐV.
Phong trào tập luyện đá cầu phát triển hết sức nhanh chóng, không những chỉ ở
trong nước và khu vực mà còn ở các nước châu lục. Đặc biệt là giải đá cầu thế giới lần
đầu tiên được tổ chức tại châu âu - Nước Hunggari năm 2000. Tại giải này đội tuyển
Việt Nam đã xuất sắc giành được 5 trên tổng số 7 bộ huy chương vàng. Giành giải nhất
toàn đoàn. Sau đó một năm - năm 2001. Đội tuyển Việt Nam đã bảo vệ thành công chức
vô địch của mình ngay trên đất nước Trung Quốc - Một cường quốc của môn đá cầu thế
giới. Với 5 trên 7 bộ huy chương. Giành giải nhất toàn đoàn. Tháng 11 năm 2002. Giải
Vô địch đá cầu thế giới được tổ chức tại CHLB Đức. Và một lần nữa đội tuyển Việt Nam
lại chứng minh vị trí số một của mình tại giải vô địch thế giới trước cường quốc đá cầu
như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hungari. Với 4 trên 7 bộ huy chương vàng.
Tại SEA GAMES 22- Việt Nam là nước chủ nhà. Tại đại hội này đoàn vận động viên đá
cầu Việt Nam đã dành trọn 7 bộ huy chương vàng về cho đất nước. Một lần nữa khảng
địng vị trí Việt Nam trên đấu trường quốc tế về môn đá cầu. Như vậy, trải qua một quá
trình tồn tại và phát triển, môn đá cầu đã khẳng định được vị trí của mình cũng như các
môn thể thao khác trong xã hội. Đặc biệt trong những năm gần đây môn đá cầu đã trở
thành một môn học trong chương trình nội khoá và ngoại khoá không chỉ ở các trường
chuyên nghiệp mà còn có trong tất cả chương trình học ở các trường phổ thông trên toàn
quốc.
Ngày nay môn đá cầu đã có hệ thống thi đấu chính thức hàng năm đó là :
- Giải vô địch quốc gia.
- Giải trẻ toàn quốc
- Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc
- Giải dân tộc nội trú toàn quốc
b, Xu hướng phát triển của môn đá cầu
Môn đá cầu là một môn thể thao dân tộc nằm trong hệ thống thi đấu các môn thể
thao của quốc gia. Đây là một trong những nội dung được sử dụng để rèn luyện và
GDTC cho HS cũng như sinh viên trong các trường chuyên nghiệp ở Việt Nam. Chính vì
vậy mà môn đá cầu không những được các ngành, các cấp quan tâm mà đặc biệt là được
UB TDTT đầu tư và định hướng phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu... Đặc biệt là
môn đá cầu lần đầu tiên được Ban tổ chức thống nhất đưa vào chương trình thi đấu của
SEAGAMES tổ chức tại Việt Nam vào cuối năm 2003. Như vậy, từ chỗ chỉ là một trò
chơi trong dân gian - rồi trở thành một môn thể thao dân tộc và từ đó cho đến nay môn
đá cầu đã không ngừng phát triển, nó đã không thể thiếu được trong hệ thống thi đấu các
môn thể thao của quốc gia cũng như trên thế giới. Bởi vì theo định kì hằng năm có các
giải đá cầu được tổ chức như sau:
- Giải Dân tộc nội trú toàn quốc.
- Giải của Hội khoẻ Phù Đổng quốc gia
- Giải Trẻ toàn quốc –
Giải Vô địch quốc gia .
- Giải Vô địch thế giới
- Giải của Đại hội thể thao Đông Nam á (2003 tại Việt Nam).
I.1.3. Ý nghĩa tác dụng của đá cầu đối với người tập
Cơ thể con người là một khối thống nhất, các cơ quan trong cơ thể có liên hệ mật
thiết với nhau. Bởi vậy khi tập luyện đá cầu sẽ tác động đến các tổ chức của các cơ quan
trong cơ thể người tập. Những ảnh hưởng và tác dụng đó được thể hiện qua các thay đổi
sau:
a, Phát triển sức khoẻ và các tố chất thể lực
Khi đá cầu đòi hỏi người tập phải vận động toàn thân như : Di chuyển, tâng cầu, đỡ
cầu, đá cầu tấn công, chuyền cầu, cứu cầu v.v.., hai chân phải nhanh nhẹn, hoạt động tích
cực, mắt phải tập trung quan sát, phán đoán đường cầu trên toàn sân để đưa ra quyết
định khi tiếp xúc với cầu bằng kĩ thuật nào để có hiệu quả cao nhất. Khi thực hiện các kĩ
thuật đá cầu đòi hỏi sự chính xác rất cao, vì đế quả cầu thì nhỏ, tốc độ bay của quả cầu
lại rất nhanh. Do đó chỉ cần mắc sai sót là bị mất điểm. Mặt khác khi chơi đá cầu, người
chơi không chỉ sử dụng đôi chân mà còn phải sử dụng cả đầu, ngực để phối hợp một
cách khéo léo khi xử lý các đường cầu khác nhau .... Trong thi đấu, ngoài thi đấu đơn
còn có thi đấu đôi, thi đấu ba người. Nên đòi hỏi các VĐV phải biết phối hợp ăn ý với
nhau thông qua các chiến thuật lúc thi đấu. Đồng thời mọi người phải có khả năng bao
quát xử lý các tình huống hết sức nhạy cảm, chính xác và thông minh thì mới đem lại kết
quả tốt.Vì vậy, đá cầu đòi hỏi người tập phải có kĩ thuật, chiến thuật hoàn chỉnh và phải
có sức khoẻ và thể lực tốt, tức là phải có các tố chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự
khéo léo. Đặc biệt sức bền chuyên môn phải được phát triển tốt, bởi trong một trận đấu
khi trình độ của các VĐV tương đương nhau thì VĐV nào có thể lực và có sức bền
chuyên môn tốt hơn sẽ là người quyết định kết quả của trận đấu. Trong quá trình tập
luyện và thi đấu, người tập không ngừng hình thành và cũng cố các kĩ thuật động tác,
các phản xạ có điều kiện, nhằm tăng cường khả năng phối hợp giữa hệ thần kinh trung
ương với các cơ quan vận động, các cơ quan nội tạng trong cơ thể để xây dựng các kĩ
năng, kĩ thuật động tác, tiến tới hình thành kĩ xảo động tác. Để đạt được điều này người
ta phải tiến hành tập luỵên thường xuyên, liên tục có hệ thống, khoa học và hợp lý. Với
phương châm: Luyện tập - thích ứng - phát triển . Chính vì vậy, tuỳ từng đối tượng mà
sử dụng khối lượng vận động một cách hợp lí, phù hợp với khả năng tiếp thu của họ. Đối
với người tập, khi đã tập luyện tích cực gần tới sức chịu đựng tối đa thì nó sẽ kích thích
tác dụng tới các hệ thống cơ quan như: Hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ vận
động... Bởi vì khi thực hiện khối lượng vận động của bài tập, cơ quan vận động của
người tập phải hoạt động tích cực dẫn đến sự tiêu hao năng lượng lớn trong quá trình
hoạt động. Đồng thời với sự tiêu hao năng lượng này là nhu cầu cung cấp năng lượng
cho cơ thể hoạt động... Từ đó dẫn đến hàng loạt các phản ứng hoá học, sinh học... xảy ra
trong cơ thể người tập. Khi vận động với khối lượng càng lớn trong thời gian càng dài
thì quá trình ôxi hoá các axit amin, quá trình phân huỷ các ATP nhằm cung cấp năng
lượng và thải các chất cặn bã ra ngoài càng phức tạp.
Luyện tập một cách khoa học sẽ giúp cho hệ hô hấp phát triển, dung tích sống tăng
lên, tần số hô hấp giảm, tạo thuận lợi cho cơ thể vận động tốt trong cả thời kỳ ưa khí và
yếm khí. Đối với hệ tuần hoàn, thông qua luyện tập có hệ thống và khoa học sẽ làm cho
tim thích ứng với khối lượng vận động cao, khả năng giãn nở của các mao mạch tốt hơn,
thuận lợi cho việc cung cấp vận chuyển năng lượng cho cơ thể hoạt động trong thời gian
dài, đồng thời cũng rút ngắn được thời gian hồi phục sau thời gian vận động. Trong quá
trình tập luyện đá cầu còn giúp cho người tập rèn luyện và phát triển cơ quan thị giác,
bởi do đặc thù dụng cụ tập là quả cầu nhỏ, tốc độ khi bay nhanh. Do đó người tập phải
tập trung quan sát mới phán đoán chính xác được điểm rơi của quả cầu để thực hiện các
kĩ thuật, chiến thuật của mình. Ngoài các tác dụng nêu trên, tập luyện môn đá cầu
thường xuyên còn giúp cho người tập có được thể hình phát triển cấn đối, đặc biệt là hệ
thống cơ quan vận động như : cơ, xương, khớp và dây chằng... thường xuyên được tôi
luyện, giúp cho người tập bước vào những ngày học tập và làm việc mới một cách thuận
lợi hơn.
b, Giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí:
Tập luyện và thi đấu TDTT nói chung và đặc biệt là môn đá cầu nói riêng. (đặc thù
của môn đá cầu trong thi đấu mang tính đối kháng rất cao, nhất là trong thi đấu đá đơn).
Đòi hỏi người tập phải có sự nỗ lực khổ luyện, có ý chí, có nghị lực, có quyết tâm cao
thì mới mong có kết quả tốt. Muốn dành được thắng lợi trong thi đấu, trước tiên người
tập phải thắng được chính bản thân mình bằng sự cần cù chịu khó, linh hoạt sáng tạo,
khắc phục khó khăn trong sinh hoạt, với đồng đội phải đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau trong luyện tập cũng như thi đấu. Trong quá trình tập luyện, các thành viên trong
đội phải luôn luôn có tinh thần tập thể, mà thực tế tinh thần này phải được duy trì và phát
huy ở mọi lúc mọi nơi (trong cuộc sống, trong tập luyện cũng như trong thi đấu).Nếu
không, chỉ cần một người không cố gắng là mọi nổ lực của toàn đội sẽ không đạt kết quả
như mong muốn. Chính vì vậy mà mọi thành viên đều phải tôn trọng đoàn kết gắn bó
với nhau, biết phát huy những điểm mạnh của từng cá nhân, khắc phục những mặt còn
hạn chế để không ngừng phấn đấu vươn lên đạt được thành tích cao trong tập luyện và
thi đấu. Ngoài việc không chỉ làm tăng thêm tinh thần đồng đội trong mỗi đơn vị thi đấu,
mà còn thông qua thi đấu đá cầu sẽ giúp cho các VĐV, các thành viên trong mỗi đội, mỗi
tỉnh, thành, ngành trong một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau để tăng thêm sự
hiểu biết, thông cảm và tôn trọng nhau hơn.v.v.... Từ đó tăng cường tình đoàn kết, hữu
nghị giữa con người với con người, giữa các dân tộc với các dân tộc với nhau.
I.2. Những điểm lưu ý trong luật đá cầu.
I.2.1. Sân, dụng cụ thi đấu
Sân thi đấu là một mặt phẳng cứng hình chữ nhật có kích thước chiều dài 11,88m,
chiều rộng 6,10m tính đến mép ngoài của đường giới hạn. Sân thi đấu không bị vật cản
trong khoảng chiều cao 8m tính từ mặt sân.
Các đường giới hạn:
- Đường phân đôi sân: Nằm ở phía dưới lưới, chia sân thành 2 phần bằng nhau.
- Đường giới hạn khu vực tấn công cách 2,00m và chạy song song với đường phân
đôi sân.
11,88m
6,10m
I.2.2: Lưới
2.1. Lưới rộng 0,75 mét, dài tối thiểu là 7,10m, các mắt lưới có kích thước là
0,019m x 0,019m.Mép trên và mép dưới của lưới được viền bởi một băng vải gập đôi
rộng từ 0,04m đến 0,05m và được luồn sợi dây thường hoặc dây nylông giữ cho căng
lưới. Lưới được theo trên cột căng lưới, hai cột căng lưới được dựng thẳng đứng ở 2 đầu
đường phân đôi của sân thi đấu. Hai cột căng lưới phải để ngoài sân, cách đường biên
dọc 0,50m.
2.2. Chiều cao của lưới:
2.2.1 Chiều cao của lưới đối với nữ và nữ trẻ: 1,50m.
2.2.2 Chiều cao của lưới đối với nam và nam trẻ: 1,60m.
2.2.3 Chiều cao của lưới đối với thiếu niên: 1,40m.
2.2.4 Chiều cao của lưới đối với nhi đồng: 1,30m.
2.2.5 Chiều cao của đỉnh lưới ở giữa lưới được phép có độ võng không quá 0,02m.
I.2.3.CỘT LƯỚI VÀ ĂNGTEN
3.1. Cột lưới phải cao tối đa: 1,70 mét.
3.2. Vị trí của các cột lưới được dựng đứng hoặc chôn cố định trên đường phân đôi
sân kéo dài cách đường biên dọc sân là 0,50 mét.
3.3. Cột Ăngten: Có chiều dài 1,20m; đường kính 0,01m; cao hơn so với mép trên
của lưới là 0,44m. Trên cột Ăngten được vẽ bằng những mầu sáng tương phản với tiết
diện 10cm.
I.2.4. QUẢ CẦU
- Được làm từ 2 phần: phần lông huặc chất liệu tổng hợp phía trên và phần đệm
cao su phía dưới. Phần đệm cao su gồm 3 lớp: lớp đệm trên, lớp đệm dưới và phần ống
nối với phần lông vũ huặc chất liệu tổng hợp phía trên. Tất cả đều được làm bằng cao su.
Phần ống nối được đặt ởtrên phần lớp đệm trên và lớp đệm dưới. Các vòng đệm làm
bằng loại da mỏng và chắc huặc bằng chất liệu tương tự được để giữa phần đệm trên và
đệm dưới. Đệm cao su dầy khoảng từ 1,3 – 1,5cm, đường kính 3,8 – 4cm. Độ cao của
quả cầu là 13 – 15cm và nó nặng 13g (+, -0,5g)cầu có màu đỏ.
I.2.5. GHẾ TRỌNG TÀI
5.1. Ghế trọng tài chính có chiều cao từ 1,20m - 1,50m, được đặt chính giữa sau
cột lưới, trên đường phân đôi sân kéo dài và cách cột lưới 0,50m.
5.2. Ghế trợ lý trọng tài (trọng tài số 2) có chiều cao từ 0,80m - 1,00m đặt phía
ngoài cột lưới đối diện với trọng tài chính và cách cột lưới 0,50m.
I.2.6. ĐẤU THỦ
6.1. Trận đấu đơn diễn ra giữa 2 đội, mỗi đội có một đấu thủ
6.2. Trận đấu đôi diễn ra giữa 2 đội, mỗi đội có hai đấu thủ.
6.3. Trận đấu đội diễn ra giữa 2 đội, mỗi đội có ba đấu thủ
.6.4. Trận đấu đồng đội diễn ra giữa 2 đội, mỗi đội có tối đa chín đấu thủ và tối
thiểu sáu đấu thủ. Thi đấu theo thứ tự: đơn, đôi, đội, đôi, đơn.
6.5. Mỗi đấu thủ chỉ được phép thi đấu không quá 2 nội dung trong nội dung đồng
đội (kể cả nội dung 3 đấu thủ)
6.6. Mỗi đấu thủ chỉ được phép thi đấu không quá hai nội dung trong một giải (kể
cả nội dung đồng đội)
.6.7. Một đội gồm 6 VDV, có 3 VDV chính thức được tham gia thi đấu và một ng
trong số học được chọn làm đội trưởng. Có thể dễ dàng nhận ra đội trưởng bằng dấu hiệu
(băng) đeo trên taytrái. Mỗi được yêu cầu đăng ký tên và số áo của mỗi VDV. Những
VDV nào không đăng ký sẽ không được tham gia trận đấu.
6.8. Huấn luyện viên và các VDV dự bị được yêu cầu ngồi vào các vị trí đã định
sẵn
I.2.7. Trang phục
7.1. Trang phục thi đấu:
7.1.1 Đấu thủ phải mặc quần áo thi đấu thể thao và đi giầy thể thao hoặc giầy
chuyên dụng của Đá cầu. Trang phục của đấu thủ được coi là một phần của cơ thể đấu
thủ, áo phải bỏ trong quần.
7.1.2 Đội trưởng của mỗi đội phải đeo băng đội trưởng ở cánh tay trái.
7.1.3 Áo của đâú thủ phải có số sau lưng và phía trước. Mỗi đấu thủ phải đeo một
số áo cố địnhtrong suốt giải. Mỗi đấu thủ được quyền sử dụng một số trong các số từ 1 15. Chiều cao tối thiểu của số ở sau lưng là 0,20m và ở đằng trước là 0,10m.
7.1.4 Trong thi đấu đôi và thi đấu 3 đấu thủ, các đấu thủ cùng 1 đội phải mặc trang
phục thi đấucó cùng màu sắc và giống nhau (đồng phục).
7.2. Trang phục chỉ đạo viên và huấn luyện viên: Phải mặc trang phục thể thao và
đi giầy thể thao
.7.3. Trang phục Trọng tài: Phải mặc áo trắng, quần sẫm màu đi giầy mô ca (Tây).
I.2.8. THAY NGƯỜI
8.1. Được phép thay đấu thủ ở bất cứ thời điểm nào (được thay 3 đấu thủ trong 1
hiệp), theo yêu cầu của lãnh đội hoặc đội trưởng của mỗi đội với trọng tài chính khi cầu
dừng. Mỗi đội được đăng ký 3 đấu thủ dự bị ở nội dung đội, còn các nội dung đơn, đôi
không có đấu thủ dự bị.
8.2. Trong khi đấu, khi trọng tài truất quyền thi đấu của đấu thủ:- Ở nội dung đội
thì đội đó được quyền thay đấu thủ khác nếu như đội đó chưa thực hiện thay người trong
hiệp đấu đó. Nếu đã thực hiện thay người rồi thì bị xử thua.- Ở nội dung đôi và đơn thì
đội đó bị xử thua
I.2.9. TRỌNG TÀI
Trận đấu được điều hành bởi những Trọng tài sau: - Một trọng tài chính.- Một trợ
lý trọng tài (số 2)- Trọng tài thư ký.- Một trọng tài lật số.- 4 trọng tài biên.Ban trọng tài
phải làm nhiệm vụ 1 cách nghiêm túc, công bằng và chính xác.Thành phần trọng tài……
Vị trí trọng tài………….
1.2.10. TRÁCH NHIỆM CỦA TRỌNG TÀI
10.1. Trọng tài chính số 1
10.1.1. Trọng tài chính số 1 làm nhiệm vụ điều hành chính trong suốt trận đấu và
quyết định của trọng tài là quyết định cuối cùng. Trọng tài có quyền giải quyết bất cứ
vấn đề gì có thể xảy ra trong suốt trận đấu bao gồm các điều đã có trong nội quy. Trọng
tài chính cũng có quyền thay đổi quyết định của các trọng tài khác nếu cho rằng quyết
định đó là sai.
10.1.2. Trọng tài chính có quyền dừng huặc ngừng trận đấu.
10.1.3. Trọng tài chính phải đưa ra các ký hiệu bằng tay rõ ràng để chỉ lỗi. Cầu roi
phía trong, phía ngoài và đội phát cầu.
10.1.4. Trọng tài nên cảnh cáo huặc truất quyền thi đấu của VDV vi phạm các lỗi
sau:
A. Cảnh cáo (thẻ vàng)
Đấu thủ bị cảnh cáo và phạt thẻ vàng nếu đấu thủ đó phạm 1 trong 6 lỗi sau:
1. Cư sử không đúng với Ban trọng tài.
2. Cư sử không đúng với các VDV đối phương huặc đồng đội của mình
3 Đá, đánh, tấn công bằng đầu vào các VDV đối phương huặc cố ý làm như vậy.
4. Ra khỏi sân trong lúc gián đoạn trận đấu mà không xin phép trọng tài chính
B Truất quyền thi đấu (thẻ đỏ) do Trọng tài chính truất quyền thi đấu của VDV
lặp lại nhiều lỗi, huặc vi phạm bất kỳ lỗi nào ở trên sau khi đã cảnh cáo.
10.1.5. Trọng tài chính kiểm tra sân, thiết bị, cơ sở vật chất, cầu và đông phục của
các VDV trước trận đấu.
10.1.6. Trọng tài chính gọi các đội trưởng để bốc thăm chọn sân chơi và quyền
phát cầu.
10.1.7. Trọng tài chính sắp xếp thời gian để các VDV khởi động trước trận đấu.
10.2. Trọng tài số 2:
10.2.1. Trọng tài số 2 chủ động hỗ trợ trọng tài chính và thay thế vào vị trí trọng tài
chính khi trọng tài chính không thể tiếp tục công việc của mình.
10.2.2. Trọng tài số 2 kiểm tra vị trí của các VDV trên sân và các vị trí này sau khi
đã đổi sân trong hiệp đấu quyết định.
10.2.3. Trọng tài số 2 quyết định VDV nào bước qua vạch giữa và vi phạm luật của
đường giới hạn.
10.2.4. Trọng tài số 2 quyết định là cầu có chạm vào lưới, ăngten hay khu vực phía
ngoài hay không (bên phía mình).
10.2.5. Khi trận đấu gián đoạn, Trọng tài số 2 nhận yêu cầu đc nghỉ hội ý của HLV
hay đội trưởng của mỗi đội. Trọng tài này có quyền ra quyết định trong việc thay ng và
hội ý ở mỗi trận đấu.
10.3. Trọng tài thư ký:
10.3.1. Trọng tài thư ký sẽ ghi tên và số áo của VDV trên thẻ ghi và yêu cầu đội
trưởng và HLV trưởng ký tên vào đó trước trận đấu.
10.3.2. Trọng tài thư ký ghi số áo và thứ tự luân phiên của các VDV trong sân
trước mỗi hiệp đấu.
10.3.3. Trọng tài thư ký sẽ ghi điểm thắng, số lần hội ý, thay ng và số lỗi theo thứ
tự luân phiên diễn ra suốt trận đấu và thông báo cho trọng tài chính số 1 kịp thời.
10.3.4. Trọng tài thư ký sẽ thông báo số lần hội ý của cả 2 đội khi 1 đội yêu cầu đc
hội ý.
10.3.5. Trọng tài thư ký thông báo việc đổi sân khi hiệp đấu kết thúc và đến điểm
thứ 8 ở hiệp đấu quyết định.
I.2.11. VỊ TRÍ CÁC ĐẤU THỦ
11.1. Khi bắt đầu trận đấu, các đấu thủ của mỗi đội phải đứng ở vị trí tương ứng
trên phần sân của mình trong tư thế sẵn sàng.
11.2. Đấu thủ phát cầu phải đặt chân trụ phía ngoài sân thi đấu ở khu giới hạn phát
cầu.
11.3. Đấu thủ bên đỡ phát cầu phải đứng trong phạm vi sân thi đấu của mình và
được di chuyển tự do trong phần sân của mình.
11.4. Vị trí cầu thủ trong thi đấu đôi và đội: Phát cầu: Thi đấu đôi: Khi một đấu
thủ phát cầu, đấu thủ còn lại không được đứng trong đường tưởng tượng nối khu vực
phát cầu 2 bên và không được có những hành động lời nói làm ảnh hưởng đến sự tập
trung của đối phương. Thi đấu đội: Khi đấu thủ số 1 phát cầu, đấu thủ số 2 - 3 đứng
trong sân (2 bên phải, 3 bên trái) và không được đứng trong đường tưởng tượng nối khu
vực phát cầu 2 bên. Đỡ phát cầu đội: Phải đứng đúng vị trí 1 - 2 - 3 theo đăng ký (số 1
phải đứng gần đường biên ngang sân mình nhất và ở trong khoảng cách hình chiếu của
số 2 và 3). Số 2 và số 3 phải đứng gần lưới và đường biên dọc bên mình hơn số 1. - 5 –
I.2.12. BẮT ĐẦU TRẬN ĐẤU VÀ PHÁT CẦU
12.1. Bên phát cầu trước sẽ bắt đầu hiệp đấu đàu tiên. Bên nào thắng sẽ giành
quyền phát cầu ở hiệp thứ hai.
12.2. Phải phát cầu ngay khi trọng tài công bố điểm. Đấu thủ cố tình trì hoãn, trọng
tài sẽ nhắc nhở và nhắc nhở đến lần thứ hai thì sẽ bị bắt lỗi và một điểm cho đối phương.
12.3. Khi phát cầu, ngay sau khi đấu thủ tiếp xúc với cầu, tất cả các đối thủ còn lại
được phép tự do di chuyển trên phần sân của mình.
12.4. Cấm bất cứ vật trợ giúp nào từ bên ngoài làm tăng tốc độ của quả cầu và sự
di chuyển của đấu thủ.
12.5 Phát cầu lại: - Cầu mắc vào lưới khi đang thi đấu, ngoại trừ lần chạm cầu cuối
cùng. - Các bộ phận của quả cầu bị rơi ra trong khi thi đấu. - Cầu được phát đi trước khi
trọng tài ra ký hiệu phát cầu. - Do khách quan làm ảnh hưởng đến thi đấu.
I.2.13: CÁC LỖI
13.1. Lỗi của bên phát cầu:
13.1.1 Đấu thủ phát cầu trong khi thực hiện động tác nhưng giẫm chân vào đường
biên ngang hoặc đường giới hạn khu vực phát cầu.
13.1.2 Đấu thủ phát cầu không qua lướihoặc qua nhưng chạm lưới.
13.1.3 Cầu phát chạm vào đồng đội hoặc bất cứ vật gì trước khi bay sang phần sân
đối phương.
13.1.4 Quả cầu bay qua lưới nhưng rơi ra ngoài sân.
13.1.5 Đấu thủ phát cầu làm các động tác trì hoãn và làm rơi cầu xuống đất sau khi
trọng tài đã ra ký hiệu cho phát cầu (tối đa là 5 giây).
13.1.6 Phát cầu không đúng thứ tự trong thi đấu.
13.2. Lỗi của bên đỡ phát cầu:
13.2.1 Có hành vi gây mất tập trung, làm ồn hoặc la hét nhằm vào đấu thủ
13.2.2 Chân chạm vào các đường giới hạn khi đối phương phát cầu.
13.2.3 Đỡ cầu dính hoặc lăn trên bất cứ bộ phận nào của cơ thể.
13.3. Lỗi với cả hai bên trong trận đấu:
13.3.1 Đấu thủ chạm cầu ở bên sân đối phương.
13.3.2 Để bất cứ bộ phận nào của cơ thể sang phần sân đối phương dù ở trên hay
dưới lưới.
13.3.3 Cầu chạm cánh tay.
13.3.4 Dừng hay giữ dầu dưới cánh tay, giữa hai chân hoặc trên người
13.3.5 Bất cứ phần nào của cơ thể hay trang phục của đấu thủ chạm vào lưới, cột
lưới, ghế trọng tài hay sang phần sân đối phương.
13.3.6 Cầu chạm vào trần nhà, mái nhà hay bất cứ bộ phận nào khác.
13.3.7 Nội dung đơn chạm cầu quá 2 lần
13.3.8 Nội dung đôi và đội: 1 đấu thủ chạm cầu quá 2 lần liên tiếp, 1 bên quá 4
chạm. Thiếu
13.3.9. Đánh đầu trong khu vực tấn công 2,00m.
I.2.14: HỆ THỐNG TÍNH ĐIỂM
14.1. Bất cứ bên nào (giao cầu hoặc nhận giao cầu) phạm lỗi, đối phương được tính
một điểm và giành quyền giao cầu.
14.2. Điểm thắng của hiệp đấu là 21, trừ trường hợp hoà 20 - 20, sẽ phát cầu luân
lưu đến khi một bên cách biệt 2 điểm thì hiệp đấu đó kết thúc (điểm tối đa của hiệp đấu
là 25).
14.3. Mỗi trận đấu có 2 hiệp đấu, giữa 2 hiệp nghỉ 2 phút. Nếu mỗi đội thắng 1
hiệp, sẽ quyết định trận đấu bằng hiệp thứ 3 (hiệp quyết thắng), điểm thắng của hiệp này
là 15, trừ trường hợp hoà 14 - 14 thì sẽ phát cầu luân lưu đến khi 1 bên cách biệt 2 điểm
thì trận đấu đó kết thúc (điểm tối đa của hiệp đấu là 17).
14.4. Ở hiệp đấu thứ 3, khi tỷ số lên đến 8 thì 2 bên sẽ đổi sân.
14.5. Trong tất cả các nội dung thi đấu, khi tỉ số là 14 - 14 hoặc 20 - 20, thì bên vừa
ghi được điểm sẽ phát cầu và sau đó thì phát cầu luân phiên.
I.2.15. HỘI Ý
15.1. Mỗi bên được quyền xin hội ý không quá 2 lần, mỗi lần không quá 30 giây
trong mỗi hiệp đấu khi cầu ngoài cuộc.
15.2. Chỉ có huấn luyện viên hoặc đấu thủ đội trưởng trên sân mới có quyền xin
hội ý. Trong thời gian hội ý đấu thủ phải ở trong sân của mình. 15.3. Trong thời gian
dừng trận đấu, HLV có quyền chỉ dẫn từ bên ngoài cho các đấu thủ của mình, nhưng các
đấu thủ không đc rời sân hay nói chuyện với bất kỳ ai ở ngoài sân. Những ng ngoài cũng
không đc vào sân thi đấu.
I.2.16. TẠM DỪNG TRẬN ĐẤU
16.1. Trọng tài có thể tạm dừng trận đấu tối đa 5 phút trong trường hợp có vật cản,
bị gây rối hay đáu thủ bị chấn thương cần cấp cứu.
16.2. Bất cứ đấu thủ nào chấn thương cũng được phép tạm dừng trận đấu (nếu
được trọng tài đồng ý) tối đa 5 phút. Sau 5 phút, đấu thủ không thể thi đâú thì tiến hành
thay người. Nếu đội của đấu thủ bị chấn thương đã tiến hành thay người trong hiệp đấu
đó rồi thì trận đấu sẽ kết thúc với phần thắng nghiêng về đội đối phương.
16.3 Trong trường hợp tạm dừng trận đấu, tất cả các đấu thủ không được phép rời
sân để uống nước hay nhận bất kỳ sự trợ giúp nào.
16.4. Trong các trường hợp nghỉ giữa hiệp, đấu thủ không được rời sân thi đấu mà
phải đứng ở phần sân của mình, hàng ghế dành cho đội.
16.5. Trận đấu tạm dừng khi cầu chạm đất huặc có lỗi xảy ra.
I.2.17. BẮT THĂM VÀ KHỞI ĐỘNG
Trước khi thi đấu và trước khi bắt đầu vào hiệp thứ ba, hai bên bắt thăm. Bên nào
được thăm có quyền chọn sân hoặc cầu. Bên kia được chọn phần còn lại. Bên được thăm
sẽ khởi động trước 2 phút, sau đó đến bên kia. Chỉ huấn luyện viên hoặc chỉ đạo viên
mới được phép vào sân khởi động cùng với đấu thủ chính thức.
17.1. Mọi đấu thủ và huấn luyện viên phải chấp hành luật này.
17.2. Trong trận đấu chỉ có đội trưởng mỗi đội mới có quyền tiếp cận trọng tài
I.2.19. SỐ HIỆP ĐẤU VÀ LỰA CHỌN SÂN THI ĐẤU
19.1. Đội thắng sẽ là đội thắng 2 trong 3 hiệp đấu, áp dụng cho tất cả các hình
thức thi đấu.
19.2. Cả 2 đội sẽ tham gia lựa chọn sân và quyền phát cầu trước trận đấu. Sau hiệp
đấu thứ nhất, 2 bên đổi sân và đổi quyền phát cầu.
19.3. Trước hiệp đấu cuối cùng, trọng tài chính gọi 2 đội trưởng bốc thăm để chọn
sân và quyền phát cầu. Trong suốt hiệp đấu cuối cùng, khi 1 bên ghi đến 8 điểm, 2 đội sẽ
đổi bên. Lúc này HLV không có quyền chỉ dẫn cho đội mình, đồng thời các vị trí của các
đối thủ cũng không đc thay đổi. Sau khi đc kiểm tra lại qua băng hình, đội đc quyền phát
cầu sẽ tiếp tục đc phát cầu. Nếu sự đổi sân này không đc làm đúng điểm số quy định thì
nó sẽ đc thực hiện ngay sau khi trọng tài chính huặc đội trưởng phát hiện ra. Tỷ số trận
đấu đc giữ nguyên.
I.2.20. PHẠT
20.1. Phạt cảnh cáo (thẻ vàng) Đấu thủ bị cảnh cáo và phạt thẻ vàng nếu đấu thủ đó
phạm 1 trong 6 lỗi sau:
20.1.1 Có hành vi phi thể thao.
20.1.2 Thể hiện sự bất đồng bằng lời lẽ hoặc hành động.
20.1.3 Cố tình vi phạm luật thi đấu.
20.1.4 Trì hoãn việc bắt đầu trận đấu.
20.1.5 Vào sân hay quay trở lại sân không được phép của trọng tài.
20.1.6 Tự động rời sân mà không được sụ cho phép của trọng tài
20.2. Đuổi khỏi sân (thẻ đỏ) Đấu thủ bị đuổi khỏi sân và phạt thẻ đỏ nếu đấu thủ đó
phạm 1 trong 5 lỗi sau:
20.2.1 Phạm lỗi thi đấu nghiêm trọng.
20.2.2 Có hành vi bạo lực, gồm cả hành động cố ý nhằm làm đối thủ chấn thương.
20.2.3 Nhổ nước bọt vào đối phương hoặc bất cứ người nào.
20.2.4 Có hành vi tấn công, lăng mạ, sỉ nhục người khác bằng lời nói hoặc hành
động.
20.2.5. Bị cảnh cáo lần thứ hai (nhận thẻ vàng thứ 2) trong cùng một trận đấu.
20.3 Đấu thủ bị phạt cảnh cáo hay bị đuổi, dù ở trong sân hay ngoài sân, dù trực
tiếp đến đấu thủ, đồng đội, trọng tài, trợ lý trọng tài hay bất cứ ai khác thì kỷ luật theo
mức độ vi phạm (thẻ vàng, thẻ đỏ áp dụng cả với huấn luyện viên).
I.2.21. QUYẾT ĐỊNH VÀ YÊU CẦU CỦA TRỌNG TÀI
- Quyết định của trọng tài chính số 1 là quyết định cuối cùng.
- Chỉ có đội trưởng mới có thể yêu cầu trọng tài giải thích về những lần phạt đưa ra
và trọng tài chính số 1 sẽ giải thích ngay lúc đó.
- Đội không thoả mãn với quyết định của trọng tài và muốn phản đối thì vẫn phải
tuân theo quyết định của trọng tài trong suốt trận đấu. Họ có thể đệ trình yêu cầu của
mình bằng văn bản lên Ban tổ chức 30 phút sau khi trận đấu kết thúc. Trọng tài cũng
phải đệ trình bản báo cáo lên Ban tổ chức.
I.2.22. ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Trong khi thi đấu nếu có thắc mắc hay có vấn đề gì phát sinh không đề cập trong
bất cứ điều luật nào thì quyết định của Tổng trọng tài là quyết định cuối cùng.
KHẨU LỆNH VÀ KÝ HIỆU CỦA TRỌNG TÀI TRỌNG TÀI CHÍNH
1. Trọng tài chính: Bắt đầu và kết thúc một đường cầu phải thổi một tiếng còi.
2. Ghi điểm huặc đc quyền phát cầu: đưa 1 cánh tay sang ngang, bàn tay chỉ về
phía bên phía cầu.
3. Cầu trong sân: tay duỗi thẳng chỉ xuống sân, lòng bàn tay ngửa.
4. Cầu ngoài: khi cầu ở ngoài sân thì 2 tay trên vai, cẳng tay vuông góc với cánh
tay.
5. Cầu chạm VDV ra ngoài sân: Một tay dựng vuông góc (lòng bàn tay hướng vào
mặt), bàn tay kia đưa ngang chạm đầu các ngón tay.
6. Cầu chạm tay: một tay chỉ vào cánh tay còn lại.
7. Lỗi phát cầu: giơ cánh tay theo hướng chéo sang 1 bên, bàn tay chỉ vào khu vực
phát cầu.
8. Cầu vào sân từ ngoài ăngten: chỉ ngón trỏ vào ăngten.
9. 3 lần chạm cầu liên tiếp: giơ 1 cánh tay lên, gập ở khuỷu, 3 ngón tay chĩa thẳng.
10. Năm lần chạm cầu: giơ 1 cánh tay lên, gập ở khuỷu, 5 ngón tay chĩa thẳng.
11. Chạm lưới: chỉ vào lưới
12. Bộ phận VDV qua khoảng không trên lưới: đặt 1 tay tay phía trước, gập ở
khuỷu, bàn tay mở, lòng bàn tay úp.
13. Qua dưới lưới: chỉ thẳng vào vạch giữa sân
14. Dính cầu: giơ 1 cánh tay chậm rãi, gập khuỷu, lòng bàn tay hướng lên trên.
15. Kết thúc hiệp đấu: đan chéo 2 tay gập lại ở khuỷu để trước ngực
16. Phát cầu không tung: giơ 1 cánh tay về trước với lòng bàn tay ngửa, vẫy cẳng
tay lên xuống.
17. Chạm lưới: chạm 1 tay vào phía trên của mép lưới.
18. Phát cầu lại: giơ 2 tay gấp ở khuỷu với ngón cái giơ lên.
19. Hội ý: giơ 2 tay gấp lại ở khuỷu và đặt ty kia ở vị trí các đầu ngón tay.
20. Thay người: 2 tay xoay vòng quanh nhau trước ngực, bàn tay nắm.
21. Sai vị trí: một ngón tay trỏ khua theo chiều kim đồng hồ phía trước ngực
22. Cầu gặp vật cản: giơ 2 tay lên gấp ở khuỷu, để 2 ngón giữa chạm nhau trước
mặt trên trán.
23. Khu vực cấm: 1 tay chỉ vào đường giới hạn và đưa ngón tay lên xuống.
24. Cảnh cáo, truất quyền thi đấu: cầm thẻ trên tay, hướng vào ng phạm lỗi.
TRỌNG TÀI BIÊN
25. Trong sân: cầm cờ chỉ xuống phía dưới
26. Ngoài sân: cầm cờ phất lên, cờ dựng
27. Cầu vào sân từ ngoài ăng ten: cờ dựng, tay chỉ thẳng ăngten.
28. Cầu chạm VDV ra ngoài sân: cầm cờ 1 tay, để các đầu ngón tay của tay kia
chạm vào đỉnh cờ
29. Phát cầu giẫm vạch: Đưa cờ lên cao (rung) báo lỗi. Sau đó chỉ vào vạch phạm
lỗi. . quả cầu và sự di chuyển của đấu thủ.
PHẦN II
THỰC HÀNH
1. Di chuyển
Di chuyển trong tập luyện và thi đấu đá cầu là một trong những kĩ thuật rất quan
trọng . Vì vậy, đây là nội dung đầu tiên mà người tập phải tiếp thu, phải lĩnh hội. Để từ
đó làm cơ sở cho việc tiếp thu, các kĩ thuật động tác tiếp theo. Muốn đá cầu và đá đúng
kĩ thuật, cũng như thực hiện ý đồ chiến thuật mà người chơi mong muốn, người tập cần
phải tập luyện thành thục đến mức tự động hoá các kĩ thuật di chuyển của môn đá cầu.
Muốn đạt được thành tích cao trong đá cầu, phải biết kết hợp một cách linh hoạt, hợp lí,
giữa các kĩ thuật di chuyển và các kĩ thuật động tác tấn công và phòng thủ, bởi vì trong
môn đá cầu người chơi chỉ được phép sử dụng chân, đầu, ngực để tiếp xúc với cầu, trong
đó kĩ thuật dùng chân để đỡ cầu, đá cầu ... là quyết định thành tích của người chơi đá
cầu.
1.1. Di chuyển đơn bước
Đây là kĩ thuật được sử dụng nhiều trong các trường hợp khi cầu của đối phương
đá sang ở gần người chơi (có thể ở bên phải, bên trái, phía trước, phía sau, hay sát
người).
1.1.1. Di chuyển ngang đơn bước sang phải đá cầu.
- TTCB: Đứng hai chân song song rộng bằng vai hoặc đứng chân trước chân sau,
khuỵu gối, trọng tâm thấp dồn đều vào giữa hai chân, người hơi đổ về trước, đầu thẳng,
mắt theo dõi đường bay của cầu, hai tay để co tự nhiên.
- Thực hiện động tác: Khi xác định được điểm rơi của quả cầu người tập nhanh
chóng chuyển trọng tâm sang phải, chân trái bước qua phải một bước, lúc này trọng tâm
chuyển sang chân trái. Chân phải thực hiện động tác tiếp xúc với cầu (tuỳ theo ý đồ
chiến thuật của người đá cầu) để sử dụng kĩ thuật búng cầu hay giật cầu v.v
- Kết thúc động tác: Sau khi thực hiện xong động tác, người đá cầu trở về TTCB
để thực hiện động tác tiếp theo (thứ tự các bước chân làm ngược lại so với lúc thực
hiện).
1.1.2. Di chuyển ngang đơn bước sang trái đá cầu
- TTCB : Tương tự như cách di chuyển đơn bước sang phải.
- Thực hiện động tác : Khi xác định được điểm rơi của quả cầu, người ta tập nhanh
chóng chuyển trọng tâm sang trái, chân phải bước qua trái một bước, gót chân phải đặt
trước mũi chân trái, lúc này trọng tâm chuyển sang chân phải. Chân trái tiếp xúc với cầu
bằng kĩ thuật búng hay giật cầu... (tuỳ theo ý đồ của người đá cầu).
- Kết thúc động tác: Sau khi thực hiện xong động tác, người đá cầu trở về TTCB
để thực hiện các động tác tiếp theo. (thứ tự các bước chân làm ngược lại so với lúc thực
hiện).
1.1.3. Di chuyển đơn bước phía trước chếch phải đá cầu
- TTCB : Đứng hai chân song song rộng bằng vai hoặc đứng chân trước chân sau,
khuỵu gối, trọng tâm thấp, dồn đều vào giữa hai chân, người hơi đổ về trước, đầu thẳng,
mắt theo dõi đường bay của cầu, hai tay để co tự nhiên.
- Thực hiện động tác : Khi xác định được điểm rơi của quả cầu, người tập nhanh
chóng chuyển trọng tâm sang chân phải, chân trái bước về trước chếch sang phải một
bước thích hợp với điểm rơi, gót chân đặt trước mũi bàn chân phải, trọng tâm lại chuyển
sang chân này, chân phải tiếp xúc với cầu bằng kĩ thuật búng hoặc giật cầu ...(tuỳ theo ý
đồ đá cầu của người chơi)
- Kết thúc động tác : Sau khi thực hiện xong động tác, người đá cầu trở về TTCB
để thực hiện các động tác tiếp theo. (thứ tự các bước chân làm ngược lại so với lúc thực
hiện).
1.1.4. Di chuyển đơn bước phía trước chếch trái đá cầu
- Cách thực hiện động tác tương tự như kĩ thuật di chuyển phía trước chếch phải,
nhưng phải đổi thứ tự của hai chân khi thực hiện (tức là làm ngược lại)
1.1.5. Di chuyển đơn bước phía sau chếch phải đá cầu
- TTCB : Đứng hai chân song song rộng bằng vai hoặc đứng chân trước chân sau,
khuỵu gối, trọng tâm hơi thấp, dồn đều vào giữa hai chân, người hơi đổ về trước, đầu
thẳng, mắt theo dõi đường bay của cầu, hai tay để co tự nhiên.
- Thực hiện động tác : Khi xác định được điểm rơi của quả cầu ở phía sau bên
phải thì người tập nhanh chóng chuyển trọng tâm sang chân phải, chân trái lùi về sau
sang phải một bước thích hợp, mũi chân trái đặt gần gót chân phải, trọng tâm lại chuyển
sang chân này, chân phải tiếp xúc với cầu bằng kĩ thuật búng hoặc giật cầu hoặc móc cầu
( tuỳ theo ý đồ đá cầu của người chơi)
- Kết thúc động tác : Sau khi thực hiện xong động tác, người đá cầu trở về TTCB
để thực hiện các động tác tiếp theo. (thứ tự các bước chân làm ngược lại so với lúc thực
hiện).
1.1.6. Di chuyển đơn bước phía trước chếch trái đá cầu
- Cách thực hiện động tác tương tự như kĩ thuật di chuyển phía sau chếch phải,
nhưng phải đổi thứ tự của hai chân khi thực hiện (tức là làm ngược lại).
1.2. Di chuyển nhiều bước Đối với di chuyển đơn bước chỉ cho phép người chơi
đá cầu được những quả cầu rơi cách người với cự li 1m - 1,5m. Còn với những quả cầu
khi đối phương đá cầu sang cách xa người thì phải sử dụng di chuyển nhiều bước đến
chỗ cầu rơi mới thực hiện được kĩ thuật đá cầu. Trong cách di chuyển nhiều bước, TTCB
để thực hiện động tác cũng như ở di chuyển đơn bước, tiếp đó người chơi dùng sức đạp
của chân và đổ trọng tâm về hướng di chuyển đẩy người đi, hai chân luân phiên di
chuyển đến điểm rơi của cầu với tần số nhanh, chậm, bước dài, ngắn, tuỳ thuộc vào tình
huống cầu bay tới sao cho bước cuối cùng người ở tư thế đá cầu đúng như các bước đơn
đã phân tích ở phần trên. Trong di chuyển nhiều bước gồm có:
- Di chuyển ngang.
- Di chuyển tiến, lùi.
1.2.1. Di chuyển ngang sang bên phải đá cầu
- TTCB : Đứng hai chân song song rộng bằng vai hoặc đứng chân trước chân sau,
khuỵu gối, trọng tâm thấp, dồn đều vào giữa hai chân, người hơi đổ về trước, đầu thẳng,
mắt theo dõi đường bay của cầu, hai tay để co tự nhiên.
- Thực hiện động tác : Người tập đứng ở TTCB, có thể ở giữa sân hoặc ở gần biên
dọc trái của sân, khi di chuyển sang phải, thì đạp mạnh chân trái đồng thời quay người
90o sang phải, đổ trọng tâm sang phải, chân trái di chuyển trước sau đó đến chân phải,
khuỵu gối, trọng tâm thấp và khi di chuyển trọng tâm thân người không nhấp nhô, cứ
như thế hai chân luân phiên cho đến khi di chuyển tới vị trí cầu rơi thì trọng tâm lúc này
dồn vào chân trái, chân phải tiếp xúc với cầu. Tuỳ theo ý đồ đá cầu mà sử dụng các kỹ
thuật đá móc, búng cầu, hay giật cầu lên lưới hoặc chuyền cầu cho đồng đội để tấn
công ....
- Kết thúc động tác : Sau khi thực hiện xong động tác, người đá cầu trở về TTCB
để thực hiện các động tác tiếp theo. (thứ tự các bước chân làm ngược lại so với lúc thực
hiện).
1.2.2. Di chuyển ngang sang bên trái đá cầu
- TTCB : Đứng hai chân song song rộng bằng vai hoặc đứng chân trước chân sau,
khuỵu gối, trọng tâm thấp, dồn đều vào giữa hai chân, người hơi đổ về trước, đầu thẳng,
mắt theo dõi đường bay của cầu, hai tay để co tự nhiên.