1.1. Ngôn ngữ là gì?
Có ngôn ngữ và khả năng sử dụng ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng phân bi ệt con ng ười và
động vật. Không có một con người bình thường nào không dùng ngôn ng ữ. Ngôn ngữ gần gũi, thân
thiết như những gì gần gũi và thân thiết nhất mà con người có thể có. Nh ưng ít ai đ ặt câu h ỏi Ngôn
ngữ là gì?. Điều đó cũng giống như không khí rất quan tr ọng đối v ới con ng ười, song không m ấy khi
ta nghe một người nào đó hỏi Không khí là gì?. Tuy nhiên Ngôn ng ữ là gì? là m ột trong nh ững câu h ỏi
đầu tiên mà Ngôn ngữ học phải trả lời và cũng là một trong nh ững v ấn đ ề đ ầu tiên mà m ột ng ười
học Ngôn ngữ học phải biết.
Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng làm phương tiện giao ti ếp quan
trọng nhất và phương tiện tư duy của con người.
Trong giao tiếp hằng ngày, chúng ta thường dùng những từ nh ư ngôn ng ữ cùa loài hoa, ngôn
ngữ của loài vật, ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ điêu khắc, ngôn ng ữ c ơ th ể, v.v... T ừ
ngôn ngữ trong những cách dùng như vậy không được hi ểu theo nghĩa g ốc c ủa nó, mà ch ỉ đ ược dùng
với nghĩa phái sinh theo phép ẩn dụ, dựa trên cơ s ở nét t ương đồng gi ữa ngôn ng ữ v ới nh ững đ ối
tượng được nói đến: công cụ dùng để biểu đạt, để thể hiện một điều gì đó.
1.2. Bản chất của ngôn ngữ
1.2.1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội và là một bộ phận cấu thành quan tr ọng c ủa
văn hóa
Ngôn ngữ có thể được hiểu như là sản phẩm của nhân loại nói chung hay nh ư là s ản ph ẩm
của một cộng đồng cụ thể. Dù hiểu như thế nào thì ngôn ngữ cũng là m ột hi ện t ượng xã h ội. Ngôn
ngữ chỉ được hình thành và phát triển trong xã hội. Không có ngôn ngữ nào tách r ời kh ỏi c ộng đ ồng
và không một người nào khi mới sinh ra, sống tách rời khỏi c ộng đồng mà kh ả năng s ử d ụng ngôn
ngữ được hình thành. Điều đó làm cho ngôn ngữ khác về cơ bản với nh ững hi ện t ượng có tính ch ất
bản năng ở con người như ăn, uống, đi lại.
Ngôn ngữ chỉ được hình thành do quy ước nên không có tính chất di truy ền nh ư nh ững đ ặc
điểm về chủng tộc. Đứa trẻ sinh ra mang những đặc đi ểm di truyền c ủa nh ững người thu ộc th ế h ệ
trên nó như màu da, màu mắt, màu tóc, v.v... nhưng ngôn ngữ m ẹ đ ẻ c ủa nó có th ể không ph ải là ngôn
ngữ mẹ đẻ của bố mẹ nó.
Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một b ộ ph ận c ấu thành quan tr ọng
của văn hoá. Mỗi hệ thống ngôn ngữ đều mang đậm dấu ấn văn hoá c ủa cộng đ ồng ng ười b ản ng ữ.
Chính vì vậy, muốn sử dụng một ngôn ngữ, không chỉ phải bi ết ngữ âm, t ừ v ựng, ngữ pháp, mà còn
phải nắm vững cái dấu ấn văn hóa được thể hiện trong ngôn ngữ đó n ữa. Gi ữ gìn và phát tri ển m ột
ngôn ngữ cũng chính là góp phần giữ gìn và phát triển một nền văn hoá.
1.2.2. Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt
Trước hết ngôn ngữ là một hệ thống, vì như tất cả những hệ thống khác, ngôn ng ữ là m ột th ể
thống nhất các yếu tố có quan hệ với nhau. Mỗi y ếu t ố trong h ệ th ống ngôn ng ữ có th ể coi là m ột
đơn vị. Các đơn vị trong hệ thống ngôn ngữ được sắp xếp theo những quy tắc nh ất đ ịnh. S ự t ồn t ại
của đơn vị ngôn ngữ này quy định sự tồn tại của đơn vị ngôn ngữ kia.
Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu vì mỗi đơn vị ngôn ngữ là một d ấu hi ệu. Nh ư t ất cả
những loại dấu hiệu khác, dấu hiệu ngôn ngữ là một thực thể mà hình th ức v ật ch ất c ủa nó bao gi ờ
cũng biểu đạt một cái gì đó. Nghĩa là mỗi dấu hiệu ngôn ngữ có hai m ặt: hình th ức âm thanh và cái
mà hình thức đó biểu đạt. F. de Saussure, nhà Ngôn ng ữ h ọc Thu ỵ Sĩ, ng ười đ ược m ệnh danh là cha
đẻ của Ngôn ngữ học hiện đại gọi mặt thứ nhất là cái biểu đạt và mặt th ứ hai là cái d ược bi ểu đ ạt và
hình dung mối quan hệ giữa hai mặt này của dấu hiệu ngôn ngữ như sau:
Chẳng hạn từ cây trong tiếng Việt là một dấu hiệu ngôn ngữ. Âm “cây” chính là cái bi ểu đ ạt.
Nói chính xác hơn, hình ảnh âm thanh “cây”, tức dấu vết tâm lí c ủa cái âm đó, ch ứ không ph ải b ản
thân âm như một hiện tượng thuần vật lí là cái biểu đạt, vì cái bi ểu đạt c ủa d ấu hi ệu ngôn ng ữ t ồn
tại ngay cả khi ta không phát âm ra thành l ời. Khái ni ệm “cây” (th ực v ật có r ễ, thân, lá rõ r ệt, ho ặc
vật có hình thù giống những thực, vật có thân, lá) là cái đ ược bi ểu đ ạt. Cái bi ểu đ ạt c ủa d ấu hi ệu
ngôn ngữ được tạo nên từ chất liệu âm thanh (theo nghĩa âm thanh nh ư v ừa nêu). Khi d ấu hi ệu ngôn
ngữ được thể hiện bằng chữ viết thì chất liệu âm thanh đó được thay thế bằng nh ững đ ường nét.
Như vậy cần lưu ý, chữ viết chỉ là loại dấu hiệu ghi lại cái bi ểu đạt c ủa d ấu hi ệu ngôn ng ữ, ch ứ b ản
thân nó không phải là cái biểu đạt của dấu hiệu ngôn ngữ (xem thêm phần Ngư âm học).
Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt vì đó là loại dấu hiệu chỉ có ở con người và có
những nét đặc thù. Sau đây là những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ:
a. Tính võ đoán
Giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt của dấu hiệu ngôn ngữ không có m ột mối quan h ệ t ự
nhiên mối quan hệ này chỉ do người bản ngữ quy ước.
Cùng biểu đạt khái niệm “động vật có xương, sống ở dưới nước, bơi bằng vây và th ờ b ằng
mang”, nhưng các ngôn ngữ khác nhau dùng những âm r ất khác nhau, ch ẳng h ạn ti ếng Vi ệt dùng âm
“cá”, tiếng Nga dùng âm “ryba”, tiếng Anh dùng âm “fish”, v.v...
Trong ngôn ngữ có một số dấu hiệu không có tính võ đoán, tức gi ữa cái bi ểu đ ạt và cái đ ược
biểu đạt có một mối quan hệ tự nhiên, chẳng hạn những từ tượng thanh như mèo, chích chòe, bò,
v.v..., nhưng số lượng những từ này không đáng kể. Hơn n ữa, tuy mô ph ỏng âm thanh t ự nhiên, nh ưng
từ tượng thanh cũng mang đặc trưng riêng của từng ngôn ngữ do ảnh hường cách lựa chọn của người
bản ngữ. Chẳng hạn cùng mô phỏng tiếng mèo kêu, nhưng từ tượng thanh trong tiếng Anh, tiếng Đức,
tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hebrew có âm là [miaw], còn trong ti ếng Ảr ập là [mawmaw],
trong tiếng Hán là [meaw], trong tiếng Nhật là [niaw]. Vì th ế xét cho cùng thì ngay c ả t ừ t ượng thanh
cũng có một phần tính võ đoán.
b. Tinh đa trị
Giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt của dấu hi ệu ngôn ngữ không có m ối quan h ệ m ột đ ối
một; một vỏ ngữ âm có thể dùng để biểu đạt nhi ều ý nghĩa (th ể hi ện qua hi ện t ượng đa nghĩa và
đồng âm), và ngược lại, một ý nghĩa có thể được bi ểu đạt bằng nhi ều v ỏ ngữ âm khác nhau (th ể
hiện qua hiện tượng đồng nghĩa). Nhờ có tính chất này mà ngôn ngữ trở thành một phương tiện biểu
đạt rất tinh tế và sinh động, thể hiện rõ nhất ở ngôn ngữ văn chương:
Còn trời, còn nước, còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa.
(Ca dao)
Say sưa có thể được hiểu là một trạng thái sinh lí (vì rượu mà say) và cũng có thể là m ột tr ạng
thái tâm lí (vì cô bán rượu mà say). Chính cách hiểu nước đôi này đã t ạo ra sự ý vị c ủa câu ca dao.
c. Tính phân đoạn đôi
Hệ thống ngôn ngữ được tổ chức theo hai bâc, trong đó bậc thứ nhất gồm m ột số l ượng h ạn
chế những đơn vị âm cơ bản, không có nghĩa, có thể kết hợp v ới nhau đ ể t ạo ra nh ững đ ơn v ị thu ốc
bắc thứ hai, gồm một số lượng lớn những đơn vị có nghĩa. Những đ ơn vị âm c ơ b ản đó đ ược g ọi âm
vị. Số lượng âm vị trong mỗi ngôn ngữ thường khoảng 40. Các âm vi k ết h ợp v ới nhau đ ể t ạo ra
khoảng vài nghìn hình vị. Các hình vị kết hợp lại v ới nhau để t ạo thành t ừ vài ch ục nghìn đ ến vài
trăm nghìn từ. Các từ kết hợp với nhau để tạo thành m ột số l ượng vô h ạn nh ững ng ữ đo ạn và câu
(về khái niệm âm vị, hình vị, từ, ngữ đoạn và câu, xin xem chi ti ết ở 2.3.2. Các y ếu t ố c ủa h ệ th ống
ngôn ngữ).
Nhiều dấu hiệu giao tiếp khác của con người và những d ấu hi ệu giao ti ếp c ủa loài v ật không
có cấu trúc hai bậc như vậy. Ở đó mỗi đơn vị cơ bản gắn với một nghĩa, có bao nhiêu đơn vị cơ bản thì
có bấy nhiêu nghĩa được biểu đạt.
Có thể thấy rõ điều này khi so sánh ngôn ngữ với hệ thống đèn giao thông. Ch ẳng h ạn, m ột
câu như: "Mọi người phải dừng lại" được cấu tạo từ hai đ ơn v ị có nghĩa nh ỏ h ơn: m ọi ng ười và ph ải
dừng lại, rồi mọi người và phải dừng lại được cấu tạo t ừ những đơn vị có nghĩa nh ỏ h ơn n ữa: m ọi,
người, phải, dừng, lại. Đến lượt mình, các đơn vị có nghĩa nh ỏ nhất (không th ể phân tích thành
những đơn vị có nghĩa nhỏ hơn) như mọi, người, phải, dừng, lại được c ấu t ạo t ừ nh ững đ ơn v ị âm
thanh có hình thức chữ viết là m, o, i, ng, ươ, ph, a, d, v.v... D ấu hi ệu đèn đ ỏ trong h ệ th ống đèn giao
thông có thể truyền đi một thông báo tương tự, nhưng đèn giao thông không có c ấu trúc hai b ậc. Ta
không thể nào phân tích cái dấu hiệu đèn đỏ này thành những yếu tố nhỏ hơn.
Nhờ có cấu trúc hai bậc mà ngôn ngữ có tính năng s ản. Bất kì m ột ng ười bình th ường nào
cũng có thể nói những câu mà trước đó người đó chưa bao gi ờ nói, có th ể nghe hi ểu nh ững câu tr ước
đó chưa bao giờ nghe. Khả năng tạo ra những câu m ới c ủa ngôn ng ữ là vô h ạn. T ương t ự nh ư m ột s ố
lượng rất hạn chế các con số (0, 1,...9) có thể k ết h ợp v ới nhau đ ể t ạo thành vô s ố nh ững con s ố l ớn
hơn.
d. Khác với các hệ thống dấu hiệu giao tiếp c ủa loài v ật, ngôn ng ữ có th ể thông báo v ề nh ững
gì diễn ra không phải ngay tại thời điểm và địa đi ểm mà d ấu hi ệu ngôn ng ữ đ ược s ử d ụng, th ậm chí
con người có thể dùng ngôn ngữ để nói về một thế gi ới tưởng tượng nào đó. Ph ương ti ện giao ti ếp
của loài ong có thể thông báo về những vùng có hoa cách xa v ị trí c ủa các ch ủ th ể giao ti ếp, nh ưng
khả năng này rất hạn chế. Một con vẹt có thể bắt chước rất tài tình nh ững âm thanh do con ng ười
phát ra như Xin chào khách; Vui quá; Ông ơi, tr ời m ưa, V.V.:., nh ưng nó tuy ệt nhiên không có kh ả năng
tạo ra những chuỗi âm thanh mới mang nghĩa.
Tổng hợp tất cả những đặc điểm trên đây tạo nên tính đặc biệt của dấu hiệu ngôn ngữ.
1.3. Chức năng của ngôn ngữ
1.3.1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người
Giao tiếp là hoạt động truyền đạt, trao đổi thông tin. Ph ương ti ện giao ti ếp có r ất nhi ều lo ạiphuơng tiện giao tiếp của con người và phương tiện giao ti ếp của loài v ật, ph ương tiên giao ti ếp
ngôn ngữ và phương tiên giao tiếp phi ngôn ngữ, v.v... Riêng con ng ười dùng nhi ều lo ại ph ương ti ện
giao tiếp khác nhau như đèn giao thông, cử chỉ, tiếng chuông báo hi ệu (gi ờ h ọc, gi ờ tàu kh ởi hành, gi ờ
tan tầm, v.v...), v.v... nhưng không có phương tiện nào quan trọng như ngôn ngữ, bởi vì:
a. Ngôn ngữ là phương tiên giao tiếp phổ bi ến nhất: ngôn ng ữ c ần thi ết đ ối v ới t ất c ả m ọi
người, có thể được sử dụng bất kì lúc nào và bất kì ở đâu. Nói cách khác, ph ạm vi s ử d ụng c ủa ngôn
ngữ là không hạn chế.
b. Ngôn ngữ là phương tiện có khả nàng thể hiện đầy đủ và chính xác t ất c ả nh ững t ư t ưởng,
tình cảm, cảm xúc mà con người muốn thể hiện. Giao tiếp bằng c ử ch ỉ n ội dung r ất nghèo nàn, đôi
khi có thể gây hiều lầm. Những phương tiện khác như âm nhạc, h ội h ọa, v.v... có th ể bi ểu đ ạt r ất đ ộc
đáo, sâu sắc và tinh tế những tình cảm, cảm xúc, v.v... c ủa con ng ười, nh ưng dù sao nh ững ph ương
tiện này cũng hạn chế về phạm vi sử dụng, không có khả năng bi ểu đ ạt rõ ràng t ất c ả nh ững gì mà
con người muốn biểu đạt như ngôn ngữ.
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ bao hàm nhi ều chức năng bộ phận: ch ức năng truy ền thông
tin đến người khác, chức năng yêu cầu một người khác hành động, ch ức năng b ộc l ộ c ảm xúc c ủa
người nói, chức năng xác lập, duy trì quan hệ gi ữa các thành viên trong một c ộng đ ồng, v.v... Ngôn ng ữ
không chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên trong cùng m ột th ế h ệ, cùng s ống m ột th ời kì,
mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, là ph ương ti ện đ ể con ng ười truy ền đi nh ững thông
điệp cho các thế hệ tương lai.
1.3.2. Ngôn ngữ là phương tiện tư duy
Ngôn ngữ không chì là phương tiện giao ti ếp, mà còn là ph ương ti ện t ư duy. Nghĩa là nh ờ có
ngôn ngữ mà con người có thể thực hiện các hoạt động t ư duy. Con người không ch ỉ dùng ngôn ng ữ
khi cần trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc với người khác, tức là khi c ần giao ti ếp, mà còn dùng
ngôn ngữ ngay cả khi nói một mình, thậm chí khi suy nghĩ m ột mình và không phát ra m ột l ời nào.
Các khái niệm, phán đoán hay suy lí, tức những hình th ức c ơ b ản c ủa t ư duy, đ ều t ồn t ại d ưới hình
thức biểu đạt là ngôn ngữ.
Và ngược lại, nếu khống có tư duy thì cũng không có ngôn ngữ. Vì khi đó các đ ơn v ị ngôn ng ữ
chỉ còn là những âm thanh trống rỗng, vô nghĩa. Ngôn ngữ và tư duy nh ư hai m ặt c ủa m ột t ờ gi ấy,
không thể tách mặt này ra khỏi mặt kia.
Ngôn ngữ và tư duy thống nhất, nhưng không đồng nhất. Ngôn ngữ là ph ương tiên bi ểu đ ạt,
còn tư duy là cái được biểu đạt. Bên cạnh những đặc điểm có tính ph ổ quát (ngôn ng ữ nào cũng có),
và những đặc điểm có tính loại hình (chung cho các ngôn ng ữ thu ộc cùng m ột nhóm nào đó), m ỗi
ngôn ngữ mang những đặc trưng riêng không l ặp lại ở nh ững ngôn ng ữ khác; trong khi đó t ư duy, v ề
cơ bản, là mang tính nhân loại, nghĩa là không có s ự khác bi ệt đáng k ể nào gi ữa t ư duy c ủa dân t ộc
này với tư duy của dân tộc khác.
Sở dĩ ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vì ngôn ngữ không phải chỉ là nh ững t ổ h ơp âm thanh,
mà là những tổ hợp âm thanh biểu đạt tư tưởng của con người, t ức bi ểu đ ạt k ết qu ả c ủa ho ạt đ ộng
tư duy. Chính vì vậy, có thể nói, chức năng làm phương tiện giao ti ếp c ủa ngôn ng ữ g ắn ch ặt v ới ch ức
năng làm phương tiện tư duy của nó.
2.3. Hệ thống và cấu trúc ngôn ngữ
2.3.1. Hệ thống và cấu trúc là gì?
Có thể nói hệ thống là một trong những khái ni ệm quan trọng và ph ổ bi ến nh ất trong các lĩnh
vực khoa học hiện đại, bởi vì dường như không một lĩnh vực khoa h ọc nào không dùng đ ến khái
niệm này. Điều đó xuất phát từ chỗ thế gi ới tồn tại xung quanh chúng ta là m ột h ệ thống. Th ế gi ới t ự
nhiên là một hệ thống. Thế giới xã hội là một hệ thống. Mỗi quốc gia ià m ột h ệ th ống. M ỗi gia đình là
một hệ thống. Mỗi cơ thể con người là một hệ thống. Mỗi bàn cờ là m ột h ệ thống, v.v... Và ngôn ng ữ
là một trong những hệ thống điển hình nhất.
Như dã nêu trên, hệ thống là một thể thống nhất các yếu tố có quan hệ với qhau. Còn c ấu trúc
là toàn bộ những quan hệ tồn tại trong một hệ thống. Như vậy, trong h ệ thống bao gi ờ cũng có c ấu
trúc và cấu trúc bao giờ cũng thuộc về một hộ thống nhất định.
Giá trị của một yếu tố trong hệ thống do quan hệ giữa yếu tố đó v ới các y ếu t ố khác quy đ ịnh.
Nói cách khác, cấu trúc của một hệ thống quy định giá trị cùa từng yếu tố của hệ thống và qua đó quy
định giá trị của toàn bộ hệ thống. Cùng với những quân cờ như nhau, nhưng khi thay đ ổi v ị trí c ủa các
con cờ (cấu trúc của hệ thống) thì thế cờ (giá trị của hệ thống) sẽ thay đ ổi. Cũng có th ể nói nh ư v ậy
về một đội bóng.
Không chỉ ngôn ngữ, mà sản phẩm của ngôn ngữ đ ược con người dùng đ ể giao ti ếp cũng là
những hộ thống. Câu Người thợ săn giết chết con hổ là m ột h ệ th ống. Khi quan h ệ gi ữa các y ếu t ố
trong hệ thống này thay đổi, ta sẽ có hệ thống khác, t ức m ột câu khác, ch ẳng h ạn Con h ổ gi ết ch ết
người thợ săn.
2.3.2. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ
Khác với nhiều hệ thống khác, ngôn ngữ là một hệ thống rất phức tạp, g ồm nh ững y ếu t ố
đồng ioại và không đồng loại với nhau.
Trong phần trẽn, ta đã biết đến cấu trúc hai bậc của hệ thống ngôn ngữ: b ậc c ủa nh ững đ ơn
vị âm cơ bản, không có nghĩa và bậc cùa những d ơn vị có nghĩa. Phân tích chi ti ết h ơn có th ể hình
dung các đơn vị ngôn ngữ được sắp xếp theo những cấp độ sau:
a. Cấp độ âm vị: là cấp độ của các àm vị, đơn vị âm cơ bản và nhỏ nhất của hệ thống ngôn ngữ.
Bản thân âm vị không có nghĩa, mà chỉ có chức năng t ạo v ỏ ng ữ âm c ủa các đ ơn v ị mang nghĩa. Nói
cách khác, âm vị chỉ có chức năng khu biệt nghĩa. Chẳng hạn trong ti ếng Anh, m ột đ ơn v ị có nghĩa
như tea /t i: / “trà” có 2 âm vị, cat / /kæt/ “mèo” có 3 âm vị.
b. Cấp độ hình vị: là cấp độ cùa các hình vị, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa. Trong t ừ qu ốc
gia (tiếng Việt) có 2 hình vị, trong từ teacher “giáo viên” (tiếng Anh) có 2 hình vị.
c. Cấp độ từ: là cấp độ của các từ, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng hoạt động đ ộc l ập,
tức có khả năng đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu hay có quan h ệ k ết h ợp (xem khái
niệm quan hệ kết hợp ở mục 2.3.3) với những đơn vị có khả năng đó. Ngoài t ừ, ng ữ c ố đ ịnh cũng là
đơn vị ngôn ngữ có khả năng hoạt động độc lập, nhưng đó không ph ải là đ ơn v ị ngôn ng ữ nh ỏ nh ất
có khả năng này.
Mỗi cấp độ trên đây là một yếu tố của hệ thống ngôn ngữ. Đến lượt mình, m ỗi cấp đ ộ cũng có
thể được coi là một hệ thống gồm có các yếu tố là những đơn vị tương ứng của nó.
d. Các đơn vị thuộc bình diện lời nói
Ngoài âm vị, hình vị và từ, nhiều tài liệu Ngôn ngữ h ọc còn đ ề c ập đ ến ng ữ đo ạn (ng ữ) và câu
như những đơn vị ngôn ngữ. Tuy nhiên, đứng trên quan đi ểm phân bi ệt ch ặt chẽ hai bình di ện ngôn
ngữ và lời nói thì chì có âm vị, hình vị và từ m ới được xem là nh ững đ ơn v ị thu ộc h ệ tôn ti c ủa các đ ơn
vị ngôn ngữ. Còn ngữ đoạn và câu thuộc bình diện lời nói, vì chúng không phải là đơn vị có sẵn mà chỉ
được hình thành khi nói và có số lượng vô hạn. Trong ngữ đoạn và câu, cái có s ẵn, có tính l ập l ại, có
số lượng hữu hạn làm thành quy tắc chi phối cách sử dụng đối với t ất cả thành viên trong m ột c ộng
đồng ngôn ngữ chính là mô hình cấu trúc, mô hình cấu trúc ng ữ đo ạn và mô hình c ấu trúc câu. Tuy
nhiên, mô hình cấu trúc không phải là đơn vị.
Ngữ đoạn là dơn vị lời nói đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu. Câu là đ ơn v ị l ời nói
nhỏ nhất dùng để giao tiếp. Đoạn văn và văn bản cũng là nh ững đ ơn v ị l ời nói dùng đ ể giao ti ếp, tuy
nhiên đó không phải là những đơn vị lời nói nhỏ nhất thực hiện chức năng này.
2.3.3. Các quan hệ trong ngôn ngữ
Quan hệ kết hợp: là quan hệ giữa các đơn vị cùng xuất hi ện và tổ h ợp v ới nhau đ ể t ạo ra m ột
đơn vị lớn hơn. Chẳng hạn trong câu Chúng tôi rất thích môn h ọc ấy, gi ữa chúng tôi và r ất thích môn
học ấy, giữa rất và thích, giữa môn học và ấy có quan hệ kết h ợp. Trong câu này, m ặc dù h ọc và ấy
cùng xuất hiện trong một câu và có vị trí cạnh nhau, nhưng học không có quan h ệ k ết h ợp v ới ấy, nói
cách khác học ấy không phải là một đơn vị.
Quan hệ kết hợp bao giờ cũng là quan hệ gi ữa các đơn vị cùng loại (cùng ch ức năng). Vì th ế
trong một kết hợp như XYZ, nếu X và z là âm vị thì Y cũng ph ải là âm v ị, n ếu X và Z là hình v ị thì Y
cũng phải là hình vị, v.v...
Quan hệ đối vị: là quan hệ giữa các đơn vị có khả năng thay th ế nhau ở m ột v ị trí nh ất đ ịnh.
Các đơn vị có quan hệ đối vị với nhau lập thành một hệ đối vị. Chúng không bao gi ờ xu ất hi ện k ế
tiếp nhau trong lời nói. Chẳng hạn trong tiếng Anh, my “của tôi”, your “c ủa anh / ch ị”, this “này, s ố
đơn”, these “kia, số phức”, that “kia, số đơn”, those “kia, số ph ức”, the “quán t ừ xác đ ịnh”, a/an “quán t ừ
bất định” thuộc cùng một hệ đối vị, nên không bao gi ờ hai hoặc nhi ều hơn hai đ ơn v ị trong nhóm này
kết hợp với nhau trong lời nói. Như vậy * a my friend là một k ết h ợp sai ng ữ pháp. Mu ốn bi ểu đ ạt ý
“một người bạn của tôi”, tiếng Anh dùng ngữ đoạn a friend of mine.
Cũng như quan hệ kết hợp, quan hệ đối vị bao giờ cũng là quan hệ gi ữa các đ ơn v ị cùng lo ại
(cùng chức năng).
Quan hệ cấp độ (quan hệ tôn ti): là quan hệ giữa một đơn vị ( ở cấp độ thấp) v ới m ột đ ơn v ị
(ở cấp độ cao) mà nó là một yếu tố cấu thành. Chẳng hạn như quan h ệ gi ữa qu ốc và gia v ới qu ốc gia
trong tiếng Việt, teach và er với teacher “giáo viên” trong tiếng Anh.
1.2. Bản chất và cấu tạo của ngữ âm
1.2.1. Về mặt âm học
Cũng như các âm khác trong tự nhiên, âm trong ngôn ngữ là một sự chấn đ ộng c ủa không khí
bắt nguồn từ sự rung động của một vật thể nào đó.
Âm truyền đi trong không khí dưới hình thức những làn sóng nối ti ếp nhau, v ới t ốc đ ộ ch ừng
340m/giây. Mỗi âm được phân biệt bằng ba yếu tố sau đây:
1.2.1.1. Độ cao
Độ cao phụ thuộc vào tốc độ rung động, nghĩa là phụ thuộc vào số lượng rung đ ộng xảy ra
trong một đơn vị thời gian: số rung động càng nhiều (tần số càng l ớn) thì âm càng cao. Đ ơn v ị đo
rung động là Hertz, viết tắt là Hz. Mỗi Hertz bằng một chu kì rung đ ộng (g ồm hai chuy ển đ ộng, m ột
ngả về phía này và một ngả về phía kia so với vị trí cân bằng; ở hình 3, chuy ển đ ộng t ừ B lên C xu ống
B, đến A, rồi trở lại B, là một chu kì) trong m ột giây. Để xác đ ịnh t ần s ố c ủa m ột âm, ch ỉ c ần đ ếm s ố
đỉnh sóng âm trong một đơn vị thời gian ( ở hình 4, có 10 đ ỉnh sóng âm trong 0,5 giây, t ức t ần s ố là
20Hz.). Cần lưu ý rằng tần số là đặc trưng vật lí, còn độ cao là câu chuy ện tâm lí. L ỗ tai binh th ường
của con người chỉ có thể nghe được trong gi ới hạn từ 16Hz đến 20.000Hz. Nhìn chung, t ần s ố ở l ời
nói của trẻ con là vào khoảng 200-500Hz; của đàn bà là 150- 300Hz; c ủa đàn ông là 80-200HZ.
Độ cao của ngữ âm cho ta biết nhiều thông tin phi ngôn ngữ (gi ới tính, tu ổi tác, xúc c ảm...) và
cả những thông tin Ngôn ngữ học nữa. Tất cả các ngôn ngữ đều sử d ụng s ự khác bi ệt v ề đ ộ cao đ ể
đánh dấu ranh giới các đơn vị cú pháp. Hầu như câu bình th ường trong m ọi ngôn ng ữ đ ều k ết thúc
bằng độ cao đi xuống. Trái lại, những câu nói ngập ngừng, ch ưa k ết thúc đ ều có đ ộ cao đi lên. Đ ộ cao
không những quan trọng trong việc hình thành trọng âm, ngữ đi ệu, mà ở m ột s ố ngôn ng ữ nh ư ti ếng
Việt, tiếng Hán, tiếng Thái..., nó còn góp phần tạo nên một đơn vị ngữ âm riêng, là thanh đi ệu.
1.2.1.2. Độ to
Độ to phụ thuộc chủ yếu vào độ mạnh, tức vào biên độ (độ d ời l ớn nh ất c ủa m ột v ật th ể so
với vị trí cân bằng; xem hình 3). Độ to là chuy ện tâm lí, khác v ới biên đ ộ và đ ộ m ạnh là đ ặc tr ưng v ật
lí. Biên độ càng lớn âm càng mạnh. Đơn vị đo độ mạnh là decibel, vi ết t ắt là dB. N ếu âm này h ơn âm
kia 5dB thì độ to tãng xấp xỉ hai lần. Nhưng n ếu độ mạnh thay đ ổi IdB, thì s ự thay đ ổi v ề đ ộ to ch ỉ
mới đạt đến ngưỡng có thể nghe được.
Nói chung, khi có sự rung động của dây thanh, nguyên âm nghe to nh ất, sau đó, kém h ơn m ột
chút là các phụ âm có luồng hơi thoát ra bên l ưỡi hay theo đ ường mũi. Các âm xát vô thanh nghe r ất
yếu, còn các âm tắc vô thanh -p, -k, -t như trong các từ ráp, rác, rát ti ếng Vi ệt, là hoàn toàn không có
độ mạnh và do đó, không có độ to, hay nói cách khác là zêrô v ề m ặt âm h ọc; s ự khác bi ệt ng ữ âm gi ữa
các từ trên thể hiện ở tính chất âm học của nguyên âm đứng trước. Trong một số ngôn ngữ như tiếng
Anh, tiếng Nga..., độ to đóng vai trò chủ y ếu trong vi ệc t ạo ra tr ọng âm c ủa t ừ. Ở nhi ều ngôn ng ữ khu
vực Đông Nam Á, âm tiết thứ hai của từ song ti ết thì bao gi ờ cũng có tr ọng âm, g ọi là âm ti ết chính,
còn âm tiết thứ nhất không mang trọng âm, gọi là âm ti ết ph ụ hay ti ền âm ti ết; nguyên âm ở âm ti ết
phụ thường hay biến đổi bởi vì ở vị trí không mang trọng âm, các âm vị sẽ mất dần các đ ặc tr ưng c ủa
chúng.
1.2.1.3. Âm sắc
Âm sắc là sắc thái riêng của âm. Tiếng đàn dương cầm và tiếng đàn vĩ c ầm dù đánh lên cùng
một nốt với độ cao và độ to như nhau, thì vẫn nghe khác nhau, đấy là sự khác nhau về âm sắc.
Âm thanh không phải là một sự rung động đơn gi ản, mà là h ợp th ể c ủa nhi ều rung đ ộng x ảy
ra đồng thời. Gảy vào một sợi dây đàn không những s ợi dây đàn sẽ rung lên toàn b ộ, mà còn ch ấn
động từng phần: nửa phần dây, một phần ba, m ột phần t ư... S ự ch ấn đ ộng toàn b ộ có t ần s ố th ấp
nhất, gọi là âm cơ bản (thường được kí kiệu là F0), quy ết định đ ộ cao c ủa c ả âm ph ức h ợp. Các âm
cục bộ, gọi là họa âm, có tần số cao hơn và là bội số của tần số âm cơ bản.
Tính chất của các họa âm bị tác động bởi hiện tượng cộng hưởng. Thực chất c ủa hi ện t ượng
này là ở chỗ một vật thể có khả năng rung động, nếu tần số rung động c ủa nó t ương đ ương v ới t ần
số rung dộng của một vật thể khác, thì nó sẽ hấp thu rung động c ủa v ật th ể này, và chính nó cũng
phát ra âm thanh, kết quả là âm thanh được tăng cường. Trong bộ máy c ấu âm c ủa con ng ười, các
khoang yết hầu, miệng và mũi đóng vai trò khoang c ộng h ưởng. S ự ho ạt đ ộng c ủa môi, l ưỡi, m ạc, c ơ
yết hầu làm cho các khoang cộng hưởng này thay đổi, đ ưa đ ến các âm s ắc khác nhau. Các nguyên âm
đều có thể được phát âm cùng một độ cao và độ to, nhưng vẫn khác bi ệt nhau, chính là do không
giống nhau về âm sắc. Mỗi nguyên âm có một sắc thái riêng nh ờ sự h ợp thành âm c ơ b ản v ới các h ọa
âm được tăng cường. Mặt khác, các khoang cộng hưởng trong bộ máy cấu âm c ủa m ỗi ng ười không
hoàn toàn như nhau, điều đó là một trong những cơ sở quan trọng khi ến cho m ỗi ng ười có m ột gi ọng
nói riêng.