Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Khởi nghĩa yên thế và vai trò của hoàng hoa thám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.41 KB, 36 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta mỗi địa phương là một
khúc ruột của Tổ quốc, đều mang cho mình những trang sử hào hùng góp phần
vào lịch sử vẻ vang của dân tộc. Yên Thế là một mảnh đất như vậy. Một vùng
đất gắn liền với cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 30 năm để lại những bài học
và ý nghĩa to lớn gắn liền với ta và vai trò lãnh đạo của người anh hùng Hoàng
Hoa Thám.
Trước nạn Tây Dương xâm lược, con người vùng đất Yên Thế đã sớm
giác ngộ và đứng lên đánh giặc. Họ đã biết chiến đấu vì cái lớn lao hơn ước mơ
của cá nhân mình. Nguồn gốc sâu xa của những hoạt động ấy xuất phát tự sự
quý trong nền độc lập, tự do của dân tộc, mà người dân Yên Thế đã bao nhiêu
thế hệ theo đuổi. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã trở thành bản lề của cả giai đoạn
lịch sử cận đại Việt Nam, là cái vạch nối của Thế kỷ XIX và Thế kỷ XX; của cả
hai giai đoạn lịch sử trung đại, hiện đại Việt Nam. Hơn bất kỳ một phong trào
nào cũng nổ ra đương thời, khởi nghĩa Yên Thế đã góp phần làm phong phú
thêm những trang sử chống ngoại xâm rất vẻ vang của dân tộc và kho tàng lý
luận quân sự của nhân dân. Những chiến sĩ kiên cường và quả cảm cùng người
anh hùng Hoàng Hoa Thám của đất rừng Yên Thế mãi là một biểu tượng đẹp
cho lòng yêu nước nồng nàn.
Cuốn tiểu luận “Khởi nghĩa Yên Thế và vai trò của Hoàng Hoa Thám”
này dù còn nhiều thiếu sót nhưng hy vọng sẽ làm rõ hơn phần nào về cuộc khởi
nghĩa này.


B. NỘI DUNG
Chương I. KHỞI NGHĨA YấN THẾ
1.HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Tư bản Pháp lăm le nổ súng xâm lược đúng vào lúc chế độ phong kiến
Việt Nam đang đi sâu vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Lúc này,những
mầm mống đầu tiên của chủ nghĩa tư bản ở trong nước đó xuất hiện và ngày
càng mâu thuẫn đối kháng với quan hệ kinh tế phong kiến bảo thủ lạc hậu bao


trùm đời sống xó hội Việt nam. Nền kinh tế tiểu nụng đang cần được phát triển
nhưng bị chế độ chiếm hữu và phong kiến bóc lột uy hiếp nghiêm trọng. Đây
cũng là thời kỳ bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân trên quy mô rộng lớn
trong phạm vi cả nước đũi hỏi đất nước phải sớm thống nhất. Cuộc khởi của
nông dân Tây Sơn thắng lợi đó mở ra nhiều triển vọng cho sự phỏt triển của lực
lượng sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng dựa vào thế lực tư bản Pháp
Nguyễn Ánh đánh thắng Tây Sơn xong bộ máy chính trị của triều Nguyễn ngay
từ đầu đó mang nặng tớnh chất quan liờu,độc đoán và sâu mọt. Trong hoàn cảnh
đó đời sống của những người nông dân vo cùng cơ cực. Dưới triều Nguyễn tổ
chức xó thụn đó hoàn toàn trở thành một cụng cụ của bon cường hào địa chủ ở
nông thôn. Nó trói buộc người nông dân trong những quan hệ địa phương hẹp
hũi cú lợi ớch cho sự búc lột của nhà nước phong kiến, và cản trở sự phát triển
của nền kinh tế hàng hóa.
Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm trọng ruộng đất
nhiều phần tập chung vào tay bọn quan lại địa chủ. Công điền,công thổ,chỗ nào
béo tốt đều bị bọn cường hào lũng đoạn,cũn lại bọn hương lý bao chiếm,dõn
nghũe chỉ được những chỗ xương xẩu mà thôi. Cho nên nông dân nói chung
không có ruộng cày,đời sống vô cùng cực khổ.
Như vậy giữa thế kỷ XIX Việt nam đó suy yếu về mọi mặt và trở thành
miếng mồi ngon đối với các nước tư bản Phương tây,đặc biệt là đối với tư bản
Pháp từ lâu đó cú cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt động ngấm ngầm và liên
tục của bon gián điệp đội lốt con buôn và giáo sỹ.
Ngày 31-8-1888 Thực dân Pháp mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Khi Tổ
quốc bị xâm lăng,nhân dân ta với truyền thống yêu nước đó liờn tiếp nổi dậy
những phong trào đấu tranh đẻ gỡn giữ đọc lập tự do của Tổ quốc. Vỡ vậy mói
25 năm sau với hiệp ước Hacmang (1883) và hiiep ước Patonop(1884) phải ký
kết dưới áp lực quân sự của tư bản Pháp đó đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của


nhà nước phong kiến Việt nam vad sự đầu hàng của nhà Nguyễn trước chủ nghĩa

tư bản Pháp.
Trong những phong trào dõn tộc cuối thờ kỷ XIX, song song với các cuộc
đấu tranh Cần Vương cũn cú cỏc cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đồng
bào miền núi. Theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp phong trào khỏng
chiến của nhõn dõn ta nổi dậy từ đồng bằng rồi lan ra trung du, miền núi. Trong
hàng loạt các cuộc nụi dậy của nụng dõn nổi bật nhất là phong trào nụng dõn
Yờn Thế.
Căn cứ Yên Thế ở phía Bắc tỉnh Bắc Giang có diện tích rộng chừng 4045 km2 cú rừng cõy rậm rạp, gũ bụi um tựm. Từ đây có thể thông sang Tam
Đảo, xuống Vĩnh Yên, Phúc Yên.
2. Diễn biến khởi nghĩa Yên Thế
Khởi nghĩa Yên Thế diễn ra qua 4 giai đoạn:
2.1 Giai đoạn 1 (1884 – 1892).
Vào những năm này, ở Yên Thế có mặt nhiều toán nghĩa quân. Quan
trọng nhất là toán của Đề Nắm. Sau khi khởi nghĩa Cai Kinh tan vỡ, Bá Phức,
Thống Luận, Đề Dương (tức Đề Thám) mỗi người cầm đầu một toán nghĩa quân
về góp mặt với Đề Nắm. Ngoài ra cũn cú cỏc toán nghĩa quân của Tổng Tài, Đề
Thuật, Đề Chung, Đề Lâm v.v… Họ chia nhau đóng quân suốt một giải từ Chợ
Gồ đến giáp Mỏ Trạng, sẵn sàng đánh trả các cuộc càn quét của thực dân Pháp.
Tuy không có người chỉ huy thống nhất, song cũng có một mục đích chung là
quyết bảo vệ miền rừng núi Yên Thế tự do, nên các toán nghĩa quân sống với
nhau khá hoà thuận, cứu giúp nhau khi gặp khó khăn, nhường nhịn nhau khi
phải tranh chấp, và khi tỡnh huống chung trở nờn khú khăn, biết phối hợp với
nhau để chống giặc.
Thực dân Pháp, ngay từ năm 1884 đó coi vựng Yờn Thế là một trong
những trọng điểm bỡnh định ở miền trung du Bắc Kỳ, song chưa thể tập trung
được lực lượng để tiến hành.
Thỏng 12-1885, Digguet đem 300 quân vào càn quét Yên Thế, nhưng phải
rút quân về vỡ bị nghĩa quõn đánh chặn ở gần Hữu Thượng và mỏ Na Lương.
Cũng vào tháng 12-1885, Pháp cho lập đồn Tĩnh Đạo, rồi từ đó cho quân đồn trú
ở đây thường xuyên càn quét xung quanh Hữu Thượng. Tháng 10-1887, chỳng

lại cho quõn vào thỏm sát đường từ Yên Thế đi Lạng Sơn, rồi đến tháng 2-1889
lập đồn Bố Hạ và một số đồn lính khố xanh ở Bỉ Nội. Từ tháng 8 đến tháng 91889, Đại uý Gorce đem quân càn quét chiếm Tế Lộc, áp sát Hữu Thượng song


phải dừng cuộc hành quân để đối phó với Đội Văn lúc ấy phản chiến đem theo
100 tay súng đang kéo về Yên Thế.
Trong thời gian đó, nghĩa quân Yên Thế khẩn trương đắp công sự ở Hữu
Thượng và Dĩnh Thép, chuẩn bị ngăn Pháp tiến công. Cho đến lúc đó, vùng Yên
Thế Thượng hoàn toàn cũn do nghĩa quõn làm chủ.
Vào cuối năm 1890, sau khi đó đàn áp xong khởi nghĩa Cai Kinh và Đội
Văn, thực dân Pháp lại mở tiếp những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng
Thượng Yên Thế. Lúc này toán nghĩa quân của Đề Thám lập căn cứ ở Hố Chuối
và kiểm tra dọc con đường từ Hố Chuối đến Cao Thượng dài hơn 10km, trấn giữ
cửa ngừ của Yờn Thế Thượng.
Tháng 11-1890, tướng Godin chỉ huy 800 quân với 5 sơn pháo và 2 pháo
thuyền từ nhiều ngả đánh vào Yên Thế. Lúc này một bộ phận của nghĩa quân Đề
Thám đóng ở đồi Yên Ngựa giáp làng Cao Thượng. Quân Pháp đó tổ chức đánh
nống ra phía sau đồi, chúng chiếm lĩnh 2 điểm cao là đồi Bồ Cù phía Đông và
đồi Rừng Trưa phía Đông Bắc, rồi bắn sơn pháo sang đồi Yên Ngựa. Đồng thời
chúng cho quân xuất kích từ hai điểm cao đó, len lỏi qua làng Cao Thượng, tập
kích nghĩa quân đóng trên đồi. Trên đỉnh đồi có cây cối rậm rạp, nghĩa quân đào
nhiều công sự giấu kín lực lượng chờ cho địch bắt đầu leo lên mỏm đồi phía
Đông Bắc mới nhất loạt nổ súng. Kế đó, nghĩa quân cho một lực lượng xuất kích
đánh bọc sau lưng địch. Quân Pháp bị đánh vu hồi phải chống trả rất khó khăn.
Hai bên kịch chiến từ sáng đến tối ngày 6-11-1890. Để đánh bị sơn pháo của
địch làm tiêu hao lực lượng, nghĩa quân rút về Hố Chuối, sẵn sàng chờ địch.
Hố Chuối là một bói đất phẳng đầy cây cối, rộng chừng nửa km 2, cao hơn
mặt ruộng chừng 1m, nằm ở phía Đông Nam Chợ Gồ, chỗ gặp nhau của con
đường Bố Hạ - Chợ Gồ, Mỏ Trạng - Chợ Gồ và Nhó Nam - Chợ Gồ. Xung
quanh bói đất là những đồi cao chừng 40m đến 50m, cây cối mọc rậm rạp, dây

leo chằng chịt. Toàn bộ địa hỡnh ở đây tạo thành một lũng chảo đáy bằng rất kín
đáo. Đứng ở ngoài vành đồi dù dùng kính viễn vọng cũng khụng thể nhỡn thấy
cú gỡ ở bờn trong. Đề Thám đó chọn địa điểm này để xây dựng hệ thống công
sự biến toàn bộ lũng chảo Hố Chuối thành một phỏo đài phũng thủ kiờn cố, khả
năng cầm cự có kết quả với những đơn vị rất mạnh của quân đội Pháp trong thời
gian tới.
Hệ thống công sự Hố Chuối được xây dựng khoảng từ cuối năm 1889 và
vào cuối tháng 12-1890 khi quân Pháp kéo đến, hệ thống này đó được xây dựng
hoàn chỉnh.


Cụng sự Hố Chuối gồm 3 cụng sự lớn: cụng sự chớnh, cụng sự phớa Bắc,
cụng sự phớa Nam.
Cụng sự chính được xây dựng trên nền đất phẳng ở lũng chảo, nằm ở
phớa Đông Nam suối Cầu Gồ. Suối này bắt nguồn từ vùng rừng núi Dĩnh Thép,
chảy qua Cầu Gồ, Hố Chuối rồi đổ vào sông Sỏi, một chi lưu của sông Thương.
Công sự này là một thành đất hỡnh chữ nhật, bề rộng 40m, bề dài 65m. Thành
dắp bằng đất sỏi theo lối ghép ván trỡnh tường. Chân thành dày từ 2m50, mặt
thành dày 1m, chiều cao 2m50, có chỗ cao 3m. Mặt Đông Bắc của thành cao tới
5m50 tính từ mặt suối. Bốn góc thành có công sự hỡnh tứ giỏc nhụ cao hẳn ra
ngoài. Từ chân thành trở lên có từng hàng lỗ châu mai cách nhau chừng 50cm.
Mặt ngoài thành đắp chi chít tre vót nhọn như lông nhím. Cổng vào được mở ở
mặt chính Bắc thành và được bao quanh bởi một đoạn thành chạy vũng cung che
kớn. Đoạn đường này đắp mỏng hơn tường chính, song cũng cắm chông và đục
lỗ châu mai. Muốn vào thành phải trải qua 3 lượt cổng rất chắc. Phía ngoài thành
về mặt Đông Bắc và Đông là đoạn suối sâu Cầu Gồ có giá trị như một cái hào.
Đề Thám cho thả chà và cắm chông dưới mặt nước, biến đoạn suối này thành
một chướng ngại vật khó vượt qua. Mặt Đông Nam và Đông Bắc của thành là
những cánh rừng rậm. Đề Thám cho đào ở đây nhiều hố chông trũn đường kính
90cm, sâu 80cm. Ở dưới đáy cắm ngược ba hoặc bốn cọc tre vót nhọn cao 50cm

trên phủ lá khô, cành mục. Cách bố trí ấy khiến kẻ địch trước khi tiếp cận chân
thành thường bị sụt hố chông phải rối loạn hàng ngũ. Mặt Đông Nam thành là
một bói đất thấp hơn chân thành, ẩm, tương đối quang. Ở đây có đào một cái
giếng để nghĩa quân dùng nước. Phía trong chân thành là một đường hào sâu
ngang lưng chạy suốt 4 mặt. Giáp chân thành đắp thêm một bậc liền. Khi tác
chiến, nghĩa quân có thể di chuyển dễ dàng trong đường hào cũng như trên mặt
bậc. Ở phía trong 4 mặt thành đều có các chũi cao hơn mặt thành để quan sát
địch tỡnh. Nền đất trong thành được xây dựng nhà ở, kho tàng đủ cho 150 nghĩa
quân sinh hoạt và chiến đấu.
Phía Bắc đồn, chếch bên kia suối Cầu Gồ chừng hơn 100m là một ngọn
đồi cao chừng 50m. Trên gần đỉnh phía Tây của ngọn đồi, Đề Thám cho xây
dựng một công sự lớn. Công sự này là một vành đai hào hỡnh thang sõu độ 1m,
rộng 1m. Ở giữa là cây rừng. Từ đỉnh Đông Nam của công sự có đường hào
chạy gấp khúc đến bờ suối đối diện với góc Bắc của công sự chính. Phía ngoài
công sự dọc hai bên đường hào, nghĩa quân buộc giằng cây rừng lại với nhau
thành một hàng rào rất chắc chắn. Đứng trên công sự này có thể quan sát khá rừ
mặt đường Nhó Nam - Chợ Gồ và Chợ Gồ - Bố Hạ. Phớa Tõy Nam cỏch đồn
chính hơn 100m là một ngọn đồi khá cao và dốc, cõy cối rất rậm. Trên đỉnh mặt


Bắc của đồi, có một công sự chiến đấu thứ hai cũng khá lớn. Công sự này gồm
hai đường hào hỡnh gần trũn.
Để tấn công nghĩa quân ở hệ thống công sự này, kẻ địch chỉ có thể đi bằng
con đường mũn từ Lốo vào cổng Bắc của đồn chính. Song đến trước cổng đồn
chừng 100m chúng vấp phải một cánh rừng rất rậm và những hàng rào kiên cố
phải mất hàng ngày trời chặt phá mới qua được. Đường tiếp tế và cũng là con
đường rút lui khi cần thiết của nghĩa quân ở đây là con đường mũn bớ mật đi từ
phía Đông Bắc công sự chính thông sang làng Nửa hoặc làng Vàng. Ở hai làng
này, nghĩa quân đều có những kho lương thực dự trữ gửi trong dân. Hệ thống
đồn luỹ công sự Hố Chuối được xây dựng công phu, khoa học, chứng tỏ chủ

nhân của nó có con mắt quân sự nhà nghề.
Đầu tháng 12-1890, quân đội thực dân Pháp bắt đầu mở cuộc tấn công
quy mô vào Hố Chuối trong cái rét căm căm của núi rừng Yên Thế. Sỏng ngày
9-12, từng loạt sỳng vang lờn phỏ tan cỏi tĩnh mịch của khu lũng chảo Hố
Chuối. 77 lớnh lờ dương của đại uý Mayer và 66 lớnh khố đỏ của trung uý
Vermot cùng với 1 sơn pháo 80 ly do đại uý Plessier chỉ huy theo đường Lèo ồ
ạt tấn công mặt Bắc công sự chính. Đến cách cổng Bắc 100m, chúng vấp phải
hàng rào phải dừng lại nổ súng, kể cả pháo 80 ly. Công sự vẫn im lỡm khụng
một tiếng súng bắn trả. 20 lính Pháp do Mayer chỉ huy đánh quặt xuống mặt Tây
của thành lập tức bị hoả lực rất dày của nghĩa quân từ các lỗ châu mai chặn đứng
không tiến được một bước. Thấy không thể tấn công vào bất cứ ngả nào khác,
Plessier ra lệnh rút. Phía nghĩa quân không thiệt một người, bỡnh tĩnh và tỉnh
tỏo chờ địch đến.
Ngày 11-12, quân Pháp lại ồ ạt kéo đến. Lần này chúng huy động tới 286
lính gồm 100 lính thuỷ quân lục chiến, 50 lê dương và 136 lính khố đỏ với 1 sơn
pháo 80 ly do trung tá Tane chỉ huy. Chúng vẫn chưa tỡm được đường nào khác
ngoài con đường cũ để tiến công. Chờ cho địch tiến sát hàng rào, nghĩa quân
nhất loạt nổ súng. Chúng liều mạng xông qua hàng rào, lội qua suối tiến sát công
sự phía Bắc. Nghĩa quân ở đây nổ súng chính xác chặn đứng địch. Hàng ngũ
chúng rối loạn phải tạm ngừng tiến công để tổ chức lại lực lượng. Đợt thứ hai,
địch đến cách hàng rào 40m, nổ súng ồ ạt, song vô hiệu. Các công sự vẫn
nguyên vẹn. Cỗ sơn pháo kéo theo vô dụng vỡ khụng phỏt hiện được mục tiêu.
Đến 13 giờ, thấy không thể tiến công được, Tane hạ lệnh rút lui về Nhó Nam.
Một lần nữa, nghĩa quõn lại thắng oanh liệt: hệ thống cụng sự Hố Chuối vẫn
vững vàng và gan dạ thỏch thức quõn địch.


Mười một ngày sau, tức 22-12, địch mới trở lại. Lần này chúng huy động
lực lượng đông hơn nữa: 589 quân địch gồm đủ cả thuỷ quân lục chiến, lê
dương, khố đỏ với 3 khẩu sơn pháo do đại tá Winckel Mayer chỉ huy cùng với

trung tá Tane, đại uý Robert và Ronget. Qua hai lần thất bại, địch cố gắng tỡm
hướng tiến công mới. Hai toán địch do Testard và Plessier được cử đi dũ đường
đều trở về không, Mayer lại phải đi vào đường cũ. Chờ địch đến cách công sự
100m nghĩa quân nổ súng. Sau một lúc rối loạn, địch hũ hột xụng và, cỏch hàng
rào 40m, thỡ bị chặn đứng. Một toán địch do tên trung uý Blaize chỉ huy tấn
công lên công sự đồi Bắc bị nghĩa quân bắn tử thương ngay bên cạnh công sự.
Thế là cả hai mũi tiến công của địch đều bị nghĩa quân bẻ góy. Địch quân bối rối
trước mũi súng của nghĩa quân. Thừa thắng nghĩa quân xông ra khỏi công sự
đánh chặn sau lưng địch. Quân Pháp hốt hoảng vội tháo lui. Quân địch trong
trận này chết 8, trong đó có một trung uý và bị thương 24. Hố Chuối anh dũng
vẫn vững như bàn thạch. Để gỡ sĩ diện, Mayer phao tin nghĩa quân đông tới
hàng nghỡn người! Thực ra, trong khoảng thời gian ngắn như thế, Đề Thám tỡm
đâu ra số gần nghỡn nghĩa quõn với đầy đủ súng ống?
Mười ngày sau, tức ngày 2-1-1891, quân Pháp lại tổ chức một đợt tiến
công thứ 4. Lần này chúng huy động tới 1060 lính gồm cả công binh và hải quân
tới bao vây Hố Chuối. Tổng chỉ huy quân Pháp lần này là đại tá Frey. Kế hoạch
tiến công lần này có nhiều thay đổi. Trước hết, chúng rải quân chiếm lĩnh các
làng và các cao điểm ở xung quanh Hố Chuối lập vành đai có công sự vững chắc
để từ đó tổ chức những mũi đánh thọc vào Hố Chuối từ nhiều hướng, nhất là mặt
Nam. Các sơn pháo được đặt trên nhiều ngọn đồi cao ở xung quanh Hố Chuối và
được chỉ huy bằng các đài quan sát đặt trên ngọn cây cao bắn cầu vồng vào công
sự chính và bắn khống chế đường rút lui và tiếp viện của nghĩa quân sang làng
Nứa, làng Vàng. Chỳng cũn cho hai tàu chiến nhỏ thường xuyên tuần tiễu trên
sông Thương ngăn chặn mọi sự tiếp viện cho Hố Chuối. Để đối phó lại, nghĩa
quân cho nhiều nhóm nhỏ phục kích địch, tiêu hao bớt lực lượng của chúng. Sau
5 ngày bố trí và triển khai lực lượng, cuộc chạm súng lớn nhất, căng thẳng nhất
giữa ta và địch bắt đầu từ ngày 7-1. Hôm đó, một đơn vị dự trữ ở vũng ngoài
đến đốt phá làng Nứa và làng Vàng, phá huỷ một số lớn lương thực của nghĩa
quân cất giấu ở đây.
Ngày 8-1, cỏc mũi tiến công của địch từ các đồi phía Nam và từ làng Nứa

đều bị nghĩa quân chặn đánh không tiến được. Ngày 9-1, quân Pháp tập trung
pháo bắn vào Hố Chuối, Một nhà tranh trong đồn bị trúng đạn bốc cháy. Quân
Pháp ồ ạt tiến công. Toán phía Nam xông lên đồi, nghĩa quân ở đây phản công


mạnh; tên đại uý Guignet chỉ huy mũi này bị hạ tại chỗ, cỏnh quõn này phải rỳt
lui.
Ngày 10-1, chúng lại tiếp tục đẩy mạnh mũi tiến công qua đồi phía Nam.
Nghĩa quân ở đây đánh trả rất kịch liệt. Quân Pháp phải dùng đến cả những tấm
thép chống đạn khá dày của tàu chiến để làm công sự mà vẫn không tiến thêm
được bước nào. Cuộc kịch chiến giữa nghĩa quân và quân Pháp diễn ra cho đến
tối. Đêm đến, thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân rút khỏi Hố
Chuối chuyển đến một cứ điểm khỏc.
Ngày hôm sau, không khí lắng hẳn đi, các đội tuần tra của Pháp không hề
gặp một hoả điểm nào. Chúng vào tận đồn thấy rỗng không. Địch thủ đó biến
mất, trận đánh kết thúc.
Với một lực lượng trên dưới 150 người. Đề Thám nhờ có công sự vững
chắc, biết bố trí lực lượng và chỉ huy phối hợp chặt chẽ đó đánh bại trong vũng
một thỏng 4 cuộc tiến cụng liờn tiếp của kẻ địch đông hơn hẳn, trang bị tốt hơn
và do những sĩ quan cao cấp, có lúc là đại tá chỉ huy. Trong cuộc đọ sức này,
quân Pháp đó phải huy động tất cả là 2212 lính. Như vậy, nghĩa quân đó phải
chiến đấu 1 chọi với gần 15 địch và đó chiến thắng oanh liệt. Chỉ căn cứ vào con
số báo cáo của các tướng lĩnh thôi, thỡ trong 4 trận tiến cụng ấy, quõn Phỏp đó
thiệt hại khỏ nhiều: chết 26, bị thương 73.
Tuy nhiên, từ sau khi Đề Thám rút khỏi Yên Thế, thực dân Pháp đó tạm
thời kiểm soỏt được khu vực từ Cao Thượng đến Nhó Nam. Từ đó, chúng liên
tiếp mở những cuộc càn quét mới để truy lùng nghĩa quân. Trước tỡnh hỡnh ấy,
cỏc toỏn nghĩa quõn phải rỳt vào cỏc khu rừng rậm phía Bắc và Tây Bắc cầu Gồ
dọc hai bên đường Chợ Gồ - Mỏ Trạng và xây dựng các công sự trên các ngọn
đồi cao. Đồn Đề Thám lập trên một ngọn đồi cuối thung lũng Đồng Hom, kế đó

là công sự của Đề Lâm rồi Đề Chung, Đề Nắm, Đề Thuật, Tổng Tài và Bá Phức.
Song suốt năm 1891, quân Pháp chưa dám đánh sâu vào vùng này. Chúng chủ
trương tổ chức những cuộc càn quét tảo thanh các khu vực xung quanh và lập hệ
thống đồn bốt để bao vây nghĩa quân. Nghĩa quân Yên Thế, nhất là toán của Đề
Nắm không khoanh tay ngồi yên mà thường cho nhiều nhóm đi phục kích địch
và lo mua khí giới, lương thực phá thế bao vây của địch. Đến cuối năm 1891,
các toán nghĩa quân bị dồn vào thế bị bao vây rất ngặt. Một số thủ lĩnh dao
động. Tiếp đó, nhiều người ra hàng, trong đó có Đề Xuân, Đề Kỳ, Đề Tước, Đề
Gạo, Đề Hoa, Lónh Nam, Đề Huỳnh. Một số khác như Bá Phức, Thống Trụ,
Thống Luận, Đề Vi, Đề Công chạy sang Thái Nguyên.


Riêng Đề Thám vẫn ở lại Yên Thế nhưng rút về Bằng Cục để củng cố lực
lượng. Quân Pháp đến lùng bắt, Đề Thám bắn chết tờn giỏm binh Grốs rồi rỳt
sõu vào rừng.
Đến đây có thể coi như chấm dứt thời kỳ hoạt động của các toán vũ trang
riêng lẻ ở Yên Thế. Đó là thời kỳ các toán vũ trang tự động đứng lên đánh Pháp.
Các nhóm này có cùng mục đích chung là ngăn không cho Pháp xâm phạm vùng
Yên Thế Thượng nhưng với những động cơ rất phân tán, và thiếu hẳn một sự
phối hợp chặt chẽ và thường xuyên.
Đề Nắm tuy có trong tay một lực lượng mạnh và là người có uy tín nhất ở
địa phương lúc ấy nhưng cũng không tập hợp được mọi toán vũ trang vào một
sự chỉ huy thống nhất. Vỡ vậy tương quan lực lượng giữa nghĩa quân và quân
địch không chênh lệch bao nhiêu lại có những toán vũ trang khá mạnh, đánh giỏi
như toán của Đề Thám mà nghĩa quân vẫn không đánh bật được quân Pháp ra
khỏi vùng Yên Thế.
Cuối cựng bị bao võy gắt gao, cỏc toỏn vũ trang dần tan ró, trừ nghĩa
quõn Đề Thám cũn ở lại bỏm đất xây dựng lực lượng tiếp tục chiến đấu.
Sau một thời gian củng cố lực lượng, Đề Thám lại quay trở lại Đồng Hom
lập đồn trại, xây dựng công sự chiến đấu. Lúc này thanh thế của ông mạnh lên

nhiều. Ông là thủ lĩnh duy nhất dám ở lại để tiếp tục đương đầu với Pháp để bảo
vệ quê hương. Lúc này ở bên ông, ngoài Bà Ba, Cả Rinh, Cả Huỳnh, cũn cú Cả
Trọng đó trưởng thành. Bốn người ấy hợp thành ban tham mưu đắc lực, đồng
thời cũng là những người chỉ huy giỏi.
Đồng Hom là một khu đồi rậm rạp bao quanh một lũng nhỏ, cách Cầu Gồ
chừng 2km đường chim bay về phía Tây Bắc. Khi trở lại đây, Đề Thám xây
dựng hệ thống công sự trên hầu hết các ngọn đồi để chuẩn bị đánh địch lâu dài.
Công sự quan trọng nhất được xây dựng ở ngọn đồi phía Đông. Công sự này là
một đường hào rộng trên 1m có chỗ rộng 2m, sâu 1m50, hỡnh chữ nhật, đào sấn
xung quanh đỉnh đồi, chu vi 200m có thể chứa nổi 50 người để chiến đấu. Ở
giữa hào có dựng nhà ở cho Đề Thám, các tướng lĩnh và nghĩa quân thường trực
chiến đấu. Ở chân đồi có một số nước tự nhiên nghĩa quân khơi sâu làm giếng.
Đề Thám cho nghĩa quân cày cấy các mảnh ruộng trong lũng nhỏ, trồng thêm
cây ăn quả quanh đồi để tính kế lâu dài. Phía Tây ngọn đồi này là một quả đồi
khác nhỏ hơn nhưng rất rậm và dốc. Ở chân đồi này cũn cú một vài núc nhà của
nụng dõn cày cấy trong lũng. Đề Thám cũng cho đào ở trên đỉnh đồi một đường
hào tương tự như ở đồi Đông nhưng nhỏ hơn cho chừng 20 người có thể chiến
đấu được. Về phía Bắc của thung lũng, trên một ngọn đồi lớn hơn và cũng khá


rậm rạp, nghĩa quân đào 3 công sự hỡnh trũn đủ cho vài chục người trực chiến.
từ đồi nọ đến đồi kia, khoảng cách không quá 300m. Đó là cách bố trí lực lượng
khá quen thuộc của Đề Thỏm. Dụng ý chớnh là cốt để các công sự có thể yểm
trợ lẫn nhau khi một trong số đó bị tập kích.
Biết Đề Thám đó về Đồng Hom, thực dân Pháp lại kéo đến càn quét vào
ngày 25-3-1892. Trận này quân đội Pháp do trung tá Henry cầm đầu.
Quõn Phỏp từ Bố Hạ kéo vào thung lũng, nơi Henry đóng quân, thực dân
Pháp phát hiện một số nhà ở chân đồi Tây thung lũng, tức làng Hom. Henry cử
đại uý Bouvier mang 150 quân đánh chiếm. Chúng tiến giáp ngôi nhà đầu tiên,
nghĩa quân từ công sự trên đồi Đông nổ súng vào sườn phải. Hai phân đội quân

Pháp tách ra quay sang đánh chiếm ngọn đồi này. Rừng quá rậm, bọn này không
phát hiện ra công sự, tiến lệch sang sườn phải đồi. Chờ chúng lọt hết vào tầm
bắn, nghĩa quân nhất loạt nổ súng. Nhiều sĩ quan và lớnh Phỏp chết ngay tại chỗ.
Henry vội cho thêm 2 phaamn đội hậu bị đến tiếp cứu, nghĩa quân đánh trả
quyết liệt. Cuộc kịch chiến diễn ra từ sáng cho đến 14 giờ chiều. Henry phải
điều thêm một toán quân khác do Bertin và đại uý Plessier đến tiếp viện; nghĩa
quân vẫn anh dũng đánh trả đến tối mới rút. Trong trận này phía Pháp chết 13
người.
Sau trận đánh này, tiếng tăm của Đề Thám càng lớn, những toán vũ trang
hoặc cá nhân cầm súng theo về đây càng đông. Song cũng từ sau trận này tương
quan lực lượng giữa nghĩa quân và thực dân Pháp đó cú những sự thay đổi. Thực
dân Pháp đó củng cố khỏ vững chắc 3 đồn binh lớn ở Nhó Nam, Bố Hạ, Mỏ
Trạng thành 3 bàn đạp từ hướng Bắc, Nam và Tây Nam bao vây khu căn cứ của
Đề Thám. Chúng cũn mở rộng thờm đường Bố Hạ - Chợ Gồ, Nhó Nam - Chợ
Gồ và Mỏ Trạng - Chợ Gồ để chuyển vận quân đội và khí giới, lương thực.
Chúng thường xuyên tổ chức các cuộc càn quét, lùng sục các công sự của nghĩa
quân. Hoạt động của nghĩa quân do đó gặp nhiều khó khăn. Một số người cầm
đầu các toán vũ trang trước đây cùng hoạt động với Đề Thám, bỏ chạy sang Thái
Nguyên như Bá Phức, Thống Luận v.v… nay trở về hàng Pháp, cộng tác với
chúng. Một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị giết và
tháng 4-1892. Để cứu vón tỡnh hỡnh, Đề Thám đứng ra tổ chức lại phong trào
và trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quõn Yờn Thế.
2.2 Giai đoạn 2 (1893-1897).
Trong giai đoạn này, nghĩa quân đó hai lần đỡnh chiến với Phỏp. Sau khi
Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai trũ lónh đạo phong trào Yên Thế. Ông
đó khụi phục những toỏn quõn cũn sót lại ở Yên Thế và các vùng xung quanh


rồi tiếp tục hoạt động. So với thời gian trước, số lượng nghĩa quân tuy có giảm
nhưng địa bàn hoạt động lại rộng hơn.

Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hố
Chuối, đồng thời mở rộng hoạt động ra các vùng thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang.
Lúc này, các phong trào Bói Sậy, Ba Đỡnh cũng như các đội quân kháng chiến
của Đốc Ngữ, Đề Kiều đều đó tan ró nờn thực dõn Phỏp cú điều kiện tập trung
lực lượng đàn áp khởi nghĩa Yên Thế.
Thực dõn Phỏp lại tăng cường quân đội bao vây Hố Chuối. Thấy tỡnh thế
bất lợi, Đề Thám tỡm cỏch tạm rỳt đi nơi khác. Tháng 5-1894, ông cho người
phao tin mỡnh bị chết và để cho tướng lĩnh lo việc ma chay. Đề Thám nằm trong
áo quan được nghĩa quân khiêng ra khỏi khu vực Hố Chuối, rồi bố trí lực lượng
chờ Pháp vào. Mấy giờ sau, Pháp kéo đến. Nghĩa quân nổ súng đánh chúng một
trận ác liệt, giết chết giám binh Trouves cùng với 2 lính cơ, làm bị thương công
sứ Bắc Giang Musselier và giám binh Lambert cùng 13 lính cơ khác. Nhân lúc
địch hoang mang, Đề Thám cùng toàn thể nghĩa quân thoát khỏi vũng võy, tạm
lỏnh vào khu rừng rậm giỏp Thỏi Nguyờn.
Chiều ngày 17-9-1894, Đề Thám tổ chức vụ đánh úp tầu hoả trên đoạn
đường giữa Kép và chợ Gành (Ghềnh). Nghĩa quân đó bắt gọn hai người Pháp
ngồi trờn xe goũng cú người đẩy. Một người là Chesnay làm nghề thầu khoỏn và
cú chõn trong ban quản lý bỏo Avenir du Tonkin, một người là Logiou đi cùng
chuyến xe với Chesnay. Tàu hoả đến phải dừng trước chướng ngại do nghĩa
quân đặt. Những người phục kích nổ súng. Thợ máy chuyến tàu phải đạn chết
ngay.Tài xế vội cho tàu giật lùi về Bắc Lệ. Nghĩa quân rút an toàn mang theo 2
người Pháp. Do có ý định tạm hoà với Pháp để củng cố lực lượng nên Đề Thám
cho phép Chesnay được viết thư cho các chức trách người Pháp. Để cứu mạng
hai tên này, bọn chức trách Pháp cho người đến điều đỡnh. Đề Thám ra điều
kiện Pháp phải chuộc mạng 60.000đ và để cho Đề Thám được thu thuế ở 4 tổng
Mục Sơn, Yên Lễ, Nhó Nam, Hữu Thượng. Cha đạo Veslasco được Pháp nhờ đi
làm người môi giới.
Cuộc điều đỡnh đi đến kết quả Đề Thám giảm tiền chuộc xuống cũn
15.000đ; Pháp nhận cho Đề Thám được thu thuế ở 4 tổng trong 3 năm. Đề Thám
được phép về đóng quân hợp pháp ở Phồn Xương. Lễ giảng hoà được tổ chức ở

Hố Chuối ngày 26-10-1894(2).
Ở Phồn Xương, Đề Thám dùng tiền chuộc của Pháp mua nông cụ, trâu bũ
để nghĩa quân phá hoang, cày cấy. Nhiều nghĩa quân lưu lạc ở các vùng lân cận
tỡm về nương nhờ Đề Thám. Nhiều nông dân lưu vong cũng tỡm đến đây làm


ăn ở đây. Bên cạnh việc sản xuất, Đề Thám vẫn thường xuyên cảnh giác với kẻ
địch; ông cho mua nhiều súng đạn, chiêu mộ thêm những người chống Pháp,
thường xuyên luyện tập để phũng bất trắc.
Thực dân Pháp hy vọng món tiền chuộc mạng Chesnay và Legiou và
quyền được thu thuế ở 4 tổng nói trên sẽ làm cho Đề Thỏm mũn chớ chiến đấu,
an phận thủ thường. Chúng đũi Đề Thám phải đến trỡnh diện cỏc quan chức
Phỏp ở địa phương như một kẻ đó đầu hàng. Đề Thám cự tuyệt. Thấy biện pháp
mua chuộc không có hiệu quả, thực dân Pháp quyết định dùng vũ lực.
Lần này, Gallieni, một sĩ quan cao cấp có tài, được cử đi trấn áp nghĩa
quân Yên Thế. Rút kinh nghiệm những trận càn quét trước đây, Galliesni dùng
chiến thuật bao vây chặt khu vực Phồn Xương, chặn mọi đường tiếp tế rồi cho
những mũi xung kích mạnh đánh chiếm đồn. Đồn Phồn Xương bị đánh úp ngày
30-11-1895. Thấy đối phương dùng lực lượng mạnh và chiến thuật mới, Đề
Thám rút khỏi Phồn Xương rồi chia lực lượng nghĩa quân thành nhiều toán nhỏ
rải vào các khu rừng rậm đào hầm hố, phục sẵn chờ địch đến. Cuộc tiến công
đánh úp Đề Thám của Galliesni thất bại. Y giao cho Péroz cầm đầu một đơn vị
nhỏ tổ chức cuộc truy lùng. Lính Pháp được lính dừng địa phương và những tên
chỉ điểm đưa đường sục sạo vào từng khu rừng. Bọn này bị các toán nghĩa quân
đón đánh và thiệt hại nhiều. Tuy nhiên, bước sang tháng 2-1896, lực lượng nghĩa
quân, do phải đối phó với một cuộc bao vây và truy lùng quy mô lớn của địch đó
yếu đi nhiều. Cũng vào lúc này, tương quan lực lượng giữa tao và địch trên quy
mô cả nước đó cú những thay đổi lớn. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ hầu hết đó bị đàn áp. Ngay cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở Trung Kỳ là
khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đỡnh Phựng lónh đạo cũng đó thất bại. Thực

dõn Phỏp nhõn đà đó củng cố nhanh bộ máy thống trị và dồn sức vào việc bỡnh
định vùng Yờn Thế.
Trong tỡnh hỡnh đó, ngày 17-2-1896, Đề Thám cho người nhờ cố đạo
Veslasco xin giảng hoà với Pháp để có thời gian củng cố và bổ xung lực lượng.
Tưởng Đề Thám đó nguy khốn, thực dõn Phỏp cự tuyệt, tiếp tục truy lựng.
Chỳng tổ chức một đội cảnh sát đặc biệt do Thanh tra Guillaume cầm đầu chỉ
chuyên tổ chức các cuộc vây ráp lùng bắt nghĩa quân. Đồng thời, Guillaume
tung tin hứa tha chết cho nghĩa quân nào ra đầu thú. Một số thủ lĩnh mới theo Đề
Thám bị bao vây qua gay gắt đó phải ra hàng. Riờng Đề Thám cùng vài chục
nghĩa quân thân tín nhất vẫn tiếp tục chiến đấu. Để tránh bị bao vây và bị tiêu
diệt, Đề Thám cho nghĩa quân di chuyển luôn và di chuyển nhanh. Tháng 11897, ông cũn hoạt động ở Yên Thế, ít hôm sau đó thấy ụng ở Tam Đảo. Tháng


4-1897, địch lại chạm sỳng với ông ở Đa Phúc, tháng sau ông đó ở vựng Thu
Cốc. Một lõn nữa Đề Thám cho người đi sang giảng hoà. Pháp vẫn không nghe.
Đề Thám lại tiếp tục di chuyển và cầm cự: khi về Bố Hạ, lúc xuống Thuỵ Cầu,
rồi lại chuyển về Ngọc Cục. Toán Đốc Chính phải hàng cùng với 6 súng. Kế đó,
ngày 6-5, Cả Dinh bị mất liên lạc với Đề Thám. Đề Thám lại về Bằng Cục rồi đi
Làng Sặt, về Mỏ Thổ, rồi lại sang Đa Phúc. Ngày 13-11-1897, một lần nữa, Đề
Thám cử Cai Ba mang thư cho Veslasco xin hoà với Pháp.
Sau gần 40 năm xâm lược với nhiều tổn thất nặng nề, thực dân Pháp nóng
lũng muốn khai thỏc nước ta, đó cử Paul Doumer, nguyờn bộ trưởng tài chính
sang nhận chức toàn quyền vào cuối năm 1896. Đó là lúc cuộc bỡnh định của
thực dân Pháp đó cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, cuộc chiến đấu tiếp tục của Đề
Thám ở Yên Thế, và vùng xung quanh vẫn cũn là một trở ngại đáng kể. Cho dù
tổ chức một cuộc trấn áp quy mô, thực dân Pháp cũng vẫn cảm thấy chưa thể
dập tắt ngay được cuộc khởi nghĩa. Thực vậy, vào lúc này, lực lượng nghĩa quân
Yên Thế tuy có bị giảm sút do phải đối phó dai dẳng với những cuộc càn quét
quy mô và liên tục của quân đội Pháp, song ý chí chiến đấu của thủ lĩnh Đề
Thám và các nghĩa quân vẫn vững vàng. Đề Thám đó nhiều lần xin giảng hoà

nhưng vẫn đũi hỏi những điều kiện được đóng quân hợp pháp ở Phồn Xương,
nghĩa là vẫn không chịu đầu hàng.
Từ sau khi ký hợp đồng giảng hoà với Pháp (11-1897), Đề Thám đưa toàn
bộ lực lượng nghĩa quân về đóng ở Phồn Xương, tạm hoà hoón với Phỏp. Đến
ngày 17-4-1901, thống sứ Bắc Kỳ Morel cùng với Đổng lý văn phũng phủ
Thống sứ và Cụng sứ Bắc Giang đến Nhó Nam mời Đề Thám ra để tổ chức lễ
giảng hoà chính thức.
Tính đến 1897, khởi nghĩa Yên Thế đó trải qua một cuộc chiến đấu gian
khổ nhưng rất oanh liệt kéo dài 12 năm, không kể 1 năm giảng hoà với Pháp vào
năm 1894.
Trong 12 năm đó với lực lượng không nhiều lắm, với một thế tương quan
lực lượng chênh lệch, nghĩa quân Yên Thế đó chiến đấu ngoan cường, dũng
cảm, gây cho địch những tổn thất rất nặng nề, đáng để cho nhân dân cả nước
mói mói tự hào.
Thành công đó có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống chống ngoại xâm rất
cao của dân tộc, song có nguyên nhân trực tiếp từ truyền thống của địa phương,
ở các thủ lĩnh có tài và ở tinh thần và năng lực chiến đấu rất cao của các nghĩa
quân.


Song do hạn chế về trỡnh độ nhận thức của các thủ lĩnh, nhất là của Đề
Thám, mục tiêu chiến đấu của cuộc khởi nghĩa không vượt quá giới hạn của
những quyền lợi địa phương, cuộc khởi nghĩa tuy có nhiều thuận lợi so với các
cuộc khởi nghĩa đồng thời, nhưng không phát triển lên được. Khi cục diện và
tương quan lực lượng thay đổi theo chiều hướng có lợi cho kẻ địch từ sau năm
1895, cuộc khởi nghĩa đó lõm vào thế bị bao võy, cụ lập, suy yếu rừ rệt.
Trong cuộc giảng hoà lần thứ hai với thực dõn Phỏp, Đề Thám đó phải
nhận những điều kiện hạn chế hơn nhiều so với những điều kiện của cuộc giảng
hoà lần thứ nhất.
Tuy nhiên, Đề Thám đó khụn khộo lợi dụng được những điều khoản của

các quy chế khai hoang do chính quyền thực dân Pháp áp dụng cho các điền chủ
Pháp trong vùng trung du để ở lại Phồn Xương trong một tư thế tương đối độc
lập. Đó là cơ hội tốt mà Đề Thám đó tranh thủ được để có thể tiếp tục cuộc chiến
đấu trong một hoàn cảnh mới.
2.3 Giai đoạn 3 (1898-1908).
Từ năm 1898 đến 1908, khởi nghĩa Yên Thế tồn tại trong một hoàn cảnh
lịch sử mới, có nhiều yếu tố ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc khởi nghĩa.
Thực dõn Phỏp chấm dứt thời kỳ bỡnh định, bước vào ổn định việc cai trị,
lập lại trật tự vùng Yên Thế, cướp đoạt ruộng đất ở Trung du và Yên Thế.
Tuy nhiờn, vào thời gian này, nghĩa quân Yên Thế lại ở vào thế rất thuận
lợi để hoà nhập vào phong trào yêu nước theo xu hướng mới đang sôi nổi trong
cả nước và tiếp tục phát triển lên một trỡnh độ cao hơn.
Vào những năm đầu thế kỷ, một phong trào chống đế quốc giải phóng dân
tộc, đũi độc lập, dân chủ nổ ra rộng khắp ở các nước thuộc địa Phương Đông.
Một lớp nhà nho tân tiến đó chịu ảnh hưởng của phong trào này, tiếp thu tư
tưởng dân chủ của phong trào và đó đứng ra phát động một phong trào và đó
đứng ra phát động một phong trào yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản trong
khắp nước ta. Tiêu biểu cho lớp nhà nho yêu nước này là Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh. Hưởng ứng cuộc vận động này, nhiều phong trào yêu nước theo
tư tưởng dân chủ tư sản đó nổ ra từ Bắc chớ Nam. Đáng kể nhất là phong trào
Đông Du (1906-1908), Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), phong trào Duy Tân và
chống thuế ở Trung Kỳ (1908), vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (1908) và phong
trào Duy Tân ở Nam Kỳ.
Khụng khớ chớnh trị ấy tạo cho nghĩa quõn Yờn Thế rất nhiều thuận lợi.
Chớnh quyền thực dân lo đối phó với phong trào không thể rảnh tay đối phó với


các hoạt động của nghĩa quân Yên Thế. Và nếu nghĩa quân Yên Thế có hoạt
động gỡ chống lại Phỏp, chắc chắn sẽ được nhân dân cả nước hưởng ứng và
phối hợp.

Ngay sau khi giảng hoà, Đề Thám chia nghĩa quân ra thành từng nhóm
nhỏ đóng ở xung quanh Phồn Xương thành từng trại nhỏ. Ngoài đồn Phồn
Xương là trại chính, nơi Đề Thám, Cả Trọng và bà Ba ở, cũn lại 5 trại.
Tất cả các trại đều được xây dựng như một công sự chiến đấu, nghĩa là có
tường đất bao bọc, có những chướng ngại vật phũng thủ, cú vọng gỏc, cú đường
rút lui khi cần thiết. Tất cả những người trong trại đều đặt dưới quyền một người
chỉ huy và là một đơn vị chiến đấu khi có chiến sự.
Mỗi trại ấy lại là một đơn vị sản xuất. Người đứng đầu trại cùng với mọi
người phải lo khai phá ruộng đất xung quanh, cày cấy, thu hoạch để tự lo lấy
sinh hoạt của mỡnh. Chỉ khi cần thiết mới cầu viện cỏc trại khỏc. Tất cả đều
dưới quyền chỉ huy của Đề Thám đóng tại trại Phồn Xương – là trại to nhất.
Chỗ ở của Đề Thám rất đơn sơ, không có đồ dùng gỡ sang. Tất cả đều
mộc mạc như đồ dùng của nông dân trong vùng. Số nghĩa quân ở vùng Đề Thám
trong trại Phồn Xương, theo các tài liệu nhân chứng chỉ chừng 50 người.
Tóm lại, Đề Thám sau khi giảng hoà đó bố trớ lực lượng nghĩa quân thành
các trại vừa là đơn vị chiến đấu, vừa là đơn vị sản xuất, ở theo một thể có thể
phối hợp chiến đấu với nhau khi có chiến sự. Thí dụ trại Cả Rinh, Cả Huỳnh,
cũng như trại Lý Thu chỉ cỏch trại Phồn Xương khoảng 400m. Điều đó chứng
tỏ, trong ý thức của mỡnh, Đề Thám không tin thực dân Pháp để ông sống yên
ổn mà nhất định sẽ tỡm cỏch tiờu diệt. Với cỏch tổ chức lực lượng như vậy, Đề
Thám đó mặc nhiờn chấp nhận một sự đối đầu, một cuộc đấu tranh sinh tử nhất
định sẽ nổ ra. Cho dù phải tạm thời hoà hoón, ụng khụng hề mất ý chớ chiến đấu
và tinh thần cảnh giác. Đồng thời, trong khi chưa có chiến sự, ông tập trung sản
xuất, tổ chức đời sống, chăm lo săn sóc nghĩa quân, đem lại cho họ một phần
nào sự no ấm, sự yên vui mà họ hằng no ấm.
Về cụng việc sản xuất:
Mỗi trại nghĩa quân là một đơn vị sản xuất, người giữ trại phải lo khai
hoang và sản xuất để tự túc.
Ruộng đất của các trại chủ yếu là do nghĩa quân ở mỗi trại tự khai phá các
đất ở xung quanh. Mùa màng thu nhập của trại nào do trại ấy quản lý, sử dụng.

Cỏch thức canh tỏc theo lối cổ truyền, nhưng về mặt tổ chức lại theo lối nhà


binh. Các trại viên hằng ngày đi sản xuất theo đơn vị trại. Ở nhà có người
chuyên lo việc cơm nước. Mọi người đều ăn chung như một trại lính.
Về tổ chức đời sống:
Đời sống vật chất của nghĩa quân Yên Thế có thể nói là kham khổ. Do
phải sống theo đơn vị tập thể, việc ăn uống được tổ chức như trong trại lính
Hàng năm, vào mùa săn bắn, nghĩa quân tổ chức đi săn bắt hươu, nai, hổ
lấy thịt ăn và lấy xương nấu cao. Nếu không đủ, Đề Thám cho đi mua thêm. Số
cao nấu được đem chia đều cho nghĩa quân cốt cán trong đồn để bồi dưỡng sức
khỏe. Người trong trại ốm đều được chăm sóc, thuốc men chu đáo. Mỗi năm trại
xuất thóc bán lấy tiền mua vải cho nghĩa quân may mỗi người 2 bộ quần ỏo.
Riêng Đề Thám, người thủ lĩnh tất nhiên được hưởng chế độ sinh hoạt cao
hơn. Song Đề Thám sống rất giản dị. Ngoài các bữa trưa, tối ăn cùng bà Ba, Cả
Trọng, sáng ra ông ăn cháo có hoà chút cao hổ. Đề Thám không nghiện hút một
thứ gỡ. ễng thường cắt tóc ngắn, đi chân đất, mặc quần áo vải thô hoặc sồi
nhuộm nâu. Chỉ những ngày hội hè, tiếp khách hoặc ra đồn Nhó Nam cú việc
ụng mới mặc quần trắng, ỏo dài the và quấn khăn nhiễu.
Trong nhà Đề Thám cũng có bàn thờ Đức Thánh Trần, vị anh hùng dân
tộc đó được nhân dân sùng bái và tin là có phép trừ ma tà. Ngay kề trại Phồn
Xương, Đề Thám cho xây dựng một ngôi đỡnh lớn hai lớpmỏi mà dõn địa
phương gọi là đỡnh tỏm mỏi, khỏ đẹp để tổ chức những cuộc tế lễ, hội hè. Đề
Thám cũng cho xây dựng ở trại Phồn Xương một ngụi chựa thờ Phật, Chựa Lốo
ở xó Hữu Thượng có tiếng là thiêng, được Đề Thám chăm sóc, tu sửa cho đẹp
đẽ, khang trang.
Hàng năm, Đề Thám đặc biệt quan tâm làm lễ Chay rất long trọng trong 3
ngày để tế lễ các nghĩa quân đó hy sinh trong chiến đấu. Trong các buổi lễ có
bày bài vị những nghĩa quân đó chết,cú cỏc thầy cỳng thực hiện đầy đủ mọi nghi
lễ của một buổi làm chay. Ngoài ra, Đề Thám không bỏ sót một ngày lễ lớn nào

mà không tổ chức chu đáo, linh đỡnh để nghĩa quân được ăn uống, vui chơi.
Trong các kỳ lễ lớn, Đề Thám cũng cho mời gánh tuồng ở Thổ Hà, Bắc Ninh lên
biểu diễn, tổ chức các cuộc vui chơi giải trí truyền thống.
Về quan hệ với địa phương:
Nhỡn chung, quan hệ giữa nghĩa quõn với nhõn dõn địa phương khá tốt.
Đề Thám nghiêm cấm nghĩa quân có những hành động hống hách, bất chính đối
với nhân dân. Những người vi phạm đều bị trừng trị tuỳ theo nặng nhẹ: khiển


trách, phạt cùm giam hoặc bị xử tử. Một nghĩa quân tên là Hai Giữa, cố tỡnh
cướp vợ người đó bị Đề Thám xử bắn.
Đề Thám rất quan tâm săn sóc tới nhân dân trong vùng, ông chăm đi lại
thăm hỏi bà con khi có việc vui hay buồn. Đỡnh, chựa, ngay cả nhà thờ đạo
Thiên chúa của người các làng bị cũ nát ông cũng bỏ tiền ra sửa chữa giúp. Ông
không can thiệp vào công việc của chính quyền xó, nhưng sẵn sàng răn đe
nghiêm khắc những tên lý lịch hống hỏch.
Đối với bọn điền chủ Pháp, ông đối xử rất đàng hoàng, bỡnh đẳng.
Về quan hệ với chớnh quyền thực dõn
Với chính quyền thực dân, đặc biệt là với toà Đại lý Phỏp ở Nhó Nam, Đề
Thám có mối quan hệ bỡnh đẳng. ễng tự coi mỡnh như người chủ của miền đất
nhượng, hoàn toàn làm chủ trong phạm vi của mỡnh, không chịu lệ thuộc vào
chính quyền thực dân. Ông buộc chính quyền Pháp phải coi khu vực có đồn trại
của ông như một khu độc lập. Người Pháp nào muốn vào phải được ông cho
phép.
Để có thể sẵn sàng tự vệ trong bất kỳ tỡnh huống nào, từ Đề Thám đến
nghĩa quân lúc nào cũng phải súng đạn bên mỡnh, lỳc đi sản xuất, đi chợ, đi xem
hội, ngay cả khi đi ngủ. Đồn trại nào cũng được quân sự hoá cao độ. Nghĩa quân
ở đâu, ngày cũng như đêm đều cắt phiên nhau canh gác. Đề Thám bắt nghĩa
quân thường xuyên luyện tập, chịu kham khổ và có kỉ luật để không bị mất nề
nếp sẵn sàng chiến đấu. Ông cho người bí mật đi tỡm đầu mối để mua tích súng

đạn.
Ông cho người đi Vĩnh Yên, Thái Nguyên liên lạc với những người bạn
chiến đấu cũ và tỡm những cơ sở để khi có biến thỡ cú căn cứ chiến đấu dự trữ.
Ông sẵn sàng tiếp đón những người bị hoạn nạn, những chiến sĩ cách mạng đang
bị đuổi bắt, giúp họ có nơi ẩn náu an toàn. Ông đó tiếp nhiều nhà hoạt động cách
mạng và có những kế hoạch phối hợp.
Về quan hệ với phong trào cách mạng đầu thế kỷ XX:
Những biến đổi trong xó hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, đặc biệt là phong
trào yêu nước của nhân dân ta, bằng những ngả khác nhau đó tỏc động đến Đề
Thỏm và nghĩa quõn Yờn Thế.
Các phong trào này đó giỳp Đề Thám có một tầm nhỡn rộng hơn là tầm
nhỡn giới hạn trong một địa phương nhỏ hẹp trước đây. Từ đó, Đề Thám đó
quan tõm ở một mức độ nhất định tới phong trào cách mạng và đó cú phần đóng
góp cho phong trào.


Song, tầm nhỡn và sự đóng góp cho phong trào chung của Đề Thám và
nghĩa quân cũn rất hạn chế.
Tuy có gặp mặt và trao đổi với một vài nhà lónh đạo phong trào như Phan
Chu Trinh và Phan Bội Châu, song do hoàn cảnh địa lý và do hạn chế cỏ nhõn.
Đề Thám chưa có sự chuyển biến để nhập thân vào với luồng tư tưởng mới.
Yên Thế là một vùng rừng núi hẻo lánh, kém phát triển lại xa các trung
tâm kinh tế và văn hoá. Những biến đổi lớn về chính trị, nhất là trong lĩnh vực
công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, về văn hoá tư tưởng mang nội dung dân
chủ, dường như chưa phát huy được ảnh hưởng tới vùng này. Thiếu những cơ sở
tiền đề quan trọng ấy, Đề Thám và các nghĩa quân khó có điều kiện để có sự
chuyển biến kịp thời về mặt nhận thức phù hợp với trào lưu phát triển mới.
Trong khi đó, Đề Thám lại chỉ bó hẹp phạm vi hoạt động của mỡnh trong
vựng Phồn Xương, hầu như không tự thân tiếp xúc với phần phát triển của đất
nước, với những gỡ cú thể gọi là văn minh ở các trung tâm đô thị. Cái gọi là thế

giới bên ngoài của Đề Thám không vượt quá thị trấn Nhó Nam, một thị trấn chỉ
cỏch Phồn Xương chừng 5km, cũn mang đầy đủ bộ mặt của miền núi. Do đó, dù
được gặp gỡ các nhà lónh đạo phong trào – mà lại quá ít ỏi - Đề Thám không
sao vượt quá được tầm nhỡn của một nụng dõn miền núi, không đạt tới trỡnh độ
nhận thức về một quy mô phát triển của một xó hội hiện tại. Cho đến trước khi
cầm súng chiến đấu trở lại, ông vẫn cơ bản là một thủ lĩnh nông dân xét về mặt
nhận thức. Trong suốt 11 năm, chưa thấy có dấu hiệu gỡ chứng tỏ Đề Thám có ý
định phá vỡ cái giang sơn nhỏ bé Phồn Xương, tạo dựng một sự nghiệp mới to
rộng hơn, phù hợp với yêu cầu của thời đại hơn. Phồn Xương dường như đóng
kín cửa trước trào lưu tư tưởng mới.
Sự đóng góp của Đề Thám và nghĩa quân Yên Thế vào cuộc vận động giải
phóng dân tộc theo xu hướng mới cũng rất hạn chế. Quần chúng yêu nước có thể
vẫn ngưỡng mộ Đề Thám và nghĩa quân, có thể mượn danh nghĩa Đề Thám để
hoạt động, tuyên truyền và nếu thất bại có thể chạy đến Phồn Xương để được
che chở. Song Yên Thế đó không phát huy đúng mức tác dụng của mỡnh tới
phong trào cỏch mạng. Đề Thám đó khụng thực hiện được những lời cam kết
với Phan Bội Châu. Sự che chở của Đề Thám đối với các chiến sĩ cách mạng
giải phóng là rất đáng trân trọng, song phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
trông chờ ở nghĩa quân và ông nhiều hơn thế.
Cú thể núi, khởi nghĩa Yờn Thế trong thời gian từ 1897-1908, do sự
chuyển biến chậm chạp về nhận thức của thủ lĩnh Đề Thám, đó dậm chõn tại


chỗ, khụng tiếp tục phỏt triển lờn được mặc dầu điều kiện khỏch quan khụng
phải là khụng thuận lợi.
Người ta có cảm tưởng, trong khoảng 11 năm này, Đề Thám và nghĩa
quân Yên Thế từ một tập thể nghĩa quân đó tham gia một cỏch xuất sắc vào sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc đang chuyển thành một tập thể nông dân có xu hướng trở
về với cuộc sống sản xuất dưới một dạng khá đặc biệt: sở hữu ruộng đất và sản
xuất tập thể theo hỡnh thức quõn sự hoỏ, mang khỏ rừ dấu ấn của một quan

niệm bỡnh quõn, bỡnh đẳng thô sơ về kinh tế và chính trị, một ước mơ không
tưởng của nông dân khi không được hướng dẫn bởi một hệ tư tưởng chính trị
tiên tiến.
2.4 Giai đoạn 4 (1909-1913).
Sau khi đàn áp xong các phong trào yêu nước ở miền xuôi, thực dân Pháp
chĩa mũi nhọn tiến công vào nghĩa quân Yên Thế.
Như đó trỡnh bày ở trờn, cuộc vận động cứu nước do các nhà nho yêu
nước phát động đầu thế kỷ XX đó làm bựng lờn một phong trào yờu nước khá
mạnh trong cả nước. Do trỡnh độ nhận thứ và khả năng lónh đạo cọn hạn chế
của những người cầm đầu, phong trào không có chiều sâu, không liên kết được
với nhau trong một kế hoạch có chỉ đạo chặt chẽ nên đó bị thực dõn Phỏp lần
lượt đàn áp. Đến khoảng giữa năm 1908, hầu hết các phong trào đều bị dập tắt.
Để khủng bố tinh thần dân chúng, sau khi dập tắt vụ đầu độc binh lính
Pháp ở Hà Nội, thực dân Pháp mở phiên tũa đại hỡnh để xử án những người yêu
nước đó bị bắt cũng như vắng mặt. Ở phiên toà này, Sở mật thám Đông Dương
cùng bọn điển chủ Pháp tích cực đưa chứng cớ để buộc tội Đề Thám là người
chủ mưu vụ Hà thành đầu độc, đó tham gia và hầu hết cỏc phong trào chống
Pháp ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, cũng như có nhúng tay vào rất nhiều vụ phạm pháp
và đang tích cực chuẩn bị một cuộc khởi loạn quy mô lớn để chống chính phủ.
Âm mưu của thực dân Pháp là sẽ bí mật bất ngờ đánh lén Đề Thám vào
dịp tết Nguyên Đán, là lúc mà Đề Thám cũng như bất cứ người dân nào đều tạm
xếp mọi việc thường ngày để cùng nhau vui chơi trong ngày lễ truyền thống.
Để tranh thủ dư luận, chúng cho dân bố cáo khắp các làng ở Bắc Giang kể
tội Để Thám, biện hộ cho hành động đàn áp và kêu gọi dân chúng, bọn quan lại
và chức dịch địa phương phải giúp chúng để tiêu diệt Đề Thám, đồng thời vừa
ve vón vừa đe doạ dân chúng(1).
Sau khi thực dân Pháp dán bố cáo ở các làng, nghĩa quân đó chuẩn bị sẵn
sàng, chỉ khụng biết ngày giờ của cuộc tấn cụng mà thụi.



Tuy kế hoạch là vào ngày 30-1-1909, song các đơn vị khố xanh do
Laocombe chỉ huy đóng ở Nhó Nam nụn núng lập cụng đó đánh úp trại Cả Rinh
và Cả Huỳnh ngay sáng 29-1, trước khi các đơn vị cơ động tới.
Đồn Cả Rinh và Cả Huỳnh không lớn song được bố phũng cẩn mật. Đúng
5 giờ sáng ngày 29-1-1909, đơn vị khố xanh do Benecchi và Richy từ Nhó Nam
tấn cụng đồn này ở mặt Nam. Một đơn vị khố xanh khác do Courteix và
Colonna tấn công mặt Bắc. Mặc dù bị đánh úp bất ngờ, Cả Rinh vẫn chủ động
vừa bảo vệ đồn, vừa tổ chức được một mũi đánh tạt vào sườn trái của cánh quân
thứ nhất. Bọn này phải rút. Cánh quân thứ hai cũng bị chặn ác liệt. Ngay sau
trận đánh, Đề Thám đó hạ lệnh cho tất cả nghĩa quõn ở cỏc đồn trại rút ngay về
Đồng Hom để tránh cuộc tiến công sau (30-1-1909). Về đến Đồng Hom, Đề
Thám giữ lại 30 tay súng với mỡnh; số cũn lại chia thành 5 nhúm nhỏ do Cả
Rinh,Cả Huỳnh, Ba Biều, Cai Thanh, Lý Thu, mỗi người chỉ huy một nhóm rút
dần sang các cơ sở quen thuộc ở Phúc Yên, Thái Nguyên, Tam Đảo. Đề Thám và
30 tay súng ở lại Yên Thế. Từ đó lại bắt đầu cuộc chiến đấu rất ác liệt giữa nghĩa
quân Yên Thế với quân đội thực dân Pháp trong vũng mấy năm nữa. Trong trận
đọ sức quyết liệt cuối cùng này, nghĩa quân Yên Thế áp dụng triệt để chiến thuật
quen thuộc của mỡnh là bắt địch phân tán lực lượng, nhử chúng vào rừng sâu để
bất ngờ phục kích tiêu diệt chúng. Kẻ địch cũng phát huy triệt để thế mạnh của
chúng: thiết lập vành đai bao vây rộng bằng những đơn vị lớn, tổ chức những
đội xung kích mạnh tiêu diệt đối phương và ngay sau đó lập đồn để khống chế.
Ngoài ra, chúng cũn phỏt thờm sỳng đạn cho bọn dân vệ để lùng bắt nghĩa quân.
Nghĩa quân mặc dù ở thế yếu hơn về lực lượng song có tinh thần chiến đấu cao,
quyết bắt địch phải trả giá rất đắt trước lúc hi sinh, bị bắt buộc phải hàng. Cuộc
chiến đấu do đó quyết liệt chưa từng thấy.
Ngay trận đầu chạm súng ở Đồng Hom, Đề Thám đó giỏng cho chỳng
đũn phủ đầu khá nặng. Đồng Hom có một hệ thống công sự khá tốt được đào
đắp từ 1892. Từ sau lần giảng hoà thứ II, Đề Thám bố trí sẵn lực lượng. Hồi
13g30 ngày 1-2, một đội xích hầu lính khố xanh mũ tới giỏp cụng sự chớnh. Hai
tờn chết ngay tại chỗ. Bọn cũn lại bỏ chạy. Một tiểu đội khố đỏ tiến lên, nấp

ngay sau một thân cây đổ nhưng không dám xông lên. Địch tiếp tục ồ ạt kéo lên.
Nghĩa quân ở trong công sự chỉ cách chúng từ 10 đến 15m nổ súng chính xác
ngăn chúng ùn lại không thể tiến lên được. Đến 14 giờ, địch lui lại 30m đào
công sự để ẩn nấp. Nhân lúc địch phải củng cố lại lực lượng, Đề Thám cho
nghĩa quân rút cách công sự chính 150m về phía Đông Nam, gấp rút chuẩn bị
trận địa phục kích. Một tiểu đội khố đỏ lại kéo đế. Một loạt súng nổ, tên đội bị
thương vào đùi. Bọn lính hốt hoảng nằm ép xuống đất cho người đi cầu cứu.


Nửa giờ sau, địch kéo đến ùn ùn. Nghĩa quân đánh trả ác liệt đến 19 giờ tối thỡ
rỳt đi nơi khác. Đề Thám về Rừng Phe, các nhóm khác trong đó có Cả Rinh, Cả
Huỳnh, Cai Sơn, Lý Thu, Ba Biều rút về Đồng Đảng là một thung lũng nhỏ rất
hiểm trở, cách Mỏ Trạng chừng 4km về phía Đông Bắc. Ở đây nghĩa quân tam
trú trong một túp lều và nhanh chóng đào xong các công sự chiến đấu ở xung
quanh. Lúc 13g30 ngày 11-2, địch kéo đến. Nghĩa quân lúc ấy đang ăn trưa, vội
nhanh chóng ra các công sự nổ súng chặn địch, làm chết 1 và bị thương 2. Địch
toả ra bao vây; cuộc xô xát ác liệt cho đến 17g30 chiều. Quân Phỏp giữ vững
vũng võy. Đêm, nghĩa quân rút an toàn. Trong trận này phía địch chết 5, trong
đó có 2 đội tây và 3 khố đỏ, bị thương 13; trong đó có 3 đội tây, một cai, 5 lính
tây và 4 khố đỏ.
Từ sau trận này, nghĩa quân phân tán nhỏ hơn. Cai Sơn về Sơn Quả, Cả
Huỳnh và Cai Thanh sang Phỳc Yờn; Cả Rinh, Ba Biều, Lý Thu cũn ở lại Đồn
Đèn(1), một quả đồi cách Đồng Đảng không xa về phía Nam. Đây là ngọn đồi
khá cao, rất dốc. Ở chốt đỉnh có một cây đa cổ thụ xum xuê thân to và nhiều rễ
phụ. Nghĩa quân cho đào 2 công sự bán nguyệt ngay dưới gốc đa hướng về phía
Nam. Mỗi công sự cách nhau chừng 10m có đường liên lạc với nhau. Muốn lên
đến đỉnh chỉ có một đường từ phía Nam vỡ ở đó có một chỗ hơi phẳng. Tuy
nhiên, muốn leo lên vẫn phải bám dây leo hoặc người trên kéo người dưới.
Khoảng cách từ khe suối dưới chân đồi lên tới đỉnh dài gần 200m, cây cối và
dây leo chằng chịt. Cây ở đây phần lớn là lim hoặc hồng sắc, đến nay vẫn cũn

sút lại nhiều cõy đường kính tới 60cm. Ngay đỉnh đồi, dưới bóng đa cây cối rất
rậm. Ở đó, vào lúc giữa trưa ngày nắng ánh sáng cũng mờ nhạt như vào lúc
hoàng hôn. Xung quanh ngọn đồi là vô số những ngọn đồi cao, cây cối rậm rỡ,
sương trắng dày đặc. Giáp với Đồn Đèn về phía Nam là ngọn đồi 208, tuy cao
song ít dốc, đỉnh đồi tương đối phẳng. Bọn Pháp đó dựng ngọn đồi này làm bàn
đạp tiến công nghĩa quân. Được người chỉ điểm cho biết nghĩa quân đang trú tại
đó, quân Pháp tiến vào quyết vây chặt chẽ để tỡm diệt nghĩa quõn. Lỳc 15g10
ngày 21-2, địch đến ngọn suối chân đồi tỡm đường lên. Lúc địch mới leo lên
được độ 15m, nghĩa quân nổ súng ác liệt. Trận đánh kéo dài, đại tá Bataille
người chỉ huy chính cuộc càn quét này cùng với đại uý Teysier, trung uý
Bouchet và một số phúng viờn nhà bỏo cũng tới trận địa để đốc thúc quân lính.
Nghĩa quân chờ lúc bọn này chụm lại hội ý đó nổ sỳng làm bị thương Teyssier
vào đầu gối và Beneyton vào cổ tay khi tên này giương súng lục định bắn về
phía nghĩa quân. Đến 19g30, tiếng súng im. Trong đêm nghĩa quân rút đi nơi
khác. Quân Pháp mất dấu nghĩa quân. Trong trận đánh này, quân Pháp bị chết 4


(1 tên đội Pháp, 3 khố đỏ), bị thương 9 trong đó có 1 sĩ quan, 1 đội, 2 lính Pháp,
2 đội và 3 lính khố đỏ.
Từ sau trận này, nghĩa quân lại phải phân tán nhỏ hơn nữa, phần lớn rút
sang Phúc Yên, chỉ cũn Đề Thám ở lại khu rừng giữa Mỏ Trạng, Canh Nậu và
Nhó Nam.
Cũng sau đó, thực dân Pháp rút các đơn vị chủ lực về Bắc Ninh, giao việc
bao vây truy lùng Đề Thám cho các đơn vị lính đồn trú và lính khố xanh ở Bắc
Giang. Bọn này lập thêm các bốt mới, kiểm soát chặt chẽ mọi con đường mà
nghĩa quân có thể rút sang các tỉnh khác, đồng thời giao thêm sung cho bọn
hương dừng, lý dịch để bọn này săn bắt nghĩa quân.
Biết rừ õm mưu của địch, Đề Thám tỡm cỏch thoỏt vũng võy để sang
Phúc Yên với các nhóm nghĩa quân khác. Trên đường di chuyển, Đề Thỏm bị
bọn lý dịch cựng một nhúm hương dừng phục kớch ở cỏnh đồng Giản Ngoại. Cả

Trọng bị thương nặng, ít ngày sau thỡ chết. Từ đó cho đến trung tuần tháng 6,
Đề Thám vẫn phải ẩn náu trong rừng Yên Thế, nghĩa quân đi theo ông tan ró
dần. Thỏng 3, 15 nghĩa quân mang cả súng bỏ ngũ. Tháng 4 thêm 4 người chết,
7 người bỏ đi. Tháng 5 lại mất thêm 4 người trong đó có Cai Ba, một nghĩa quân
thân tín. Đến tháng 6 lại thêm Cả Can (em vợ Ba Đề Thám) và Hai Dẽ bỏ ngũ.
Ở Phúc Yên, ngày 13-3, nhóm Cả Huỳnh đụng Pháp ở trại Hàm Lợn.
Nghĩa quân đánh trả dữ dội; Pháp phải kêu pháo binh tới yểm trợ, nghĩa quân
phải rút. Cả Huỳnh bị tử thương. Cai Tề thay Cả Huỳnh chỉ huy quân rút về
Thanh Thuỷ. Ở đây, nghĩa quân bố trí sẵn trận địa chờ Pháp. Họ đào công sự, đặt
nhiều chướng ngại vật ở quanh làng. Ngày 19-3, Pháp đến. Hai bên đánh nhau
cả ngày, giành giật nhau từng căn nhà, từng bờ dậu, bức tường. Đến đêm quân
Pháp phải rút, có 4 người chết và 2 người bị thương. Cai Tề lại đụng quân Pháp
ngày 16-4 ở Mỏ Thổ. Nghĩa quân nổ súng ỏc liệt suốt một ngày rũng làm địch
chết 2, bị thương 2; phía nghĩa quân cũng bị thiệt hại nặng. Nhóm này hầu như
tan ró khụng hoạt động được nữa.
Đến 14-6, bà Ba và Cai Mễ khi ấy đó liờn lạc được với nhóm Cả Rinh, tổ
chức đánh nghi binh và đưa được Đề Thám qua sông Cầu ở bến đũ Gầm, sang
Phỳc Yờn. Cả nhúm cũn lại, Cả Rinh, Ba Biều, Cai Sơn, Cai Thanh, tập hợp
xung quanh Đề Thám. Lực lượng nghĩa quân lại được củng cố. Mặc dầu vậy, Đề
Thám vẫn thấy cần phải có thời gian tạm nhgỉ để tăng cường lực lượng. Ông cho
nghĩa quân tổ chức cuộc phục kích bắt cóc một người Pháp tên là Voisin trên
đoạn đường Phù Lỗ - Thái Nguyên nhằm ép Pháp phải tôn trọng giao kèo giảng
hoà năm 1897. Có lẽ vỡ Voisin chỉ là một giỏm thị cụng trường cho một tên thầu


khoán Pháp nên bọn quan chức Phỏp khụng chấp nhận một cuộc hưu chiến mà
buộc Đề Thám phải đầu hàng. Tất nhiên, Đề Thám từ chối. Chúng vội vàng lập
cấp tốc một đơn vị đặc biệt do Chofflet, rồi sau đó là Bonifacy chỉ huy để đối
phó với Đề Thám. Tháng 7, Lê Hoan lại được Pháp điều đi Phúc Yên với 400
lính khố vàng để giúp chúng truy lùng nghĩa quân.

Từ đó cho đến tháng 10-1909, nghĩa quân lại tiếp tục giao chiến quyết liệt
với Pháp ở Phúc Yên, Vĩnh Yên, Tam Đảo, Thái Nguyên, mở đường trở lại Yên
Thế, mang theo tên Voisin. Địch thấy vậy rất lo lắng, tập trung lực lượng bao
vây tỡm cỏch bắt bằng được Đề Thám, chí ít là chặn Đề Thám không cho về
Yên Thế. Ngày 22-7, Đề Thám đụng địch ở Hiền Lương. Địch cho quân đuổi
theo. Thấy địch dứt khoát không chấp nhận giảng hoà, ngày 25-7, Đề Thám thả
Voisin gần huyện lỵ Kim Anh rồi đốc thúc nghĩa quân nhanh chóng tu sửa làng
Hiền Lương thành làng chiến đấu chờ Pháp tới. Hiền Lương có luỹ tre dày bao
bọc quanh làng. Nghĩa quân rào lại chỗ trống, gài thêm chông ở những chỗ địch
có thể tấn công và đào các công sự chiến đấu. Ngày 27-7, quân địch do Chofflet
đích thân chỉ huy, mang theo cả pháo binh bao vây quanh làng định xông vào bắt
Đề Thám. Nghĩa quân dựa vào các công sự và chướng ngại đánh trả mónh liệt.
Một toỏn địch lọt vào trong làng bị nghĩa quân bọc chặt không rút ra được. Cuộc
đọ súng kéo dài đến tối. Lúc ấy, địch đó chết 11, trong đó có 1 đại uý và bị
thương 20. Chúng phải thổi kèn tạm thu quân. Đề Thám cũng nhằm cơ hội đó
cho nghĩa quân rút sang Ninh Bắc cách Hiền Lương gần 2km. Địch đuổi kịp,
nghĩa quân nổ súng hạ 5 khố đỏ và làm bị thương 1 lính Pháp. Nghĩa quân thiệt
6 người, trong đó có Đội Hổ. Sau trận này, Đề Thám cho một nhóm do Ba Biều
chỉ huy ở lại Phúc Yên làm nghi binh, cũn đại bộ phận rút sang Bắc Vĩnh Yên,
lập căn cứ ở núi Sáng thuộc huyện Lập Thạch. Nhóm ở lại sau mấy trận chiến
đấu với địch ở Bạch Đa (13-8), Thượng Yên (16-8), Yên Lỗ (6-9), lực lượng hao
mũn gần hết. Ở Thượng Yên, Ba Biều bị thương vào ngực chết cùng với 5 nghĩa
quân khác. Ở Yên Lỗ, nghĩa quân thêm 7 người tử trận. Số cũn lại sang Vĩnh
Yờn tỡm Đề Thám. Lúc này ông đang cùng nghĩa quân xây dựng núi Sáng (cũn
gọi là nỳi Lang), thành lập trận địa quyết sống mái với địch.
Ngày 3-10, địch kéo đến. Đề Thám cùng nghĩa quân đánh trả kịch liệt từ
sáng đến tối, làm cho địch tổn thất nặng: chết 16, bị thương 35; phía nghĩa quân
số người hi sinh không đáng kể, trong đó có Cai Thanh. Đến đêm, lợi dụng trời
mưa, nghĩa quân rút lên phía Bắc, vượt sông Đáy tỡm đường về Tam Đảo. Cả
Rinh lạc Đề Thám về trú ở Liên Sơn (Đông Nam núi Sáng). Ở đây, Cả Rinh bị

bao vây, sau một trận chiến đấu, thế cùng, hết đạn phải ra hàng cùng với 6 nghĩa


quân. Đề Thám sau gần một tháng trời lặn lội vào sinh ra tử mới vượt qua được
vũng võy trở về Yờn Thế vào đầu tháng 11-1909.
Theo các hồ sơ của cỏc chỉ huy quõn sự ở Phỳc Yờn và Vĩnh Yờn, thỡ
tớnh đến tháng 10-1909, phía quân Pháp đó cú 65 người chết (27 người Âu, có 1
sĩ quan, 24 lính khố đỏ, 8 lính cơ, 6 dân vệ); 130 người bị thương (70 người Âu,
có 7 sĩ quan, 40 khố đỏ, 14 khố xanh, 6 lính dừng) (trích hồ sơ 3785, 27-101909).
Quân Pháp lại dồn lực lượng về Yên Thế bao vây Đề Thám. Sáng 1-12, bà
Ba bị bắt, kết đó Bếp Giá, Cai Sơn bỏ đi. Nhiều nghĩa quân khác lần lượt hi sinh
trong các trận phục kích của địch. Đến tháng 12, lực lượng nghĩa quân Yờn Thế
tan ró hết. Đề Thám chỉ cũn lại một mỡnh với 2 thủ tỳc mới, phải sống ẩn nỏu
trong nỳi rừng Yờn Thế. Đơn vị truy lùng Đề Thám không tỡm ra dấu vết của
ụng. Chớnh quyền thực dõn giải tỏn đơn vị này ngày 28-2-1910 và giao việc
truy lùng Đề Thám cho chính quyền và các lực lượng quân đồn trú, lính khố
xanh và lính dừng ở địa phương.
* NHỮNG NĂM CUỐI CÙNG CỦA ĐỀ THÁM,

Mặc dự chỉ cũn một mỡnh một sỳng, nhưng được bạn bè cũ và nhân dân
tận tỡnh giỳp đỡ che chở, Đề Thám vẫn sống yên ổn trong núi rừng Yên Thế và
vẫn tiếp tục chống Pháp đến cùng. Những tên tay sai độc ác vẫn bị ông trừng trị.
Nhiều nông dân bị lý dịch hà hiếp vẫn tỡm đến nhờ giúp đỡ. Bọn lý trưởng trong
vùng không dám ra mặt lùng sục ông.
Đêm ngày 2-11-1911, ông bị bao vây ở đồi 28, thuộc địa phận Yên Lễ
(Ngàn Ván). Bouchet, Đại lý Nhó Nam cựng với cụng sứ Poulain và thanh tra
Guillaume đến tận nơi để đốc chiến. Mờ sáng hôm sau, bọn lính khố xanh tấn
công lên đồi. Ngay phút đầu Đề Thám nổ súng hạ ngay 2 tên, một tên khác bị
thương và chạy thoát. Lúc ấy Đề Thám mặc quần áo kaki nên bọn lính tưởng
nhầm là người bên mỡnh. Ngay sau đó, Đề Thám núp trong một bụi tre gần đó.

Địch xúm lại phát bụi. Một tên bị bắn chết ngay. Chúng đem dầu hoả định đốt
cháy cả bụi tre nhưng không cháy. Lại 3 tiếng nổ, 3 lính cơ bị hạ. Quá lúng túng,
Poulain cho gọi pháo binh, bọn này không tới, Poulain đành phải cho người đi
điều giám binh Richy và một số lính khố xanh khác đến trợ lực. Richy hô lính
xung phong lên đồi. Lại thêm 5 người chết, 7 bị thương. Đơn vị khố đỏ ở Chợ
Gồ lại được điều đến tiếp sức. Trời tối, bọn này không dám tiến công đành bao
vây chặt ngọn đồi chờ sáng. Vào khoảng 3 giờ sáng, Đề Thám thoát vũng võy
trước khi đi cũn bắn trả lại 1 phỏt sỳng. Sỏng ra, bọn lớnh hụ nhau lờn đồi, suýt
bắn nhầm nhau. Cũn Đề Thám đó mất tớch.


Tháng 1-1912, một lần nữa Đề Thám báo tin với Pháp xin hoà với những
điều kiện như năm 1897, Pháp không nghe, bắt Đề Thám phải nộp mỡnh. ễng từ
chối. Đề Thám vẫn được bè bạn cũ che chở trong vùng Dĩnh Thép, Lèo, cách
Nhó Nam khụng xa. Ngày 19-11, tên phó Đội Liên cưỡi ngựa đi lùng Đề Thám
bị ông bắn chết trên đường vào Dĩnh Thép. Bọn quan quân ở Yên Thế thất vọng,
chán nản. Chúng tính kế khác để ám hại Đề Thám. Mấy tên tay chân của Lương
Tam Kỳ được Pháp mua chuộc đó khộo lộo lọt vào vùng Yên Thế và được Đề
Thám tin cho đi theo. Ông cảnh giác không để cho chúng biết chỗ ngủ hoặc ngủ
gần. Sau nhiều ngày rỡnh cơ hội, đêm ngày 9, rạng ngày 10-2-1913, chúng đó
dựng cuốc bổ chết Đề Thám khi ông đang ngủ trong một căn lều tạm ở Hố Lầy
trong rừng, cách đồn Phồn Xương cũ không xa. Bọn giết người cắt đầu ông đem
về Nhó Nam lĩnh thưởng. Bọn Pháp bắt dân chúng và những người nhà đến
nhận mặt. Người thủ lĩnh nổi tiếng và cũng là người nghĩa quân cuối cùng của
khởi nghĩa Yên Thế đó hi sinh(1).
Những nghĩa quân bị bắt tại trận hoặc buộc phải ra hàng đều bị thực dân
Pháp xử án rất nặng. Một số bị tử hỡnh và phần lớn là tự chung thõn hoặc đi đầy
biệt xứ. Ngoài ra, thực dân Pháp cũn bắt hàng mấy trăm người tỡnh nghi là tũng
phạm và kết ỏn khỏ nặng, trung bỡnh là từ 7-15 năm tù ngồi hoặc đi đầy Côn
Đảo. Các hồ sơ lưu trữ so 56.292, 56.281, 56.282, 56.283 của Phủ Thống sứ Bắc

Kỳ cũn ghi lại 8 danh sỏch của những người này gồm 246 người.
Nghĩa quân Yên Thế khi bị bắt hoặc khi nhận án đều có thái độ bỡnh tĩnh
hiờn ngang. Trong một bỏo cỏo, đại uý Nhó Nam Bouchet cú ghi lại cảnh cỏc
nghĩa quõn bị bắt đi đầy. Có một số nghĩa quân bị bắt buộc phải hàng được Pháp
hứa trả tự do gồm Cả Rinh, Đội Huấn, Cai Sơn, Phó Tráng, Phó Du, Cai Mễ và
21 người nữa được Pháp báo đến trỡnh diện ở Nhó Nam núi là để làm căn cước.
Khi mọi người tới liền bị lính khố xanh vây chặt. Họ bị lùa vào phũng tối để
chụp ảnh. Nhưng khi họ vào liền bị xích tay, sau đó đưa về Hà Nội để đưa đi
đầy.
Bà vợ Ba Đề Thám sau một thời gian bị giam giữ ở nhà tù cũng bị đi đầy
ở Alger năm 1910 rồi bị chết ngày 25-12-1910. Cô Hoàng Thị Thế, con gái của
bà Ba bị bắt lúc ấy chừng 10 tuổi. Chúng giao cho một tên tay sai nuôi dưỡng
rồi đưa sang Pháp. Đến năm 1965 bà Thế xin về nước, được nhà nước cho
hưởng lương hưu trí và sống ở Hà Nội.
Nhiều nghĩa quân Yên Thế trong đó có Đội Giá bị giam trong nước (nhà
tù Thái Nguyên) vẫn không mất tinh thần căm thù và ý chí chiến đấu. Năm


×