MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, Việt Nam có xuất phát điểm là một nước nông
nghiệpnghèo nàn, manh mún, thô sơ… Do đó trong tiến trình hội nhập vào hệ
thống kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức
và cơ hội. Để thoát khỏi nông nghiệp vươn lên trở thành nước nông – công nghiệp
phát triển Việt Nam cần xác định được chiến lược phát triển kinh tế xã hội đúng
đắn “nền kinh tế mở, hướng về xuất khẩu, hội nhập với khu vực toàn cầu”. Xuất
khẩu hàng hoá đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, góp phần thúc
đẩy hơn nữa vào quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Với Việt Nam ta, xuất
nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng từ lâu đã được coi là một mặt hoạt
động không thể thiếu được của hoạt động kinh tế đối ngoại, là một phương tiện
quan trọng để phát triển nền kinh tế đất nước.Hoạt động xuất khẩu góp phần quan
trọng trong thành tựu chung của đất nước, giải quyết được vấn đề kinh tế khai thác
được nội lực, phát huy được tiềm năng lợi thế so sánh của đất nước. Trong nhiều
thập kỉ qua Nhật Bản vẫn là một đối tác lớn và quan trọng vối Việt Nam, đây nền
kinh tế lớn thứ ba trên thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy là nền kinh tế lớn
trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu mỗi năm hàng tỷ đô la Mỹ nhưng đồng thời
Nhật Bản cũng là thị trường có khả năng tiêu thụ nhiều loại hàng hóa hữu hinh
cũng như vô hình của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Đứng trước một thị trường tiềm năng, trong nhiều năm gần đây, tỉ trọng xuất
khẩu ngành rau quả luôn chiếm 1 lượng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Nhật Bản. Với lợi thế là một nước nông nghiệp chúng ta hoàn toàn cố
một tiềm năng phát triển lớn trong ngành này. Song thực tế cho thấy hoạt động
xuất khẩu nhóm hàng rau quả của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản, xét về nhiều phương diện chưa được mong muốn chưa tương xứng với tiềm
năng của chúng ta. Việt Nam vẫn chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tỉ trọng nhập
khẩu của Nhật Bản. Năng lực xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường Nhật Bản
nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Vì thế, việc nghiên cứu đánh giá thực trạng
năng lực xuất khẩu nhóm hàng rau quả để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong những năm sắp
tới là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là tìm hiểunhu cầu về chất lượng và số
lượng rau quả nhập khẩu của Nhật Bản, điểm mạnh điểm yếu của rau quả Việt
Nam khi xuất khẩu sang Nhật Bản. Từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục, phát
huy để rau quả trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại tăng trưởng kinh tế cũng
như cơ hội để Việt Nam vươn ra các thị trường lớn.
2.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa vào mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ chủ yếu của bài nghiên cứu là tìm
hiểu về thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Để
thực hiện được điều đó, bài viết sẽ xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc xuất
khẩu rau quả của Việt Nam sang Nhật. Sau đó từ những gì nghiên cứu được sẽ tìm
hiểu những con đường đi đúng đắn cho phát triển ngành rau quả - thế mạnh của
nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài nghiên cứu hướng vào hai đối tượng chính là: thị trường rau quả nhập
khẩu tại Nhật Bản, thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Nhật Bản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: là Nhật Bản, Việt Nam, một số nước thành công ở lĩnh vực xuất
khẩu
Thời gian: năm 2006 – đầu năm 2017
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính: tìm hiểu các bài
báo, công trình nghiên cứu đã xuất bản, các báo cáo của các bộ ngành.. Ngoài ra có
phương pháp định lượng: thông qua các số liệu đã được công bố, tỉ trọng xuất nhập
khẩu….
5. Cấu trúc bài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, phụ lục niên luận gồm 3 chương
Bài nghiên cứu gồm 3 phần:
Chương 1: Lý thuyết cơ bản về xuất khẩu rau quả
Chương 2: Thực trạng rau quả Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
Chương 3 : Giải pháp cụ thể cho rau quả Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật
Bản
CHƯƠNG 1:
LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU RAU QUẢ
1. Khái quát cơ bản về thị trường xuất khẩu rau quả thế giới
1.1.Thực trạng sản xuất rau quả trên thế giới
Với mức tiêu thụ rau quả trên thế giới đang ngày càng tăng cao thì việc sản
xuất rau quả sẽ đem lại nguồn lợi lớn cho các quốc gia. Theo số liệu của FAO năm
2015 năng suất cây rau quả đã đạt được mức kì vọng nhờ sử dụng giống mới,
giống lai và các phương pháp canh tác tiên tiến và khoa học. Trong các loại rau cải,
cải bắp được canh tác nhiều nhất, rộng rãi khắp 5 châu và chiếm sản lượng cao
nhất. Đặc biệt các giống ở Châu Âu dần dần được canh tác rộng rãi ở các nước
Châu Á và lân dần sang các nước Châu Phi. Các nước có diện tích và sản lượng cải
cao nhất là Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ. Ở Châu Âu Ý, Anh,
Pháp, Ba Lan, Nam Tư, Tây Ban Nha canh tác cải nhiều nhất. Hiện nay các nước
đã phát triển có khuynh hướng trồng cải bông và cải bixen thay thế cải bắp vì các
loại cải nầy giàu chất dinh dưỡng hơn và có thể đóng hộp hay đông lạnh tươi. Ở
Nhật, Trung Quốc, Triều Tiên do tập quán lâu đời nên cải thảo và cải củ vẫn còn
được ưa chuộng trong sản xuất. Ở các nước đang phát triển như nước ta cải bắp và
cải ăn lá còn là loại rau quan trọng hơn cả vì năng suất cao nên trãi có khả năng
giải quyết tình trạng thiếu rau ăn trong nước.
1.2. Thực trạng xuất khẩu rau quả trên thế giới
Thị trường xuất khẩu rau quả trên thế giới luôn sôi động và biến đổi theo
thời gian. Khi xã hội ngày càng phát triển thi nhu cầu của con người sẽ hướng tới
những thực phẩm lành mạnh đảm bảo thanh lọc cơ thể, từ đó nhu cầu các mặt hàng
rau quả sạch bắt đầu ra đời. Xuất khẩu rau quả trở thành một ngành đem lại nhiều
lợi nhuận cho các quốc gia. Ngày nay nông nghiệp không chỉ đòi hỏi sự cần cù
chăm chỉ mà còn cần sự sáng tạo để cho ra những sản phẩm chất lương đáp ứng
được yêu cầu của các nhà nhập khẩu.
Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của một số nước (triệu USD)
Nướ
c
xuất
khẩ
u
Thế
giới
Trun
g
Quố
c
Nhật
Bản
Hà
Lan
Hoa
Kỳ
Đức
Bỉ
Itali
Can
ada
Phá
p
Anh
201
3
201
4
201
5
619
,68
621
,88
504,
65
64,
51
22,
79
27,
92
47,
46
40,
77
13,
92
16,
57
13,
04
19,
35
18,
18
64,
17
21,
82
27,
58
49,
07
39,
49
13,
55
17,
8
13,
58
18,
71
17,
25
56,9
9
17,8
3
22,6
4
42,9
6
34,5
2
12,0
1
14,9
4
12,2
9
17,1
15,9
5
Nguồn:
Dựa vào bảng thống kê đã cho thấy mặc dù có lợi thế về nông nghiệp nhưng
Việt Nam vẫn còn đứng ở vị trí khá thấp so với các nước trên thế giới về vấn đề
xuất khẩu rau quả nói chung và xuất khẩu hàng hóa nói riêng. Trung Quốc vẫn
luôn là nước đứng ổ vị trí số 1 nhờ vào các lợi thế về nhân lực, công nghệ, trình độ
phát triển thị trường….
2. Ý nghĩa xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế lalf một bộ
phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi
thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc đẩy mạnh
giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ
nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của các quốc gia. Thực tế cho thấy
các nước có dự trữ ngoại tệ lớn như Mỹ, Nhật, Đài Loan, Singapore..đều lầ những
nước có tỉ trọng xuất khẩu lớn trên thế giới. Tỉ trọng 10 nước có kim ngạch xuất
khẩu hàng đầu thế giới năm 2016.
Bảng 1.2: Kim ngạch xuất khẩu của một số nước trên thế giới (triệu USD)
Số thứ tự
Quốc gia
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2016
1
Mỹ
38,5
2
Trung Quốc
21,97
3
Nhật Bản
14,7
4
Hàn Quốc
11,4
5
Hà Lan
6,02
6
Đức
5,96
7
UAE
4,99
8
Anh
4,89
9
Ý
3,26
10
Pháp
2,99
Nguồn: Tổng cục thống kê
2.1.Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của
mình.
Sức cạnh tranh của hàng hóa được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở nên ổn
định và bền vững hơn nhồ các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn.
Quá trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là những nước đang
phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa trên cơ sở ứng dụng thành quả của cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ.
2.2.Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và
những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần
tăng tích lũy vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện mức
sống của các tầng lớp dân cư. Ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu là nguồn
tăng dự trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ dồi dào là điều kiện cần thiết để giúp cho quá
trình ổn định nội tệ và chống lạm phát.
2.3.Góp vào chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Xuất khẩu là việc tiêu thu những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu
cầu nội địa, tức là xuất khẩu những gì ta có. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc
hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu
chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu rất nhỏ và tăng trưởng
chậm chạp, không có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, nhằm xuất
khẩu những gì mà thị trường thế giới cần. Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu
cầu thị trường thế giới để sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm. sự tác động này thể hiện ở chỗ:
- Các ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành
khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, nhờ vậy mầ sản
xuất có thể phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước. Điều này nhằm nói đến xuất khẩu là phương
tiện quan trọng tạo nguồn vốn và kỹ thuật công nghệ từ thế giới bên ngoài
vào Việt Nam nhằm hiện đại hóa nền kinh tế đất nước để tạo ra một năng
lực sản xuất mới.
- Đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản
trị sản xuất và kinh doanh.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực
sản xuất trong nước. Điều này nhằm nói đến xuất khẩu là phương tiện
quan trọng tạo nguồn vốn và kỹ thuật công nghệ từ thế giới bên ngoài vào
Việt Nam nhằm hiện đại hóa nền kinh tế đất nước để tạo ra một năng lực
sản xuất mới.
2.4.Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân
Thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao. Xuất khẩu còn
tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và
đáp ứng ngày càng phong phú them nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời
xuất khẩu cũng tác động tích cực tới trình độ tay nghề và thay đổi thói quen của
những người sản xuất hàng xuất khẩu.
2.5.Mở rộng thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của
mỗi quốc gia trên thị trường thế giới.
Thực tế qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới nước ta đã cho thấy sự
đóng góp của hoạt động xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế là rất
đáng kể. Theo số liệu thống kê sơ bộ phổ biến ngày 17/01/2017 của Tổng cục hải
quan, tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2016 của cả nước đạt hơn 33.66 tỷ USD
tăng 3.5% tương ứng tăng hơn 1.15 tỷ USD so với tháng trước. Thị trường xuất
khẩu năm 2016 của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á với kim
ngạch hơn 85.28 tỷ USD trong đó thị trường Nhật Bản đạt gần 14,68 tỷ USD. Kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong tháng 12/2016 đạt kim ngạch
gần 1,1 tỷ USD. Qua đó đưa kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này năm 2016
đạt hơn 12,45 tỷ USD tăng 16,3 % so với cùng kỳ năm trước.
3. Kinh nghiệm xuất khẩu của một số nước trên thế giới
3.1.Trung Quốc
Qua những số liệu được công bố về kim ngạch xuát khẩu dễ dàng nhận thấy
Trung Quốc luôn xếp ở vị trí số 1. Trung Quốc luôn đạt được tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế nhanh hơn bất kỳ nền kinh tế của quốc gia nào và đã trở thành một trong
những nền kinh tế số 1 trên thế giới.
Bước đầu của công cuộc đẩy mạnh xuất khẩu là tự do hóa các chính schs
thương mại bằng nhiều biện pháp đơn phương, đa phương hoặc thông qua các tổ
chức của khu vực. Cải cách lại cơ chế quản lí ngoại thương, phân quyền hoạt động
xuất nhập khẩu cho các địa phương và các ngành công nghiệp, mở rộng quyền trực
tiếp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu cho tất cả các nhành kinh tế và các địa
phương cả nước. Trung Quốc chia chiến lược xuất khẩu thành ba giai đoạn: chuyển
từ xuất khảu các sản phẩm thô, sơ cấp sang xuất khẩu cacs sản phẩm công nghiệp
nhẹ sử dụng nhiều lao động; chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ và
bán thành phẩm sử dụng nhiều lao động sang xuất khẩu các thành phẩm công
nghiệp cần nhiều vốn mà cchủ yếu là các sản phẩm công nghiệp nặng hóa chất; tập
trung và coi trọng xuất khẩu các sản phẩm sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ tiên
tiến.
Sử dụng chính sách trợ cấp xuất khẩu, áp dụng chính sách khuyến khích xuất
khẩu chung hơn là chọn lọc. Hỗ trợ tỉ giá hối đoái để hỗ trợ việc tự do mậu dịch và
để hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu. Các nhà nhập khẩu được quyền tiếp cận với các
mặt hàng nhập khẩu theo giá quốc tế, các công ty xuất khẩu nói chung thường
được ưu đãi cấp các khoản tín dụng với lãi suất được trợ câp. Các chính sách công
cộng được vạch ra như các biện pháp khuyến khích thuế thu nhập trực tiếp, các
khoản trợ cấp cho việc thành lập các công ty thương mại quốc tế, các hiệp hội xuất
khẩu và các thể chế khác.
3.2.Indonesia
Sau một thời kỳ thực hiênj kế hoạch phát triển kinh tế theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung đã cho thấy không những không thực hiện được mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội mà còn đẩy nền kinh tế vào con đường khủng hoảng nghiêm trọng.
Nhận thấy sự đổi mới là cần thiết nên chính phủ đã có những chính sách đem lại
hiệu quả cao trong đó tiêu biểu là chiến lược hướng về xuất khẩu, mở xửa ra thế
giới. Tập trung vào những nền kinh tế mũi nhọn: dầu khí, khai thác gỗ và khoáng
sản, máy nông cụ và chế biến nông sản… Trong công nghiệp dầu mỏ tăng cường
đầu tư vào các ngành hóa dầu nhằm hạn chế xuất khẩu dầu thô. Ngoài ra còn mở
rộng sang các ngành như: điện tử, oto, tủ lạnh, hóa chất, xe máy để xuất sang thị
trường Châu Á. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước này vẫn là dầu và các
sản phẩm dầu, gỗ dán, cao su, cà phê. Thực hiện chính sách tài chính khắc khổ và
chi tiêu có chọn lọc nhằm cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cải thiện hệ thống
thuế, mở rộng thị trường và cốn nhằm mở rộng quan hệ hàng hóa tiền tệ trong sản
xuất và lưu thông. “Những nhà sản xuất hàng hóa xuất khẩu nào mà sản xuất ít
nhất 85% sản lượng của họ thì được miễn mọi loại thuế nhập khẩu khi nhập
nguyên liệu cho sản xuất”. “Mọi hệ thống giảm thuế sẽ được áp dụng cho những
nhà xuất khẩu – xuất khẩu dưới 85% sản lượng. Họ cũng được quyền nhập khẩu
những hàng hóa theo giới hạn nhập khẩu nếu những người cung ứng trong nước
không đáp ứng được giá nguyên liệu nhập khẩu”. Đa dạng hóa các hình thức hoạt
động kinh tế đối ngoại.
3.3.Thái Lan
Với chủ trương lấy xuất khẩu làm đầu tầu cho tăng trưởng kinh tế, chính phủ
Thái Lan đã định hướng các chính sách nhằm thay thế nhập khẩu ưu tiên xuất
khẩu. Ưu tiên vay ốn và giảm thuế cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu, cải cách lại hệ thống xuất nhập khẩu, giảm bớt thủ tục hành chính, hàng rào
thuế quan. Để lựa chọn được những ngành kinh tế, những mặt hàng xuất khẩu
chính, Thái Lan đã căn cứ vào đặc điểm kinh tế, tự nhiên, xã hội cụ thể của mình,
tận dụng tối đa lợi thế về tài nguyên nhân lực để thích ứng cao nhất với các nhu
cầu về phân công lao động quốc tế, nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế hiệu quả
trong cả ba khu vực kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện phân
loaiạ chi tiết tất cả các mặt hàng, lĩnh vực có thể xuất khẩu chú trọng tới những
ngành sản xuất hàng hóa có tiềm năng xuất khẩu cao. Thái Lan đã tận dụng được
những điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp hoàn
chỉnh với đủ các ngành nghề, các chủng loại cây trồng và vật nuôi, vừa đảm bảo
nhu cầu trong nước vừa có sản phẩm để xuất khẩu. Tóm lại từ một nước sản xuất
và xuất khẩu các sản phẩm thô sơ nay đã trở thành một nước xuất khẩu các sản
phẩm chế tạo chủ yếu trong khu vực.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RAU QUẢ VIỆT NAM XUẤT
KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
1. Khái quát về thị trường Nhật Bản
1.1.Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Nhật Bản có vị trí nằm ở phía Đông của Châu Á, phía Tây của Thái Bình
Dương. Phần chính của Nhật Bản được cấu thành từ 4 đảo lớn là Hokkaido,
Shikoku và Kyushu. Diện tích là 377.94 km 2 đứng hang 62 trên thế giới. Lãnh hải
3.091 km2 . Biển của Nhật Bản có tổng chiều dài là 33.889 km. Nhật Bản là một
đảo quốc hoàn toàn không tiếp giáp với quốc gia hay lãnh thổ nào trên đất liền.
Tuy nhiên, bán đảo Triều Tiên và bán đảo Sakhanlin (Nhật Bản gọi là Karafuto) chỉ
cách các đảo chính của Nhật Bản vài chục km. Xung quanh Nhật Bản là một loạt
cacs biển thông nhau:
- Phía Đông và phía Nam: Thái Bình Dương
- Phía Tây Bắc: biển Nhật Bản
- Phía Tây: biển Đông Hải
- Phía Đông Bắc: biển Okhotsk
- Vùng biển xung quanh các quần đảo Izu, Ogasawara, Nansei: biển
Philippines theo cách gọi của thế giới, song các văn kiện của chính phủ Nhật
Bản vẫn chỉ gọi đó là Thái Bình Dương.
- Vùng biển nằm giữa Honshu và Shikoku gọi là biển Seito Naikai.
Những quốc gia và lãnh thổ lân cận ở vùng biển Nhật Bản là Nga, Bắc Triều
Tiên, Hàn Quốc, ở vùng biển Đông Hải là Trung Quốc, Đài Loan đi xa hơn về
phía Nam là Philippines và quần đảo Bắc Mariana.
Xét theo kinh độ và vĩ độ, các điểm cực của Nhật Bản như sau:
- Điểm cực Đông: đảo Minami Ton-shima
- Điểm cực Tây: mũi Irizaki
- Điểm cực Nam: đảo Okino Tori-shima
- Điểm cực Bắc: mũi Kamoiwakka (hiện đang trong tình trạng tranh chấp, vì
cả Nhật và Nga đều tuyên bố chủ quyền với đảo Iturup (trong tiếng Nhật là
Etorofu-to)
Nơi cao nhất của Nhật Bản là núi Phú Sĩ cao 3.776m. Thấp nhất Nhật Bản:
Hachinohe mine (sâu 160m do nhân tạo) và hồ Hachirogât (sâu 4m một cách tự
nhiên).
1.1.2. Đặc điểm tự nhiên
Khí hậu Nhật bản khá phức tạp do địa thế và lãnh thổ trải dài trên 25 độ vĩ
tuyến, phần lớn ôn hòa nhưng biến đổi từ Bắc vào Nam. Các quần đảo của Nhật
Bản chịu khoảng 1.000 trận động đất. Các hoạt động địa chấn này đặc biệt tập
trung vào vùng Kanto. Động đất cấp 3,4 xảy ra thường xuyên và cấp 7-8 cũng đã
từng xảy ra. Động đất là mối đe dọa lớn nhất đối với Nhật Bản nên chính phủ Nhật
mỗi năm đã phải bổ hang tỉ Yên Nhật để tìm kiếm một hệ thống báo động sớm về
động đất, và khoa học địa chấn tại Nhật Bản được coi là tiến bộ nhất thế giới. Nhật
Bản có 186 núi lửa còn hoạt động trong đó có núi Phú Sĩ. Đi kèm với núi lửa là các
suối nước nóng cũng có rất nhiều ở Nhật Bản. Tự nhiên Nhật Bản chia làm 4 mùa
rõ rệt.
- Mùa xuân: tháng 3 – tháng 5: Khí hậu ấm áp giao mùa, tram hoa đua nỏ
khiến mùa xuân được mọi người mong đợi nhất. Phía Nam của đảo Kyushu
và các đảo Nansei là nơi mùa xuân tới trước tiên. Vào cuối tháng 3, hoa anh
đào đã bắt đầu nở và di chuyển dần từ phía Nam lên phía Bắc. Mùa hoa anh
đào là mùa đẹp nhất để du khách viếng thăm Nhật Bản. Sau khi hoa đã tàn là
các trận mưa thất thường kéo dài trong hai tháng trước khi mùa mưa chính
bắt đầu từ đầu tháng 5 tại Okinawa. Nhiệt độ trung bình vào mùa xuân từ 8
đến 20°C.
- Mùa hạ tháng 6 ~ tháng 8: Mùa hạ tại Nhật Bản bắt đầu với các luồng khí từ
Thái Bình Dương thổi tới, làm cho phần lớn lãnh thổ trở nên nóng và ẩm.
Nhiệt độ trung bình từ 18 đến 29°C. Độ nóng của mùa hạ cao nhất vào tháng
8 với thời tiết hanh khô khó chịu (nhiệt độ nóng nhất ở Nhật Bản từng đo
được là 41°C vào 12/8/2013 tại tỉnh Kochi). Đầu mùa hạ cũng có các trận
mưa, bắt đầu từ miền nam trong vài tuần lễ rồi chuyển dần lên miền bắc.
Mùa mưa bắt đầu từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7.
- Mùa thu tháng 9 ~ tháng 11: Thời tiết vào mùa thu ở Nhật Bản hơi se lạnh và
thỉnh thoảng có những cơn bão. Nhiệt độ có thể giảm nhanh từ giữa tháng 10
và tháng 11 vì gần sang đông. Nhiệt độ trung bình vào mùa thu là khoảng
12°C vào các phần phía bắc, 20°C ở khu vực miền trung và 26°C quanh phía
nam của Nhật Bản. Mùa thu ở Nhật Bản giống như một mùa thư giãn tận
hưởng thiên nhiên êm đềm khi mà rừng phong chuyển sắc từ xanh sang đỏ…
Mùa lá đỏ đến sớm ở Hokkaido – nơi có khí hậu lạnh nhất và di chuyển dần
xuống miền nam. Phần lớn người Nhật nói rằng đây là mùa đẹp nhất trong
năm vì thời tiết ổn định, lý tưởng cho việc đi du lịch với cảnh sắc thiên
nhiên.
- Mùa đông tháng 12 ~ tháng 2: Gió lạnh và khô của miền Siberia thổi về
hướng Nhật Bản, đã gặp không khí ẩm và nóng của Thái Bình Dương tạo ra
các trận tuyết lớn trên các phần đất phía tây. Miền đông của Nhật Bản ít bị
tuyết hơn nhưng cũng rất lạnh. Nhiệt độ lạnh nhất từng đo được ở Nhật Bản
là -41°C vào 25/1/1902 tại tỉnh Hokkaido.
1.2.Đặc điểm kinh tế Nhật Bản
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, kinh tế Nhật Bản đã phát triển nhanh
chóng, đặc biệt trong giai đoạn 1955 – 1973. Từ 1974 đến nay, tốc độ phát triển tuy
chậm lại nhưng năm 6/2016 Nhật Bản vẫn là nền kinh tế lớn thứ 3 sau Mỹ và
Trung Quốc với tổng giá trị nền kinh tế là 15.100 USD. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn
là một nước nghèo tài nguyên và nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào việc
nhập khẩu nguyên liệu. Theo dữ liệu chính thức được công bố cho thấy trong 3
tháng đầu năm 2017, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới tăng trưởng 2.25 so với cùng kỳ
năm trước, và tăng 1.4% so với quý 4/2016. Điều này đã đánh dấu 5 quý tăng
trưởng liên tiếp đối với Nhật Bản, chuỗi tăng trưởng dài nhất kể từ năm 2006. Sự
gia tăng chi tiêu của người tiêu dùng cũng như kim ngạch xuất khẩu là những động
lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Trong năm 2016, Chính Phủ của
ông Abe đã gia tăng nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng bằng cách đưa ra nhiều gói kích
thích “khổng lồ”. Dẫu vậy nền kinh tế Nhật Bản vẫn đối mặt với nhiều khó khăn.
Cụ thể, tiền lương của người lao động tăng trưởng chậm chạp và lạm phát vẫn còn
cách xa so với mực tiêu của Bọ. (thiếu)
1.3.Đặc điểm chính trị, văn hóa tiêu dùng Nhật Bản
1.3.1. Đặc điểm chính trị
Nền chính trị Nhật Bản được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế
quân chủ lập hiến và cộng hòa đại nghị (hay chính thể quân chủ đại nghị) theo đó
Thủ tướng giữ vai trò đứng đầu nhà nước và chính đảng đa số. Quyền hành pháp
thuộc về chính phủ. Lập pháp độc lập với chính phủ và có quyền bỏ phiếu bất tín
nhiệm với chính phủ, trong trướng hợp xấu nhất có thể tự đứng ra lập chính phủ
mới. Tư pháp giữ vai trò tối quan trọng và đối trọng với chính phủ và hai viện quốc
hội (gồm thượng viện và hạ viện). Hệ thống chính trị Nhật được thành lập dựa trên
hình mẫu cộng hoà đại nghị của Anh quốc và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các
nước dân luật ở châu Âu, cụ thể là hình mẫu của nghị viện Đức Bundestag. Vào
1896 chính quyền Nhật thành lập bộ luật dân sự Minpo dựa trên mô hình của bộ
luật dân sự Pháp. Mặc dù có thay đổi sau Thế chiến II nhưng bộ luật cơ bản còn
hiệu lực đến nay.
Nhật hoàng: Hoàng gia Nhật do Nhật hoàng đứng đầu. Theo Hiến pháp Nhật
thì “Hoàng đế Nhật là biểu tượng của quốc gia và cho sự thống nhất của dân tộc”.
Nhật hoàng sẽ tham gia vào các nghi lễ của quốc gia nhưng không giữ bất kì quyền
lực chính trị nào, thậm chí trong các tình huống khẩn cấp của quốc gia. Quyền lực
này sẽ do Thủ tướng và các thành viên nghị viện đảm nhận. Hiến pháp đóng vai trò
tối cao đối với người Nhật, đặc biệt trong công tác xây dựng luật pháp. Vai trò
chính trị của Nhật hoàng hiện vẫn còn nhiều bí ẩn, ví dụ như trong các dịp ngoại
giao quan trọng của Nhật, Nhật hoàng sẽ là người đảm nhận các nghi thức quan
trọng như là một người đứng đầu quốc gia (chào cờ hay tham gia lễ duyệt binh).
Nhánh hành pháp: Hành pháp có trách nhiệm báo cáo các vấn đề thường
niên lên quốc hội. Đứng đầu nội các là Thủ tướng, được chỉ định bởi hoàng đế về
hình thức dưới sự giới thiệu của quốc hội. Bắt buộc là công dân Nhật Bản và là
thành viên của một trong hai viện quốc hội. Nội các đuợc Thủ tướng và một vài bộ
trưởng đứng đầu chỉ định và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Thủ tướng phải là
thành viên nghị viện được sự tín nhiệm của hạ viện và có quyền bổ nhiệm và cách
chức các bộ trưởng và là người đứng đầu đảng đa số tại hạ viện. Đảng bảo thủ tự
do LDP đương quyền từ 1955, ngoại trừ có một thời gian phải tiến hành chia sẻ
quyền lực với đảng đối lập vào 1993; đảng đối lập lớn nhất hiện tại là Đảng Dân
chủ Nhật Bản-JDP.
Nhánh lập pháp: Theo qui định hiến pháp, nghị viện gồm hai viện là cơ quan
quyền lực nhất trong ba nhánh lập pháp hành pháp và tư pháp. Nghị viện sẽ giới
thiệu cho Nhật hoàng để chỉ định người đứng đầu hành pháp (thủ tướng) và tư
pháp (chánh án tối cao).
Nhánh tư pháp: Tư pháp Nhật Bản độc lập với hai nhánh hành pháp và lập
pháp. Thẩm phán tối cao sẽ được chỉ định bởi Nhật hoàng theo giới thiệu của quốc
hội. Tư pháp Nhật được định hình từ hệ thống luật tục (customary law), dân luật và
thông luật, bao gồm vài cấp bậc toà án trong đó cao nhất là Tối cao pháp viện.
Hiến pháp Nhật được công bố 3/11/1946 và có hiệu lực từ 3/5/1947 gồm cả Bản
tuyên ngôn nhân quyền giống như của Hoa Kỳ và quyền xét xử lại của Tối cao
pháp viện. Nhật không có ban bồi thẩm trong các phiên tòa xét xử, và không có
Tòa hành chính (bảo vệ quyền lợi công dân trước cơ quan hành chính nhà nước) và
Toà tiểu án.
1.3.2. Đặc điểm văn hóa tiêu dùng của Nhật Bản
Người tiêu dùng Nhật Bản nhìn chung có độ thẩm mỹ cao và tinh tế. Đặc
tính tiêu biểu của người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90% người tiêu
dùng cho rằng họ thuộc tầng lớp trung lưu. Phần lớn người tiêu dùng người Nhật
đã được trang bị những thiết bị sở hữu lâu dài như máy giặt, tủ lạnh, TV màu, máy
hút bụi, cát sét, lò vi sóng, điều hòa…. Văn hóa tiêu dùng của người Nhật mang
những nét đặc trưng khác biệt được quy tụ bởi nhièu yếu tố.
Tác động của yếu tố nhân khẩu học
Nhật Bản bắt đầu có sự suy giảm dân só từ năm 2013 cũng như cơ cấu nhân
khẩu học rât già của Nhật là xu hướng chính ảnh hưởng đến doanh thu bán rau quả
trong những năm gần đây. Sự già hóa dân số đồng nghĩa với việc người tiêu dùng
già hơn thường yêu cầu đồ ăn ít calo hơn. Với tỷ lệ sinh đẻ thấp và suy giảm cơ cấu
nhân khẩu học của Nhật Bản sẽ tiếp tục dẫn dắt xu thế thực phẩm, kể cả hiện tại
hay trung và dài hạn. Những người tiêu dùng già thường dùng ít calo hôn những
người trẻ tuổi, họ cũng hạn chế về tài chính và nhiều người tiêu dùng phải cắt
giảm chi tiêu hàng ngày đối với mặt hàng thực phẩm. Người tiêu dùng Nhật cũng
phân cực về độ tuổi và tiêu dùng, với những người già còn khá là truyền thống
trong mua sắm thực phẩm tươi và những người trẻ hơn thích mạo hiểm hơn và sẵn
sang thử mọi loại thực phẩm ngoại. Đó gọi là quốc tế hóa cách ăn uống của người
Nhật trong hai đến ba thập kỷ qua. Lượng người tiêu dùng đang suy giảm cũng
như nhu cầu về calo giảm bớt của những người tiêu dùng giã trong xã hội Nhật đã
có tác động to lớn đến thực phẩm và tạo ra sự suy giảm trong hầu hết các lĩnh vực,
ngoại trừ thịt và các loại hạt. Việc nấu cơm tại nhà suy giảm, phụ thuộc nhiều hơn
vào những địa điểm bán thực phẩm giá rẻ như là cửa hàng ăn nhanh và sự bùng nổ
thực phẩm chế biến tiện lợi đã có tác động lên thực phẩm tươi. Những cửa hàng
bán thực phẩm giá rẻ và nhanh đã đưa ra nhiều lựa chọn thuận tiện hơn và tiếp tục
tăng trưởng nhanh chóng và cho người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm giá thấp với
chất lượng chấp nhận được.
Sức khỏe và an toàn
Người Nhật là người tiêu dùng có yêu cầu khắt khe nhất. Sống trong môi
trường có mức sống cao (GDP năm 2016 là 4383,1 tỷ USD), nên người tiêu dùng
Nhật Bản đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin
cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sang trả giá cao hơn một chút cho những
sản phẩm có chất lượng tốt. Do dân số đang già đi của Nhật Bản, nên xu hướng
chủ yếu về nhu cầu thực phẩm sẽ liên quan đến sức khỏe và an toàn. Cho dù kinh
tế có suy giảm hay không, những thực phẩm có thành phần tốt cho sức khỏe sẽ tiếp
tục là xu hướng chính của người tiêu dùng Nhật Bản. Người tiêu dùng sẵn sàng
chi trả thêm cho những sản phẩm như vậy. Kết quả là mặc dù ngân sách tiêu dùng
của các hộ gia đình đang thu hẹp lại, người tiêu dùng nói chung sẵn sàng vui vẻ chi
tiêu cho những sản phẩm có lợi cho sức khỏe. Họ không chỉ yêu cầu hàng chất
lượng cao, bao bì đảm bảo và dịch vụ bán hàng và dịch vụ sau bán hàng tốt mà còn
muốn mua hàng với giá cả hợp lí, đặc biệt là từ sau khi “nền kinh tế bong bóng”
sụp đổ. Những quan ngại về sức khỏe chủ yếu là vấn đề hạt nhân ở Fukushima tiếp
tục có ảnh hưởng đến niềm tin tiêu dùng về thực phẩm tươi sạch. Tuy mức rủi ro
được xem là thấp nhưng bất kì rủi ro nào được đề cập trên các phương tiện truyền
thông và báo đài sẽ có tác động sâu sắc và lâu dài đối với khả năng tiêu thụ thực
phẩm tại Nhật Bản.
Nhạy cảm với giá cả
Người tiêu dùng Nhật Bản nhạy cảm vối giá cả tiêu dùng hàng ngày. Các bà
nội trợ đi chợ hàng ngày và là lực lượng quan trọng ảnh hưởng đến thị hiếu tiêu
dùng, họ hay để ý đến biến động giá và các mẫu mới.
Sản phẩm nội địa là tốt nhất
An toàn sản xuất trong nước vẫn có ý nghĩa quan trọng nhất, nhưng thực tế
Nhật Bản đã phải nhập khẩu cho gần 40% lượng calorin tiêu thụ (theo đánh giá thì
đó là con số thấp), đặt người tiêu dùng Nhật Bản vào vị trí không dễ dàng để dựa
vào tiêu chuẩn sản xuất quốc tế thường được xem là thấp hơn tiêu chuẩn trong
nước của Nhật Bản. Trong khi sản phẩm trong nước thường được ưu tiên, hàng
nhập khẩu có xu hướng rẻ hơn nhiều, do đó làm cho nhiều người tiêu dùng lâm vào
tình trạng tiến thoái lưỡng nan, tức là cân nhắc vấn đề giá cả so với vấn đề an toàn.
Thực tế là người tiêu dùng Nhật Bản đang ngày càng quan tâm tới những sản phẩm
“ngoại lai” và mở rộng thực đơn hàng ngày của họ.
Ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm
Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: hàng hóa có
mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản. Vào một siêu
thị của Nhật sẽ thấy được tính đa dạng của sản phẩm đã phổ biến đến mức nào ổ
Nhật. Ví dụ như một mặt hàng sữa uống nhưng không thể đếm xuể được các chủng
loại khác nhau do thành phần, màu sắc, hương thơm… Bởi vậy nhãn hiệu hàng có
kèm theo những thông tin hướng dẫn tiêu dùng là rất quan trọng để đưa hàng hóa
đến tay người tiêu dùng.
Nhạy cảm với những thay đổi theo mùa
Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông, mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa
đông lạnh và khô. Đặc điểm khí hậu tác động đến khuynh hướng tiêu dùng. Quần
áo, đồ dùng trong nhà, thực phẩm là những mặt hàng tiêu dùng có ảnh hưởng theo
mùa. Việc bao gói sản phẩm cũng phải đảm bảo bảo vệ được sản phẩm trong
những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất. Cùng với tác động của khí hậu, yếu tố
tập quán tiêu dùng cũng cần phải được nghiên cứu và tham khảo trong kế hoạch
khuếch trương tại thị trường Nhật Bản. Ví dụ như hầu như các gia đình Nhật không
có hệ thống sưởi trung tâm và để bảo vệ môi trường, nhiệt độ điều hòa luôn được
khuyến khích không để ở mức quá ấm (nhiệt độ ca) hoặc quá mát, bởi vậy quần áo
trong nhà mùa đông của người Nhật phải dày hơn áo dùng trên thị trường Mỹ, hoặc
áo có lót là không phù hợp với mùa hè.
Xu hướng suy giảm trong tương lai
Với tình hình dân số Nhật Bản đang ngày một già trong trung hạn, doanh số
bán thực phẩm tươi cũng sẽ tiếp tục suy giảm. Khi những nhóm người tiêu dùng trẻ
và già phụ thuộc nhiều hơn vào thực phẩm chế biến, một điểu rõ ràng là ngành
thực phẩm tươi của Nhật Bản đang phải đối mặt với một giai đoạn thay đổi. Điều
này cũng xảy ra tương tự đối với ngành trồng trọt của Nhật Bản vốn đang rất cần
hiện đại hóa và đang phải chịu nhiều áp lực.
Thay đổi dây chuyền cung ứng
Nhật Bản coi trọng nguồn cung ứng thực phẩm nội địa vì đất đai cho nông
nghiệp bị hạn chế do địa hình của đất nước và giá cả thực phẩm nội địa thường cao
hơn nhiều so với ở phương Tây. Giá cả thực phẩm nội địa cao làm cho thị trường
nội địa bị phân tầng, do đó giúp cho nhiều người tiêu dùng nhận thức rõ hơn về chế
biến thực phẩm thủ công. Trong khi quy trình vận chuyển thực phẩm chậm và gia
tăng các loại thực phẩm có thể truy nguyên nguồn gốc trở nên phổ biến ở phương
Tây chỉ trong một thập kỷ qua, nhưng những nguyên tắc này đã nằm sâu trong văn
hóa thực phẩm của Nhật Bản, tập trung vào một số vụ mùa nhất định và một số
loại rau quả nhất định. Vấn đề đối với nông nghiệp Nhật Bản là khả năng cung cấp
cho 120 triệu dân của quốc gia này. Một tình huống mà hơn 200 năm trước, đã
khuyến khích người Nhật tìm kiếm ở nước ngoài nguồn cung cấp để hỗ trợ cho
trong nước. Tuy nhiên, nhập khẩu mặc dù là cần thiết, vẫn bị nhiều người tiêu dùng
nhìn nhận một cách nghi ngờ, một phần do cách nhìn thủ công về nông nghiệp của
Nhật. Tuy nhiên, xét về lượng calorin, ngành nông nghiệp nội địa chỉ cung cấp
được khoảng 40% (thấp theo tiêu chuẩn lịch sử), do đó minh chứng rằng nhập
khẩu quan trọng như thế nào với đất nước này. Trong khi người tiêu dùng tìm kiếm
những sản phẩm nội địa có chất lượng cao, xu hướng mua hàng nhập khẩu giảm
giá so với hàng nội địa giá cao rất hấp dẫn, bất chấp những quan ngại về chất
lượng và độ an toàn thực phẩm. Kết quả là việc phụ thuộc vào thị trường nước
ngoài với hàng thực phẩm nhập khẩu khiến cho người tiêu dùng Nhật Bản cảm
thấy không yên tâm về chất lượng và sự an toàn của thực phẩm. Đa số người tiêu
dùng Nhật Bản thích mua thực phẩm trong nước sau khi xảy ra liên tiếp những vụ
scandal về chất lượng thực phẩm dẫn đến cái chết của một số người tiêu dùng do bị
ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên, tình trạng nguồn cung nội địa bị hạn chế và nền
kinh tế trong nước khó khăn đã thúc đẩy nhiều người tìm kiếm nguồn thực phẩm
nhập khẩu rẻ hơn.
1.4.Đặc điểm thị trường rau quả nhập khẩu Nhật Bản
Người Nhật là có tuổi thọ cao nhất thế giới, đàn ông Nhật cố tuổi thọ trung
bình là 79 và phụ nữ là 85 (cao nhất thế giới trong 20 năm qua). Nguyên nhân của
hiện tượng này được cho là người Nhật có chế độ ăn lành mạnh nhiều rau, hải sản
thay vì các chất béo từ bơ, sữa, thịt sống… Vì thế nhu cầu tiêu thụ rau tại Nhật
được xem là luôn dồi dào. Tuy nhiên thực tế, Nhật Bản lại là đất nước có khí hậu
môi trường khắc nghiệt, quanh năm xảy ra động đất gây khó khăn trong sản xuất
rau quả thực phẩm. Mặt khác còn gặp phải những rào cản do người Nhật ngày càng
già đi và thanh niên thì ít cố xu hướng hoạt động trong ngành nông nghiệp nên các
mặt hàng rau quả Nhật Bản vẫn tăng đều số lượng nhập khẩu.
1.4.1. Rau tươi và rau đông lạnh
Rau tươi
Mỗi năm Nhật tiêu thụ khoảng 17 triệu tấn rau. Người Nhật tiêu thụ rau
nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, bình quân mỗi người tiêu thụ khoảng
100 kg 1 năm. Xu hướng tiêu dùng gần đây là những loại rau tự nhiên và có lợi
cho sức khỏe là những loại rau xanh giàu vitamin đặc biệt là rau được trồng bằng
chất hữu cơ. Trước đây người Nhật thường hái, lựa chọn rau tùy từng mùa của
những người bán rau quả trong vùng dựa vào độ tươi, hình dáng, màu sắc và độ
bóng của rau và tự chế biến rau tại nhà. Nhưng trong những năm gần đây, tốc độ
dân số già hóa, những người trẻ bận rộn với vòng quay công việc thì nhiều người
đã lựa chọn đi ăn hiệu và những bữa ăn tại gia đã trở nên đơn giản hơn, rút ngắn
thời gian chuẩn bị, sử dụng nhiều sản phẩm đông lạnh và thực phẩm đã sơ chế
dùng cho lò vi sóng và một số phương tiện nấu bếp thuận tiện khác.
Rau đông lạnh
Do được bảo quản ở nhiệt độ -18°C hay thấp hơn nên rau đông lạnh có thể
giữ được khoảng một năm hoặc lâu hơn mà không ảnh hưởng đến chất lượng. Hiệp
hội Thực phẩm đông lạnh Nhật đã lập ra các nguyên tắc hướng dẫn duy trì chất
lượng đối với hầu hết các loại rau đông lạnh. Ví dụ như hạn dùng sau khi sản xuất
sản phẩm nhằm đảm bảo chất lượng cho măng tây và đậu tây là 12 tháng, ngô lõi
là 10 tháng, cà rốt 20 tháng và bí ngô 24 tháng. Tuy nhiên, enzyme có trong rau
vẫn lưu lại ngay cả sau khi đông lạnh và lượng enzym hoạt động có thể làm giảm
chất lượng sản phẩm. Do đó, rau đông lạnh thường được làm trắng trước khi đông
lạnh, nhằm làm giảm lượng enzyme và giúp cho bảo quản tốt chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên rau diếp và một số loại rau khác dùng để ăn sống dưới dạng salat sẽ mất
đi độ giòn sau khi làm trắng. Rau đông lạnh có thể dùng trong cả năm với chất
lượng và giá bán ổn định. Bởi thế, mỗi khi giá cả rau tươi tăng lên thì nhu cầu về
rau dông lạnh càng cao.
1.5.Các chế định pháp luật của Nhật Bản về nhập khẩu rau quả
Tiêu chuẩn của Nông nghiệp Nhật Bản JAS của Bộ Nông nghiệp và Thủy
sản MAFF đã được đưa ra từ ngày 1/4/2001. Luật JAS đã được thiết lập dựa trên
nguyên tắc CODEX về nông nghiệp hữu cơ. Theo luật mới tất cả các sản phẩm
được dán nhãn hữu cơ phải được Tổ chức Chứng nhận đăng ký (RCO) chứng nhận
và phải hiển thị biểu tượng JAS cũng như tên của RCO. Theo quy định mới, các
RCOs được yêu cầu phải được công nhận bởi MAFF. Kể từ khi bắt đầu thưc hiện
luật mới, 38 tổ chức đã được đăng ký là RCO. Mặc dù các nhà đăng ký nước ngoài
có thể đăng ký nhưng tại thời điểm viết, tất cả các RCOs đều là tiếng Nhật.
Hình 2.1: Quy trình JAS
Nhật Bản là thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm. Các loại
thực phẩm bị cấm nói chung là thực phẩm bị thối rữa, héo úa, phân hủy hoặc chưa
chin. Các thực phẩm bị cấm là các thực phẩm bị nhiễm mầm bệnh hoặc nghi ngờ
bị ô nhiễm, nhiễm tạp chất hoặc chất bẩn. Nếu không tuân thủ đầy đủ các quy định
về nhập khẩu các nhà xuất khẩu có thể phải đối mặt với lệnh cấm vĩnh viễn. Các
loại bị cấm nhập khẩu bao gồm các sản phẩm có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến rau quả bản địa. Thực phẩm bị nhiễm các loại bệnh dịch sau bị cấm nhập
khẩu: hoa quả nhiễm các loại bệnh dịch gây ra bởi côn trùng bay.
Hạn mức nhập khẩu được thiết kế để đặt ra định mức về khối lượng hoặc giá
trị của chuyến hàng nhập khẩu vào Nhật Bản. Thông báo nhập khẩu được ấn định
trong quý I và quý II cho mỗi năm tài chính và ấn định quy trình đăng ký hạn mức
nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng. Ngân hàng hoặc các cơ quan tín dụng chỉ
cung cấp tín dụng và thực hiện thanh toán cho các nhà nhập khẩu khi họ có hạn
mức nhập khẩu của Bộ Công Thương.
Nhật Bản cũng đặt ra các quy định khắt khe về nhãn mác. Trên nhãn, mác
sản phẩm phải ghi cá chỉ tiêu chất lượng theo quy định chuẩn Nông nghiệp Nhật
Bản JAS. Các quy dịnh này nhằm chứng minh việc kiểm soát chất lượng trong quá
trình sản xuất và phân phối, bảo vệ người tiêu dùng khi mua các sản phẩm ngoại
nhập. Nhãn mác phải có đầy đủ thông tin: Tên sản phẩm, nguyên liệu (bao gồm cả
phụ gia), khối lượng tịnh, thời hạn sử dụng sản phẩm, tên và chỉ dẫn của nhà sản
xuất hoặc nhà phân phối. Các thông tin phải đầy đủ đúng theo quy định, nội dung
hình ảnh phản ánh đúng sản phẩm ở bên trong. Nhãn, mác phải in bằng mực có
màu tương phản với màu của nhãn, mác. Phông chữ phải là chữ 8 vơií kiểu gothic,
phụ gia in bằng dòng riêng biệt. Các sản phẩm có nhà phân phối khác với nhà sản
xuất thì trên nhãn mác phải ghi cả tên nhà phân phối, đối với sản phẩm nhập khẩu
phải ghi tên và địa chỉ nhà nhập khẩu.
2. Thực trạng xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
2.1.Khái quát quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
Theo báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2016 của Bộ Công Thương,
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu nông sản, thủy sản đứng thứ 5 của Việt Nam
(chiếm 6.6%), trong đó là thị trường thứ 2 về rau quả, đứng thứ 3 về thủy sản. Đây
cũng là thị trường tiềm năng cho một số măt hàng nông sản khác như điều, chè, thủ
côn mỹ nghệ… nếu hàng xuất khẩu đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực
phẩm và kiểm dịch động thực vật. Xuất khẩu nông sản, thủy sản sang Nhật Bản
năm 2016 đạt 1,46 tỷ USD, tăng 6,6%. Trong đó, thủy sản tăng 6,2%, đạt 1,1 tỷ
USD; rau quả tăng 1,5%, đạt 75,1 triệu USD; cà phê tăng 19,7%, đạt 202,9 triệu
USD... các mặt hàng có tăng trưởng âm là: hạt tiêu giảm 13,8%, đạt 28,3 triệu
USD; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 16,7%, đạt 15,6 triệu USD, cao su giảm