Lê Thị Thu Trang
Lớp 30k09
Đề cương chi tiết
GVHD: Nguyễn Hồng Cử
Tên đề tài : Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển bền vững ngành khai thác
thuỷ sản Quận Sơn Trà
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển, ngành thuỷ sản nước ta đã trở thành ngành kinh tế quan trọng
đối với sự phồn vinh kinh tế - xã hội của đất nước. Quá trình khai thác với nguồn tài
nguyên thuỷ sản đa dạng phong phú, môi trường biển đã làm đậm nét “đặc trưng biển”
của ngành thuỷ sản nước ta và có tầm quan trọng trực tiếp đối với hơn 17 triệu dân sông
ở các địa phương ven biển và hải đảo, góp phần đáng kể trong tổng thu nhập, bình quân
chiếm 3% GDP cả nước. Cùng với sự phát triển kinh tế đó thì Quận Sơn Trà với một sự
ưu đãi về thiên nhiên, bán đảo này luôn là điểm hấp dẫn du khách về du lịch và có nhiều
điều kiện phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng trở thành cánh tay đắc lực cho sự phát
triển chung của thành phố cũng như cả nước.Qua quá trình phát triển Sơn Trà đã xác định
được thế mạnh của mình là tận dụng những điều kiện ưu đãi của thiên nhiên, nhất là
trong những tháng ngày chưa có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng…, chính
vì thế những năm đầu Quận đã khẳng định cần phải tập trung vào phát triển khai thác
thuỷ sản (bởi đây là một ngành mà Quận rất được sự ưu tiên của thiên nhiên) để tạo cho
Quận một nền tảng ban đầu, làm đòn bẩy cho sự phát triển lâu dài. Nhờ đó xác định được
ngành kinh tế mũi nhọn là phát triển khai thác thuỷ sản trong giai đoạn đầu, cùng với nó
đầu tư phát triển vào các ngành, lĩnh vực khác trong giai đoạn tiếp theo.Thế nhưng thực
tế hiện nay cho thấy nguồn lợi thủy sản gần bờ đã bị khai thác một cách trầm trọng. Sản
lượng khai thác thực tế đã vượt khả năng khai thác cho phép, sản lượng những loài có giá
trị kinh tế cao đang giảm đi nhanh chóng. Sản lượng của những loài có giá trị thấp cũng
đang dần cạn kiệt. Một câu hỏi luôn đặt ra làm đau đầu các cấp lãnh đạo quản lý là “làm
thế nào để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tránh bị cạn kiệt”Nhưng dân số ngày càng gia tăng
bộ phận dân cư sóng bằng nghề cá cũng không phải là nhỏ, nền kinh tế đất nước còn
thấp, đời sống của họ còn nghèo, các vòng luẩn quẩn luôn thúc ép họ bằng mọi cách gia
tăng áp lực khai thác thuỷ sản làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn lợi tài nguyên này. Cái
được gọi là “bền vững” đang dần bị phá huỷ cộng với việc ô nhiễm môi trường nước do
đánh bắt và khai thác không hợp lý dẫn đến tình trạng các loài sinh vật biển không có khả
năng tái sinh. Xuất phát từ vấn để trên em đã nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp
nhằm phát triển bền vững ngành khai thác thuỷ sản Quận Sơn Trà” nhằm hiểu kỹ hơn
những vấn đề liên quan và mạn phép đưa ra những ý kiến chủ quan, những cảm
nhận, suy luận của em về tình hình thực hiện và những xu hướng, kiến nghị dựa trên cơ
sở những tài liệu và sự hướng dẫn của các cô chú trong Trung tâm Hành chính Quận.
Đề tài của em gồm 3 nội dung chính sau
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về phát triển kinh tế bền vững
Chương 2: Thực trạng khai thác thuỷ sản ở Quận Sơn Trà – Thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp thực hiện đánh bắt hải sản theo hướng
bền vững ở Quận Sơn Trà
Em chân thành cảm ơn sự dẫn dắt rất nhiệt tình của các thầy cô giáo, nhất là thầy giáo
Nguyễn Hồng Cử cùng với sự giúp đỡ nhiệt thành của các cô chú, anh, chị trong phòng
Kinh tế của Trung tâm Hành chính Quận Sơn Trà trong thời gian em thực hiện đề tài.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình tìm kiếm số liệu, phân tích đề tài nhưng với
tầm hiểu biết còn hạn hẹp chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những sai sót, em hy
vọng sẽ được thầy và các cô chú chỉ bảo thêm nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ của thầy cô và các cô chú đã giúp em hoàn thành đề tài.
Đà Nẵng, tháng 5/2008
SVTH: Lê Thị Thu Trang
Khoa Kinh Tế Chính Trị
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về phát triển kinh tế bền vững
1.1. Những quan điểm chung về phát triển kinh tế bền vững
1.1.1. Quan điểm của thế giới về phát triển bền vững
Quan điểm phát triển bền vững đã được từng bước tìm kiếm. Năm 1972 thế giới đối mặt
với tình trạng khan hiếm năng lượng và ô nhiễm môi trường nặng nề. Trước thực tế đó và
dưới sức ép của các nhà khoa học Liên Hợp Quốc đã tổ chức hội nghị quốc tế về môi
trường ở Stockhlom. Trong các văn bản chính của thức của LHQ, phát triển bền vững
được hiểu là “sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại
cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Đây là quan điểm chung nhất
Đây là quan điểm mang tính chung nhất và cũng là quan điểm mang tính tổng hợp bao
gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội, kĩ thuật, văn hoá, …
Mục tiêu của phát triển ngày nay là phải nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của
loài người tạo nên cuộc sống công bằng và bình đẳng giữa các thành viên
Tuy nhiên trong một thời gian khá dài người ta đạt mục tiêu kinh tế quá cao xem sự tăng
trưởng về kinh tế gần như là thước đo duy nhất của sự phát triển. Qua thực tiễn, cả thành
công lẫn thất bại, từng bước người ta nhận thức được ngày càng rõ hơn các vấn đề mang
tính tổng hợp, dài hạn và mang tính hệ thống hơn, bao gồm cá yếu tố kinh tế và các yếu
tố ngoài kinh tế
Thật vậy sau những sự phát triển mạnh mẽ những năm 50-60 của thế kỉ 20 loài người
phải đương đầu với cuộc khủng hoảng năng lượng đầu tiên trên quy mô toàn cầu đầu
những năm 70 và sau một thời kì phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế thế giới vào các
năm 50-80 của thế kỉ trước, loài ngưòi nhận thức được rằng chỉ riêng thước đo kinh tế
không thể phản ánh được đầy đủ quan niệm về phát triển hiện đại – phát triển bền vững
1.1.2. Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững
Đối với Việt Nam vấn đề phát triển bền vững đã được đề cập từ khá sớm. Đại Hội 9 của
Đảng đã đề khẳng định con đường phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là “ phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng
xã hội với bảo vệ môi trường ”. Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với việc bảo vệ và cải
thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi truờng nhân tạo và môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học
1.1.2.1. Nguyên tắc
a. Con nguời là trung tâm của phát triển bền vững
b. phát triển kinh tế là trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới
c. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố không thể tách rời của quá
trình phát triển
d. Quá trình phát triển phải được đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế
hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai
e. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước
f. Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền,các bộ, ngành và
địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và
mọi người dân
g. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tụ chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, dể phát triển bền vững đất nước
h. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội
1.1.2.2. Nội dung:
Về kinh tế :
Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên sơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu
quả.
Thay đổi mô hình công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng thoe hướng sạch hơn và thân
thiện hơn với môi trưòng
Thực hiện quá trình công nghiệp sạch
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững
Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương phát triển địa phương
Về xá hội:
Tập trung nỗ lực xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm
Tiếp tục hạ thấp tỉ lệ tăng dân số, giảm bớt sức ép dân số đối với các lĩnh vực tạo việc
làm,…..
Địng hướng quá trình đô thị hoá và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị
Nâng cao chất lượng giáo dục
P hát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ
nhân dân
Về tài nguyên môi trường:
Chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất
Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm bền vững tài nguyên khoáng sản
Bao vệ môi truờng biển, ven biẻn và hải đảo
Bảo vệ và phát triển rừng
1.1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá:
a. Các chỉ tiêu kinh tế
b. Các chỉ tiêu xã hội
c. Các chỉ tiêu văn hoá
d. Các chỉ tiêu tài nguyên – môi trường
1.2. Nội dung của phát triển bền vững đối với ngành khai thác thuỷ sản
Theo luật thuỷ sản thì hoạt động thuỷ sản là việc tiến hành khai thác nuôi trồng, vận
chuyển thuỷ sản, khai thác, bảo quản chế biến , mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu thuỷ sản,
dịch vụ trong hoạt động thuỷ sản, điều tra, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản
Với cách hiểu đó thì hoạt động thuỷ sản phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn liền với bảo vệ, tái tạo, và phát triển nguồn lợi thuỷ sản,
tính đa dạng sinh học, bảo vệ môi truờng và cảnh quan thiên nhiên. Việc phát triển các
lĩnh vực trong hoạt động thuỷ sản phải theo quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành thuỷ
sản trong phạm vi cả nước và của từng địa phương
- Chủ động phòng tránh và giảm tác hại của thiên tai và dịch bệnh thuỷ sản, bảo đảm an
toàn cho người, tàu cá, công trình và thiết bị trong hoạt động thuỷ sản
- Hoạt động thuỷ sản phải kết hợp với bảo đảm an ninh quóc phòng, bảo vệ chủ quyền và
lịư ích của quốc gia trên sông, biển, tuân theo quy định của luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan
Thuỷ sản là một ngành quan trọng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước rất nhiều
vì vậy cần phải phát triển thuỷ sản một cách bền vững.Nhà nước ta đã đề ta một số nội
dung để phát triển bền vững thuỷ sản như sau:
Nhà nước có chính sách bảo đảm phát triển bền vững thuỷ sản, khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi cho tổ chức cá nhân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo
đảm tái tạo nguồn lưọi thuỷ sản và phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển, sông, hồ, đầm
phá, và các vừng nước tự nhiên khác
Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ tiên tiến , phát triển nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng trong hoạt động thuỷ sản,
phát triển nuôi tròng thuỷ sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư để phục vụ hoạt
động thuỷ sản , bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, khuyến khích tổ chức cá nhân
tham gia bảo hiểm về người và tài sản trong hoạt động thuỷ sản trừ trường hợp bắt buộc
mua bảo hiểm theo quy định của luật
Nhà nứơc phát triển kinh tế thuỷ sản trên cơ sở quy định phát triển ngành thuỷ sản phù
hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi cả nước và của từng
địa phương, bảo đảm việc xây dựng các công trình ven sông, ven biển hoặc gần khu vực
nuôi trồng thuỷ sản không làm ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản
Chính phủ xác định ranh giới vùng biển ven bờ trên cơ sở căn cứ vào độ sâu, khoảng
cách từ bờ biển và một số địa điểm khác ở vùng ven biển, ven bờ để phân cấp cho từng
địa phương có bờ biển tổ chức quản lý tổng hợp vùng ven biển ven bờ gắn với phát triển
sản xuất kinh doanh
Chương 2: Thực trạng phát triển ngành khai thác thuỷ sản Quận Sơn Trà :
2.1.1.Tình hình phát triển kinh tế xã hội Quận Sơn Trà:
2.1.1.1. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên :
Bán đảo Sơn Trà nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng chừng 7 km về hướng Đông
Bắc, có vị trí vào khoảng 16o độ vĩ Bắc, thuộc phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nơi đây,
hệ sinh vật biển đóng vai trò rất quan trọng về sinh thái và tài nguyên cho vùng Trung
Trung Bộ.Nằm ở phía đông Thành Phố, ngoại trừ phía Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn, 3
phía còn lai đều giáp sông và biển, lại được bán đảo Sơn Trà che chắn ở phía Bắc; điều
kiện tự nhiên của quận Sơn Trà rất thuận lợi cho phát triển khai thác thuỷ sản; và cũng do
điều kiện tự nhiên như vậy mà hoạt động khai thác thuỷ sản trên địa bàn quận cũng phân
thành hai vùng với quy mô phát triển khác nhau, đó là:
Vùng bãi ngang (ven biển Đông) gồm các phường Phước Mỹ, Mân Thái và một phần
Thọ Quang. Do không có nơi neo trú tàu thuyền an toàn khi có sóng to, gió lớn nên tàu
thuyền của cư dân vùng này thường có công suất nhỏ, thủ công để dễ di chuyển lên bờ
tránh sóng gió. Vì vậy hoạt động khai thác thuỷ sản chỉ tập trung ở vùng ven bờ, vùng
lộng và kém phát triển
Vùng cửa lạch (ven bờ sông Hàn) gồm các phường An Hải Tây, An Hải Bắc, Thọ Quang,
Nại Hiên Đông và An Hải Đông. Ngược với vùng bãi ngang, do điều kiện thuận lợi hơn
trong neo đậu trú gió bão, nên hoạt động khai thác thuỷ sản của ngư dân vùng cửa lạch
phát triển theo xu hướng tàu thuyền công suất lớn hơn và phạm vi hoạt động cũng khơi
hơn.
Hoạt động khai thác thuỷ sản của quận trong những năm qua đã có những bước phát triển
tích cực, năng lực sản xuất tiếp tục tăng. Giá trị sản xuất và sản lượng khai thác thuỷ sản
cũng không ngừng tăng qua các năm; song việc tăng này lại không ổn định, bởi nều tính
bình quân trên tổng tàu thuyền hoặc trên tổng công suất thì vẫn thấp hơn so với những
năm 80, 90 của thế kỷ trước. Hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác thuỷ sản trong
những năm gần đây không cao.
Năng lực khai thác thuỷ sản quận tuy có tăng nhưng tàu công suất lớn khai thác vùng
khơi chưa nhiều, hầu hết là loại công suất nhỏ từ 33 CV trở xuống, tập trung khai thác
vùng ven bờ và vùng lộng với các loại nghề phù hợp đặc điểm ngư trường; trong đó có
một số nghề mang tính huỷ diệt môi trường cao, lại là đối tượng chịu tác động trực tiếp
của nghị định 86/2014/ND-CP ngày 16/11/2014 của chính phủ về điều kiện kinh doanh
các ngành nghề thuỷ sản.
2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên :
Sơn Trà nay là một quận ngoại thành, diện tích 60,78 km 2 với dân số trung bình năm
2017 là 113.613 người. Cùng với hệ thống núi non của Hải Vân Sơn ở phía Bắc, bán đảo
Sơn Trà ở phía Nam, còn có nhiều tên khác như Vũng Tiên Sa, Vũng Hàn, Vũng Đà
Nẵng, Vũng Thùng. Vũng Sơn Trà rộng, sâu và kín đáo. Các cảng Tiên Sa, Liên Chiểu
đều nằm trong vũng này, có thể đón nhận tàu biển có tải trọng trên 20 ngàn tấn ra vào,
neo đậu dễ dàng.
Trải qua những năm chiến tranh, Sơn Trà vẫn nguyên vẹn là một bảo tàng rừng tự nhiên.
Sơn Trà có gần 4000 ha rừng. Đây là nơi giao lưu giữa hai hệ động vật và thực vật tiêu
biểu của hai miền Nam Bắc. Trong rừng nguyên sinh này có 289 loài thực vật bậc cao.
Về động vật nơi đây là quần cư của họ hàng nhà khỉ với khoảng 400 con vọc và nhiều lời
khỉ đuôi dài. Ngoài ra còn có chồn, hoẵng, heo rừng, gà rừng…
Núi Sơn Trà cao đến gần 700 m. Núi Sơn Trà xưa nay được xem như là đài khí tượng
thiên nhiên của nhân dân quanh vùng.
Quanh bán đảo là biển xanh màu ngọc bích. Bờ biển ở đây có nhiều bãi tắm còn hoang sơ
và hấp dẫn, trải dài hàng chục km. Chúng ta có thể đi từ cảng Tiên Sa, ngược lên hướng
Bắc sẽ gặp bãi Tiên Sa, đi xuống phía Nam gặp bãi Bụt, bãi Xếp, bãi Nam thật quyến rũ.
Bãi tắm ở đây thật hoang sơ, vắng vẻ. Bãi rộng lớn, cát trắng phau phau dưới ánh nắng
chói chang của mùa hè. Xa hơn về phía bắc là bãi Bắc, trải dài theo gành đá giữa cảnh
trời mây nước. Tiềm năng du lịch biển và du lịch sinh thái của bán đảo Sơn Trà đang
được ngành du lịch đầu tư khai thác với nhiều dự án xây dựng khu du lịch ở bãi Nam, bãi
Bắc, vùng Suối Đá, làng Nam Thọ…
Quận sơn trà có vị trí quan trọng về kinh tế, có cảng biển Tiên Sa là cửa khẩu quan hệ
kinh tế quốc tế không chỉ của thành phố Đà Nẵng mà của cả khu vực miền Trung, Tây
Nguyên và các nước Lào, Đông Bắc Thái Lan, Myanma. Với khu bảo tồn thiên nhiên
Sơn Trà, một dãy bờ biển đẹp với nhiếu bãi san hô lớn, Sơn Trà có điều kiện thuận lợi
trong việc giao lưu kinh tế và phát triển du lịch. Quận Sơn Trà gồm 7 phường: An Hải
Đông, An Hải Bắc, An Hải Tây, Mân Thái, Phước Mỹ, Nại Hiên Đông và Thọ Quang. Đa
số nhân dân trên địa bàn các phường: Nại Hiên Đông, Mân Thái, An Hải Bắc, Thọ
Quang…sống bằng nghề khai thác, đánh bắt thuỷ sản dài ngày trên biển.
Nằm ở phía đông Thành Phố, ngoại trừ phía Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn, 3 phía còn
lai đều giáp sông và biển, lại được bán đảo Sơn Trà che chắn ở phía Bắc; điều kiện tự
nhiên của quận Sơn Trà rất thuận lợi cho phát triển khai thác thuỷ sản
Để có thể tìm hiểu sâu hơn về mọi mặt của quận chúng ta sẽ tìm hiểu về tình hình kinh tế
xã hội của quận trong những năm qua.
2.1.2.3. Tình hình phát triển kinh tế xã hội:
2.1.2. Lịch sử của ngành khai thác thuỷ sản
Có thể nói việc sử dụng các sản phẩm thuỷ sản mà truớc hết là cá đã được bắt đầu từ khi
có sự ra đời của xã hội loài ngưòi. Với bản năng sinh tồn, con người phải chiếm hữu các
đối tượng tự nhiên để duy trì sự sống và phát triẻn. Cá đã được vượn người bắt và ăn đầu
tiên, tiếp đó là người nguyên thuỷ. Kết quả khảo cổ học cho thấy con nguời đã đánh bắt
cá cách đây hơn 100.000 năm và ghi nhận sớm nhất về việc dùng cá làm thực phẩm cho
loài người cách đây hơn 380.000 năm. Một số dân tộc Châu Mỹ và Châu Phi còn biết
đánh bắt các loài giáp xác, người La Mã cổ đại bán đấu giá với mức kỷ lục cho đến nay
khoảng 24.000 USD với 2 con cá đối sống. Con ngưòi cũng đã biết sử dụng các biện
pháp phơi khô, hun khói, ướp muối và đông lạnh lên men để bảo quản nhưng việc ướp
muối cá trích trên boong tàu khi khai thác của người Hà Lan áp dụng từ thé kỉ 14 đã nâng
cao hiệu quả kinh tế. Sang thế kỉ 20 tàu có lưới kéo và đông lạnh đã đượi sử dụng và chế
biến cá ngay trên boong tàu. Qua thời gian con người sử dụng các công cụ từ thô sơ đến
hiện đại. Vì biển và đại dương chiếm 71% diện tích bề mặt trái đất, việc khai thác các
nguồn lợi hải sản là vô cùng quan trọng. Sự phát triển của tôn giáo với những điều cấm
kị, các quyết định chính trị và những đức tin trong các giáo phái ảnh hưởng liên tục và
tiêu cực đến tiêu dùng thuỷ sản. Ở Châu Âu thời trung đại nhà thờ thiên chúa giáo đặt ra
166 ngày ăn kiêng/ năm, vào những ngày đó người ta có thể ăn cá. Họ còn đặt ra các điều
luật trong sản xuất và tiêu dùng cá, Charlemagne đã ra lệnh tất cả các trang trại của ông ta
phải có ao cá. Ngược lại, cuộc cải cách ở Anh làm giảm số luợng tàu thuyền, nghề cá
nước ngọt gần như bị huỷ bỏ. Khi có sự trở lại biển của đàn cá trích là khởi sự của ngành
khai thác cá trích ở Scotland thế kỉ 17. Do cuộc chiến tranh 30 năm ở Đức nghề cá biển
giảm sút thậm chí còn thấp hơn cả nuôi trồng thuỷ sản
Ở thế kỉ 13- 14, Châu Âu đói kém, gia tăng áp lực lên khai thác thuỷ sản biệt là dịch bệnh
tàn phá những năm 1347, 1351 ảnh hưởng đến dân cư ven biển làm giảm khả năng khai
thác thuỷ sản. Khi dòng cá trích di cư đến biển Baltic, Đan Mạch là nước khai thác nguồn
tài nguyên này lớn nhất kéo dài đến thé kỉ 16, sau đó là Hà Lan khi cá trích quay trở lại
vùng biển Bắc. Việc cá hồi muối và cá mòi muối thâm nhập vào thị trường cá trích muối
dẫn đến xích mích giữa Anh và Hà Lan cuối thế kỉ 17. Quyền đánh cá được thừa nhận
cho ngư dân Tây Ban Nha về cá tuyết, cá voi nhưng thực tế lại tước bỏ quyền này, khiến
họ phải tăng cuờng khai thác và ướp muối cá trích ngoài khơi. Diễn biến của sự bất đồng
này vẫn là vấn đề thời sự. Nghề đánh bắt bằng thuyền buồm được thay thế bằng những
chiếc tàu ở giữa kỉ 19 với động cơ đốt trong thay thế hoàn toàn động cơ hơi nước. Sau
chiến tranh thế giới thứ 2, Châu Âu sử dụng máy dò độ sâu và máy siêu âm, tàu đánh cá
được trang bị cấp đông dạng tấm và kết hợp thổi gió. Sự cơ giới hoá 1950 – 1960 chế tạo
ra lưới đánh cá làm thay đổi cơ bản nghề truyền thống lâu đời là lưới rê, câu làm tăng đột
ngột sản lượng khai thác nhưng việc quản lý không thích hợp đã gây thiệt hại lớn cho
nghề cá thế giới. Theo ước tính của FAO khoảng 46% sản lượng cập bến là để thu hồi
vốn đầu tư, đây là tỉ lệ không cân xứng. Vì vậy ngày nay, các nhà quản lýluôn chú trọng
đến hiệu quả kinh tế và có những chiến lựoc định hưóng phát triển ngành thuỷ sản đi đôi
với việc bảo vệ bền vững nguồn lợi thuỷ sản nhưng không ngừng nâng cao kỹ thuật đánh
bắt đặc biệt là việc sử dụng các nguồn sáng cho các ngư cụ làm tăng hiệu quả đánh bắt,
không gây tổn hại môi trường
2.1.2.1. Vị trí của ngành khai thác thuỷ sản :
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia
Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục Thống kê, GDP của ngành Thuỷ sản giai đoạn
1995 - 2016 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng. Trong các hoạt động của ngành,
khai thác hải sản giữ vị trí rất quan trọng. Sản lượng khai thác hải sản trong 10 năm gần
đây tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân hằng năm khoảng 7,7% (giai đoạn 1991 1995) và 10% (giai đoạn 1996 - 2016). Nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng có vai trò
quan trọng hơn khai thác hải sản cả về sản lượng, chất lượng cũng như tính chủ động
trong sản xuất. Điều này tất yếu dẫn đến sự chuyển đổi về cơ cấu sản xuất - ưu tiên phát
triển các hoạt động kinh tế mũi nhọn, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Đối với hầu hết các nước ngành thuỷ sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế , đặc biệt
đối với các nước có vùng biển và vùng nước nội địa phong phú. Việt Nam là nước có
vùng biển rộng lớn hơn 3200 km bờ biển, có nhiều hồ và sông suối trong đất liền phát
triển ngành thuỷ sản có vị tri quan trọng trong nề kinh tế thể hiện ở những mặt sau :
Thứ nhất, ngành thuỷ sản cung cấp sản phẩm thực phẩm quý cho tiêu dùng của dân cư,
cung cấp nguyên liệu cho phát triển một số ngành khác. Việt Nam có nhiều tiềm năng để
phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp mọi miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và
nuôi nước ngọt. Đến năm 2016, đã sử dụng 612.778 ha nước mặn, lợ và 254.835 ha nước
ngọt để nuôi thuỷ sản. Trong đó, đối tượng nuôi chủ lực là tôm với diện tích 580.465 ha.
Thứ hai, ngành thuỷ sản góp phần quan trọng trong tăng trưởng của toàn ngành nônglâm- ngư nghiệp nói chung vì ngành thuỷ sản là ngành kinh tế có khả năng tạo ra nhiều
giá trin gia tăng phát triển ngành thuỷ sản sẽ kéo theo sự phát triển của ngành nông- lâm
– ngư nghiệp
Bảng 1 : Vị trí ngành thuỷ sản trong nền kinh tế với nông- lâm nghiệp- thuỷ sản
Năm
2014
2015
2016
2017
2005
Tổng sản phâm trong nước GDP( tỉ đồng)
Trong đó : Nông-lâm -thuỷ sản
292535
65618
313247
68352
336242
70827
362435
73917
392989
76905
+ Nông nghiệp
55613
57912
59761
62107
64033
+ Lâm nghiệp
2556
2568
2589
2610
2640
+ Thuỷ sản
7449
7872
8477
9200
10232
Tỉ trọng trong GDP (%)
Nông- lâm - thuỷ sản
100
22.43
100
21.82
100
21.06
100
20.39
100
19.56
+ Nông nghiệp
19.01
18.49
17.77
17.14
16.29
+ Lâm nghiệp
0.87
0.82
0.77
0.72
0.67
+ Thuỷ sản
2.55
2.51
2.52
2.52
2.60
100
84.75
100
84.73
100
84.38
100
84.02
100
83.26
+ Lâm nghiệp
3.9
3.76
3.66
3.53
3.43
+ Thuỷ sản
11.35
11.52
11.97
12.45
13.31
Cơ cấu giá trị nông- lâm - thuỷ sản
+ Nông nghiệp
Thứ ba, tham gia vào xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Đối với nước ta có tiềm năng
về nguồn vực và nguồn lợi thuỷ sản, phát triển thuỷ sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có
giá trị, tăng thu ngoai tệ cho đất nước
Thư tu, phát triển ngành thuỷ sản góp phần vào phát triển kinh tế xã hội đất nước
Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng mới được xác định
có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống thấm để xây dựng công
trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng các diện tích
trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản…Nuôi biển là một hướng mở
mới cho ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động ngoạn mục với các loài tôm hùm, cá giò,
cá mú, cá tráp, trai ngọc,… với các hình thức nuôi lồng, bè. Nuôi nước ngọt đang có
bước chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá lớn, điển hình là việc
phát triển nuôi cá tra, cá ba sa xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao; Nuôi đặc sản được
mở rộng; Sự xuất hiện hàng loạt các trang trại nuôi chuyên canh (hoặc canh tác tổng hợp
nhưng lấy nuôi trồng thuỷ sản làm hạt nhân) chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh,
quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh tế khác. Tỷ trọng
GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên tục tăng, từ 2,9% (năm 1995)
lên 3,4% (năm 2000) và đạt 3,93% vào năm 2016.
Từ cuối thập kỷ 80 đến năm 2000, ngành thuỷ sản đã có những bước tiến không ngừng.
Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội ngành Thuỷ sản
thời kỳ 1991 - 2000 đã được hoàn thành vượt mức:
CHỈ TIÊU
Tổng sảTổng sản lượng thuỷ sản
Đơn vị
tấn
Kế hoạch
1.600.000
Thực hiện
2.174.784
-
1.000.000
1.454.784
- Sản lư sản lượng nuôi trồng thuỷ sản
-
600.000
720.000
Kim ng Kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản
triệu USD
900 - 1.000
1.478,6
Thu hút Thu hút lao động thuỷ sản
nghìn người
3.000
3.400
Trtrong
khai sả
trong đó
lượng khai thác hải sản
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần chuyển từ sản xuất mang
nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hoá.
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU (triệu USD)
Công nghiệp - Xây
Năm
Toàn quốc
dựng - Dịch vụ
Nông - Lâm - Thuỷ sản
Tổng số
Riêng Thuỷ sản
1996
7.255,9
4.214,1
3.041,8
670,0
1997
9.185,0
5.952,0
3.233,0
776,5
1998
9.360,3
6.036,0
3.324,3
858,6
1999
11.540,0
8.627,8
2.912,2
976,1
2000
14.308,0
10.186,8
4.121,2
1.478,5
2014
Tốc độ tăng
15.100,0
10.090,4
5.009,6
1.816,4
13,0
14,9
9,5
14,6
trưởng
bình quân
Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản
Khai thác thuỷ sản là một chuyên ngành hẹp là ngành sản xuất các nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thuỷ sản và cung cấp thực phẩm tươi sống cho thị trường tiêu thụ. Nó
được coi la 1 ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế và nền
kinh tế của mỗi quôc gia. Công nghiệp khai thac thuỷ sản hoạt động trên các đại dương
và biển thuộc nhóm ngành khai thác tự nhiên. Hoạt động khai thác phụ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên của môi truờng sinh thai biển, phải thường xuyên đối mặt với nhiều rủi
ro hơn các ngành kinh tế khác.Hơn nữa sản phẩm sau khi khai thác thuộc loịa mau ương
chóng thối, sản lượng hao hụt nhanh dễ dàng dẫn đến thất thu, thua lỗ trong kinh doanh,
yêu cầu về dịch vụ hậu cần. đặc biệt khâu sơ chế và khâu bảo quản lạnh vận chuyển là rất
chặt chẽ và không thể thiếu
Ở Việt Nam khai thác thuỷ sản là chủ yếu ngành công nghiệp khai thác phát triển chậm
về cả trang bị cơ khí và công suất tàu thuyền. Tuy nhiên sản lượng khai thác vẫn giữ vai
trò quan trọng bảo đảm an ninh thực phẩm trong nước đáp ứng một phần nhu cầu xuất
khẩu và tạo điều kiện cho ngành để chế biến thuỷ sản phát triển lấy nguyên liệu từ khai
thác thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân.Có thể
nói ngành thuỷ sản có đóng góp không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia
Ngành khai thac thuỷ sản với sự phát triển nhanh chóng của mình đã tạo ra hàng loạt việc
làm và thu hút 1 lực lượng lao động đông đảo tham gia vào các công đoạn sản xuất làm
giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nươc.
2.1.2.2. Đặc điểm của ngành khai thác thuỷ sản :
Trước đây người ta coi ngành thuỷ sản thuộc ngành nông nghiệp. Tuy nhiên khai thác
thuỷ sản là ngành công nghiệp đặc thù vì nó có những đặc điểm sau:
Thời gian lao động và thời gian sản xuất khác nhau, điều này chứng tỏ ngành khai
thác thuỷ sản là bộ phận của ngành công nghiệp. Do đó tổ chức của nó mang đặc trưng
của tổ chức sản xuất công nghiệp
Đối tượng của nó là những sinh vật dưới nước, một tài nguyên sẵn có trong khi
nông nghiệp và công nghiệp có đối tượng lao động có kết tinh lao động của con người ở
các quá trình sản xuất trước.Vì thế khai thác thuỷ sản mang tính chất của công nghiệp
khai thác tài nguyên. Các tài nguyên này có khả năng tái sinh, nó phụ thuộc vào các hoạt
động của con người, nên khai thác phải gắn với bảo vệ nguồn lợi và sử dụng hợp lý
Ngành khai thác thuỷ sản bao gồm nhiều ngành nghề nó khác với khai thác
khoáng sản và lâm sản ở chỗ nó cung cấp nhu cầu tiêu dùng về thực phẩm của xã hội
Khả năng di động của đối tượng khai thác thuỷ sản làm cho nó không bị ràng
buộc bởi sự phân chia địa giới hành chính, cường độ lao động lớn điều kiện sóng gió
nguy hiểm phụ thuộc điều kiện tự nhiên, ngư trường, mùa vụ
Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên có nguồn lợi thuỷ sản
nhiệt đới, phong phú về chủng loại, nghề nghiệp khai thác đa dạng, có nghề cá truyền
thống nhưng quy mô nhỏ và đa số ngư dân là lực lượng sản xuất chủ yếu. Đặc điểm này
gây khó khăn cho việc nghiên cứu và phân tích để đưa ra chính sách phù hợp. Cần phải
dựa vào kinh tế tư nhân và tập thể, phát triển nghề cá nhân dân làm động lực
2.1.2.3. Vai trò của ngành đối với sự phát triển kinh tế:
*Vai trò của ngành thuỷ sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế
Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng quan hệ
thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm 1996, ngành thuỷ sản
mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm
2014, quan hệ này đã được mở rộng ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2016 là 75 nước
và vùng lãnh thổ.
Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ sản đã tạo dựng
được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật và các nước trong
khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2016, xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung
Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước và
vùng lãnh thổ.
Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã góp
phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
*Vai trò của ngành thuỷ sản trong an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm, xoá
đói giảm nghèo:
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân. Năm
2014, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người dân Việt Nam là 19,4 kg,
cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn (17,1 kg/người) và thịt gia cầm (3,9
kg/người). Cũng giống như một số nước châu Á khác, thu nhập tăng đã khiến người dân
có xu hướng chuyển sang tiêu dùng nhiều hơn mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói ngành thuỷ
sản có đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút
một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm
sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước.
Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu người (năm 1996) lên khoảng
3,8 triệu người năm 2014 (kể cả lao động thời vụ), như vậy, mỗi năm tăng thêm hơn 100
nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động thường xuyên của ngành thuỷ sản là
2,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của cả nước (2%/năm).
Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là ở
quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao động, tạo nên
nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Các hoạt động
phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm… chủ yếu do lao động nữ
thực hiện, đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt
là ở các vùng nông thôn, miền núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới
chiếm tỉ lệ lên đến 90%.
2.2 Thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản ở Quận Sơn Trà:
2.2.1. Số lượng tàu thuyền:
Bảng 2: Cơ cấu tàu thuyền theo công suất
Danh mục
ĐVT
2014
1. Tổng số tàu thuyền Quận Chiếc
1.416
2. Tổng tàu thuyền toàn
Chiếc
2.005
Thành Phố
- Tỷ lệ so tàu thuyền Thành
%
70,62
Phố
3. Tổng công suất toàn
CV
36.535
Quận
4. Tổng công suất toàn
CV
63.000
Thành Phố
5. Công suất bình quân của
CV/Chiếc 25,80
Quận
- Tỷ lệ so tổng công suất
toàn Thành Phương án
%
57,99
kinh doanhố
6. Tàu <33cv
Chiếc
943
- Tỷ lệ so tổng tàu thuyền
%
66,60
Quận
7. Tàu từ 33-90cv
Chiếc
447
- Tỷ lệ so với tổng tàu
31,56
thuyền Quận
8. Tàu >90cv khai thác xa
Chiếc
26
bờ
- Tỷ lệ so với tổng tàu
%
1,84
thuyền Quận
2015
1.422
2016
1.363
2017
1.407
2.013
2.017
2.029
70,64
67,58
69,34
37.600
37.064
38.444
66.300
70.650
75.550
26,44
27,19
27,32
56,71
52,46
50,89
943
907
989
66,32
66,54
70,29
446
422
383
31,36
30,97
27,22
33
34
35
2,32
2,49
2,49
Nguồn: Niên giám thống kê Quận 2017, niên giám thồng kê Thành Phố 2017
Từ khi có quyết định 393/TTg được ban hành, hoạt động khai thác thuỷ sản Quận đã có
bước chuyển biến tích cực theo hướng vươn khơi trên tàu công suất lớn, với số lượng tàu
thuyền khai thác vùng khơi tăng dần qua các năm
Nhìn chung, năng lực khai thác thuỷ sản Quận tuy chiếm tỷ trọng lớn về cả số lượng tàu
thuyền lẫn công suất so với toàn Thành Phố, nhưng đa phần là loại tàu có công suất nhỏ
dưới 33cv. Theo số liệu thống kê hằng năm, trong tổng tàu thuyền khai thác thuỷ sản toàn
quận giai đoạn 2014-2017, loại tàu nhỏ dưới 33cv chiếm thấp nhất 66,32% vào năm 2015
(943/1.422 chiếc) và cao nhất 70,30% vào năm 2017 (989/1.407 chiếc). Nó được thể hiện
rõ nét qua bình quân công suất tàu thuyền trên chiếc, mức bình quân này tuy tăng dần qua
các năm, cao nhất là 27,32cv/chiếc (năm 2017) nhưng vẫn ở mức thấp và không vững
chắc, bới số lượng tàu công suất nhỏ vẫn tăng trong khi tàu công suất lớn trên 33cv lại
không tăng mà có xu hướng giảm. Đây là vướng mắc lớn nhất ở Sơn Trà, bởi trong thời
gian tới, theo nghị định 86/2014/NĐ-CP ngày 16-11-2014 của chính phủ về điều kiện
kinh doanh các ngành nghề thuỷ sản buộc phải loại bỏ những loại tàu công suất <33cv
này.
Bên cạnh đó ta thấy rằng, qua những số liệu được phân tích ở biểu trên, tỷ lệ công suất
tàu thuyền của quận so với thành phố giảm dần qua các năm, điều này cho thấy mức tăng
công suất ở Quận giảm so với các địa phương khác trong thành phố. Nghĩa là trong khi
các địa phương khác phát triển tàu thuyền công suất lớn thì trên địa bàn Quận vẫn tiếp tục
phát triển tàu thuyền nhưng với loại công suất nhỏ hơn, đánh bắt vẫn chỉ diễn ra chủ yếu
ở vùng ven bờ, mà điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành đánh bắt thuỷ
sản thành phố, bởi hiện nay số lượng tàu thuyền quận Sơn Trà chiếm đa phần trong tổng
số tàu thành phố (1511/2050). Đây là nguy cơ tụt hậu về năng lực so với các địa phương
khác trong thành phố.
Tàu thuyền có công suất từ 33cv trở lên chiếm số lượng và tỷ trọng hạn chế trong tổng
tàu thuyền của quận, trong đó loại tàu có công suất từ 90cv trở lên khai thác xa bờ càng
hạn chế, tính đến đầu năm 2005 toàn quận có 35 chiếc tàu công suất lớn trên 90cv mà
hơn một nửa được đầu tư từ nguồn vốn vay ưu đãi theo quyết định số 393/TTg của Thủ
tướng Chính phủ và vốn vay khắc phục hậu quả bão lụt. Ngoài ra hầu hết tàu thuyền của
Sơn Trà đều trang bị động cơ đã quá niên hạ sử dụng, nhiều chiếc đã qua nhiều lần đại tu,
phụ tùng thay thế chắp vá, không đồng bộ nhưng vẫn đưa vào hoạt động sản xuất, trong
đó nhiều chiếc có thời gian sử dụng trên dưới 20 năm. Tàu thuyền công suất lớn được đầu
tư gần đây hầu hết đều sử dụng động cơ đã qua sử dụng, kể cả các tàu đánh bắt cá xa bờ
được đầu tư sau năm 1997, số tàu được trang bị máy thuỷ mới 100% của Quận đến nay
đã có thời gian sử dụng 6 năm, đó là 12 tàu đánh cá xa bờ được đầu tư trong năm 1999 từ
nguồn vốn vay 393/TTg và vốn vay khắc phục hậu quả bão lụt, được đưa vào hoạt động
từ năm 2000.
Bảng 3: Cơ cấu tàu thuyền theo địa phương (phường)
Danh mục
ĐVT
AHĐ
AHT
AHB
PM
Tổng số tàu
thuyền cơ
giới
NHĐ
MT
TQ
Chiếc
11
200
112
69
414
171
430
Tàu xa bờ
Tổng công
suất
Thùng máy
Chiếc
0
6
9
1
7
1
8
Cv
468
9422
4999
1099
9982
3160
9314
Chiếc
0
0
0
62
0
59
22
Công suất
Cv
0
0
0
736
0
689
186
<10 cv
Chiếc 0
0
0
0
113
2
32
Công suất
Cv
0
0
0
0
799
17
216
Từ 10 cv-32
Chiếc 0
7
33
2
221
109
327
cv
Công suất
Cv
0
146
797
24
5023
2289 6069
33-44 cv
Chiếc 4
59
33
1
23
0
28
Công suất
Cv
270
4692
1265
135
1882
0
367
60-90 cv
Chiếc 1
24
9
0
9
0
5
Công suất
Cv
60
1503
570
0
574
0
330
>90 cv
Chiếc 0
6
9
1
7
1
8
Công suất
Cv
0
1070
1225
165
932
165
1200
Nguồn: Điều tra thống kê quận 2005
Bên cạnh đó, rất nhiều tàu thuyền công suất dưới 33cv chưa qua đăng ký, đăng kiểm nên
công tác quản lý ngành gặp nhiều khó khăn, tính đến thời điểm tháng 11/2005 toàn quận
còn 437 chiếc thuyền tàu các loại chưa đăng kí, thêm vào đó nhiều ngư dân, nhất là ngư
dân tàu công suất nhỏ không chấp hành quy định về bảo hiểm bắt buộc đối với thân tàu,
vì vậy khi gặp thiên tai thường không đủ khả năng chịu đựng sóng gió và khi gặp rủi ro
không có điều kiện để khôi phục lại khả năng sản xuất.
Ngoại trừ trên các tàu đánh bắt cá xa bờ, trang bị và hoạt động khat thác thuỷ sản trên các
tàu cá còn mang tính thủ công, việc trang bị cơ giới còn hạn chế doanh nghiệp công suất
máy chính nhỏ, bố trí tàu thuyền chật hẹp, nên điều kiện và cường độ lao động của ngư
dân rất năng nhọc, an toàn lao động, an toàn hàng hải kém.
Tuỳ vào điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất mà sự phát triển thuỷ sản của từng
phường trong Quận khác nhau rõ rệt về cả số lượng cà công suất:
2.2.2. Cơ cấu nghề :
Từ thực trạng tàu thuyền đã nêu trên, dễ nhận thấy nghề khai thác thuỷ sản chỉ phù hợp
với đặc điểm của ngư trường vùng ven bờ và vùng lộng, với các nghề như Giả đôi (nhỏ),
Giả tôm (cào), Lưới cước các loại, Câu nhỏ, Te ruốc, Xúc ruốc, Giả ruốc, Lặn tôm hùm,
Mành điện…đây chính là nguyên nhân làm suy thoái môi trường biển, làm cạn kiệt
nguồn lợi vùng ven bờ. Các loại nghề này tập trung nhiều nhất ở khu vực bãi ngang như
các phường Thọ Quang, Mân Thái, Phước Mỹ, và một phần Nại Hiên Đông (cửa lạch).
Thực tế hằng năm gần đây cho thấy năng suất khai thác giảm dần trên mỗi phương tiện,
đăc biệt là nghề giã tôm. Trong khi vùng biển khơi còn nhiều tiềm năng nhưng chưa được
khai thác, mặc dù từ năm 1997 đến nay với chủ trương khai thác xa bờ của Nhà nước
tăng 4% từ năm 1999 đến 8,4 % năm 2005. Nhưng so với khả năng khai thác nguồn lợi
xa bờ thì còn quá nhỏ, điều đó cho thấy nghề khai thác hải sản của nước ta nói chung và
Quận Sơn Trà nói riêng trong kế hoạch phát triển phải kể đến đầu tư bố trí khai thác hợp
lý hơn giữa các vùng biển nhằm đạt hiệu quả cao nhất và bền vững.
Trong số tàu thuyền của Quận có đến 424 chiếc nằm trong phạm vi điều chỉnh của nghị
định 86 và các văn bản liên quan, chiếm 30,14% trong tổng số tàu thuyền toàn quận, các
tàu này hoạt động với các nghề như: Mành điện, Te, Xúc các loại, Giả nhỏ các loại, lưới
Rùng.
Bên cạnh đó, với tàu công suất lớn hơn, nhất là các tàu xa bờ công suất lớn trên
90cv, được trang bị nghề khai thác cơ giới hơn, cường độ lao động giảm đáng kể để phù
hợp với vùng khơi, xa bờ như: Cản khơi, Câu Mực khơi, Vây ngày, Giả đôi (khơi), Giả
cao tốc…Phạm vi hoạt động của các nghề này rộng hơn vì ngư trường vùng khơi còn
nhiều tiềm năng và cường độ khai thác còn quá thấp so trữ lượng nguồn lợi thuỷ sản. Tuy
nhiên việc đầu tư vào các nghề này thường đòi hỏi nguồn vốn lớn để đóng tàu và mua
sắm ngư cụ.
Bảng 4: Cơ cầu nghề khai thác theo địa phương
Phân theo nghề
số bị
TT
Tổng số
Mành
Phường
cấm
Giả các
Te,Xúc
T
(chiếc)
các
Rùng
(chiếc)
loại<22cv các loại
loại
11 Thọ Quang
430
276
12
192
60
6
22 Mân Thái
171
64
43
1
20
0
33 Nại Hiên Đông 414
67
5
61
1
0
44 An Hải Bắc
112
11
1
10
0
0
55 An Hải Tây
200
6
0
6
0
0
66 Phước Mỹ
69
0
0
0
0
0
77 An Hải Đông
11
0
0
0
0
0
Tổng cộng
1407
424
61
270
87
6
Nguồn: Điều tra thống kê 2017
Trước đây do khó khăn về nhiên liệu, hoạt động khai thác thuỷ sản Quận
chủ yếu tập trung ở vùng lộng và ven bờ, và nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao trong
sản xuất, tàu thuyền thường kiêm nghề để có thể khai thác quanh năm.
Khi điều kiện sản xuất thuận lợi hơn, một số nghề có xu hướng di chuyển ngư
trường khai thác sau khi kết thúc mùa vụ, như nghề Cản ra khai thác ở Vịnh Bắc Bộ,
nghề Giả Đôi ra khai thác ở Bắc Trung Bộ… từ đó tình hình kiêm nghề trên các tàu 22-45
cv giảm dần, dần trở về độc nghề.
Sau năm 1997, các tàu đánh cá xa bờ được đầu tư theo Quyết định 393/TTg có xu
hướng kiêm nghề trở lại nhằm khai thác tối ưu khả năng của con tàu, tăng hiệu quả sản
xuất. Nhưng thực tế sản xuất không đạt như mong muốn, nên dần dần việc kiêm nghề
không còn thực hiện nữa.
Hiện nay việc kiêm nghề sản xuất chỉ tập trung ở tàu công suất nhỏ khai thác ven bờ và
vùng lộng, việc kiêm nghề chủ yếu tận dụng điều kiện của thời tiết, ngư trường để khai
thác, vì vậy một tàu thường kèm theo từ hai đến ba nghề khác nhau.
2.2.3. Thực trạng lao động trong ngành khai thác thuỷ sản
Trong quá trình phát triển khai thác thuỷ sản, lực lượng lao động khai thác cũng
không ngừng phát triển theo cả về số lượng lẫn tay nghề.
Trước đây lao động khai thác thuỷ sản của Quận đủ đáp ứng số lượng cho số
lượng tàu địa bàn, nhưng chất lượng lao động chưa đuợc nâng cao, chủ yếu học hỏi theo
lối kèm cặp, học trong quá trình sản xuất, mặt khác các hộ ngư dân hầu như không có vốn
để tự đóng tàu thuyền riêng cho mình; trong những năm gần đây chất lượng lao động đã
được cải thiện nhưng lực lượng lao động khai thác thuỷ sản của Quận lại đang có xu
hướng giảm, dẫn đến tình trạng thiếu lao động, nhất là trên các tàu công suất lớn.
Số lượng lao động khai thác thuỷ sản và bình quân và bình quận lao động trên
một tàu trong năm 2017 đã giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua, trong khi số
lượng tàu thuyền lai tăng, điều này cho thấy lao động khai thác tại quận đang giảm xuống
và có khả năng ngày càng thiều. Và thực tế để đáp ứng yêu cầu lao động cho khai thác,
nhiều chủ tàu đã phải thuê lao động từ các địa phương khác (chủ yếu ở các địa phương
ven biển tỉnh Quảng Nam)
Bởi vậy cần phải quan tâm nhiều tới việc giải quyết về đời sống, kiến thức cho ngư
dân.
Bảng 5: Cơ cấu lao động ngành khai thác thuỷ sản theo địa phương
TT
01
02
03
04
05
06
07
Phường
Thọ
Qang
Mân
Thái
Nại Hiên
Đông
An Hải
Bắc
An Hải
Tây
An Hải
Đông
Phước
Mỹ
Tổng
cộng
BQ lao
động/tàu
ĐVT
2000
2014
2015
2016
2017
2005
Người
1120
1850
1.895
1.853
1.580
1649
Người
846
3961
4.001
3.420
661
668
Người
2517
1220
1.220
1.220
1.775
1946
Người
715
198
198
127
601
614
Người
920
928
948
766
876
919
Người
72
70
70
56
36
39
Người
272
658
658
655
129
133
Người
6462
8.885
8.990
8.100
5.658
5960
Ng/chiếc
5,38
6,27
6,32
5,49
4,02
3,92
Nguồn: Niên giám thống kê quận2017
Lực lượng lao động khai thác thuỷ sản tại Quận giảm nhiều trong các năm gần
đây, điều đó được thể hiện rõ qua biểu trên. Vậy nguyên nhân gì đã dẫn đến những điều
như vậy. Qua nghiên cứu cho thấy:
Trong quá trình chỉnh trang đô thị, điều kiện sống của ngư dân được nâng cao,
con cái của họ được học hành đầy đủ hơn trước, bởi thế chúng có rất nhiều cơ hội có thể
tìm được những việc làm ổn định hơn, đem lại thu nhập cao hơn, có chỗ đứng trong xã
hội hơn và đỡ vất vả hơn rất nhiều so với công việc lênh đênh trên biển để khai thác thuỷ
sản, chính điều đó đã làm cho lao động kiểu cha truyền con nối trước đây giảm mạnh,
gây nên tình trạng thiếu lao động trong những ngành đó. Theo điều tra thống kê, bình
quân lao động trên tàu giảm dần qua các năm từ 6,32 người/chiếc năm 2015 còn 4,02
người/chiếc năm 2017 và đến 2005 tỷ lệ đó chỉ còn là 3,92 người/ chiếc.
Lao động khai thác thuỷ sản vất vả, thu nhập bấp bênh, mặt khác do phụ thuộc
vào chất lượng tàu thuyền, công tác dự báo thời tiết và sự thay đổi bất ngờ của thiên
nhiên…những điều đó khiến cho công việc của họ gặp nhiều nguy hiểm, tính mạng luôn
bị đe doạ trước cơn giận giữ của sóng biển và bảo lũ. Hậu quả đó thật nặng nề: như cơn
bão Chanchu mới đây, một cơn bão hung ác đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng, làm
cho bao đứa trẻ phải mồ côi cha, mẹ mất con, vợ mất chồng, mất đi họ hàng ruột thit….
Nó đã nuốt chửng đi những sinh linh tội nghiệp, nuốt luôn cả những tài sản của gia đình,
khiến cho những gia đình phải sống trong cảnh đau khổ, đói kém, không biết đến bao giờ
mới có thể trở lại với cuộc sống bình thường. Thử hỏi nếu như có cơ hội việc làm trên bờ
một cách khá dễ dàng hơn đối với con em họ thì họ sẵn sàng cho con cái của họ theo con
đường mới, ròi bỏ những nguy hiểm đó để lên bờ.
2.2.4. Tình hình khai thác thuỷ sản :
Trong những năm qua khai thác thuỷ sản Quận đã có những bước phát triển rõ rệt, nhất là
từ năm 2000 trở lại đây. Thực trạng khai thác thuỷ sản Quận được thể hiện rõ qua các mặt
như:
2.2.4.1. Sản lượng khai thác:
Nhờ được sự quan tâm của các cấp ngành trong việc khai thác thuỷ sản, nhất là
bắt đầu quan tâm đến việc chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu ngành nghề, cơ chế
chính sách, chuyển đổi từ khai thác gần bờ sang khai thác các vùng cận khơi và vùng
khơi, cải hoán tàu thuyền tăng công suất,… nhờ vậy sản lượng khai thác của Quận đã có
những bước khởi sắc so với những năm sau khi thành lập, nhưng về giá trị tương đối thì
tỷ lệ sản lượng thuỷ sản của Quận đã ngày càng giảm dần và giảm mạnh so với sự gia
tăng sản lượng của thành phố Đà Nẵng .
Nhờ được sự quan tâm của cấp lãnh đạo, đầu tư thích đáng vào khai thác thuỷ sản nên
nhờ vậy sản lượng khai thác ngày càng có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Nhất là trong
5 năm giai đoạn 2014-2005:
Điều đó ta được thấy qua những số liệu sau:
Bảng 6a: Sản lượng khai thác toàn quận qua giai đoạn 1
Chỉ tiêu
ĐVT
1993
1994
1995
1996
1997
BQ 5
năm
Sản lượng
khai thác
Tấn
10.171
10.708
10.785
10.850
11.650
10.833
Tổng công
suất
CV
22.303
23.132
24.590
24.838
29.755
24.924
BQ sản
lượng/công
suất
Tấn/CV
0,46
0,46
0,44
0,44
0,40
0,44
Chỉ tiêu
ĐVT
2014
2015
2016
2017
2005
BQ 5
năm
Sản lượng
khai thác
Tấn
15.232
15.939
15.561
17.575
17.199
16.301
Tổng công
suất
CV
36.535
37.600
37.064
38.444
42.811
38.491
BQ sản
lượng/công
suất
Tấn/CV
0,42
0,42
0,42
0,46
0,40
0,42
Biểu đồ2
Nguồn: Điều tra thống kê quận 2005
Sản lượng khai thác
18000
Tấn
17000
16000
Sản lượng khai thác
15000
14000
2014
2015
2016
2017
2005
Năm
Ta nhận thấy rằng qua 12 năm từ năm 1993-2005 sản lượng khai thác, công suất đã tăng
lên rõ rệt, đó là nhờ sự cố gắng rất lớn trong ngành và của Quận.
Bảng 4: Sản lượng khai thác
Danh mục
ĐVT
Sản lượng
khai thác
Tấn
Quận
Sản lượng
khai thác
toàn thành Tấn
phố
Tỷ lệ so
với
sản
lượng khai %
thác toàn
TP
2000
2014
2015
2016
2017
2005
14.512
15.232
15.939
15.561
17.575
17.199
27.331
30.856
33.248
34.700
36.600
40.200
53,13
49,36
47,94
44,84
48,10
42,78
Nguồn: Niên giám thống kê Quận, Thành Phố 2017
Tốc độ tăng bình quân năm về sản lượng khai thác giai đoạn 2000-2017 là 4,90%, giá trị
tuyệt đối tăng dần qua các năm, điều này cho thấy rằng ngoài mở rộng ngư trường, ngư
dân đã hướng vào việc đầu tư vào khai thác các loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao hơn,
đáp ứng nhu cầu chế biến xuất khẩu. Mặc dù sản lượng khai thác của quận tăng lên qua
các năm nhưng vẫn không theo kịp tốc độ tăng trưởng của toàn thành phố. Tỷ lệ % có xu
hướng giảm dần nhất là trong các năm gần đây. Năm 2000 tỷ lệ phần trăm sản lượng khai
thác của toàn quận so với thành phố là 53,13%, đến năm 2005 tỷ lệ đó đã giảm xuống còn
42,78%.
Bởi vậy quận cần phải quan tâm hơn nữa về cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu nghề khai thác,
chất lượng lao động… để có thể theo đuổi kịp tốc độ tăng trưởng của thành phố .
Biểu đồ 3
Sản lượng khai thác
70000
Tấn
60000
50000
40000
Thành phố Đà Nẵng
30000
Quận Sơn Trà
20000
10000
0
2000
2014
2015
2016
2017
2005
Năm
.2.2.4.2.Giá trị sản lượng khai thác
Ngành khai thác thuỷ sản biển là một trong những thế mạnh của quận Sơn Trà. Từ khi
quận thành lập cho đến nay giá trị khai thác thuỷ sản đã góp một phần không nhỏ cho
GDP của quận. trong những năm qua, khai thác thuỷ sản đã có những bước phát triển khá
rõ rệt, nhất là từ năm 2000 trở lại đây.
Bảng 5: Giá trị sản lượng khai thác
Nguồn: Niên gián thống kê 2017, điều tra thống kê 2005
Năm 2000 giá trị khai thác thuỷ sản chỉ đạt được 105.018 triệu đồng, chiếm 45,46% so
với toàn thành phố (229069 triệu đồng ), đến năm 2014 tỷ lệ đã tăng lên
46,44%(257168 )và năm 2017 là 157.530 triệu đồng, tăng 50,01% so với năm 2000. Bình
quân tốc độ tăng trưởng đối với giá trị khai thác 5 năm (giai đoạn 2000-2017) là 10,67%.
Cho đến 2005 giá trị khai thác của quận là khoảng 159.438 triệu đồng, tăng khoảng 40 tỷ
đồng so với năm 2014, tỷ lệ so với của thành phố năm 2005 là 39,86%. Bình quân tốc độ
tăng trưởng 5 năm (2014-2005) là 7,18 %. Tốc độ tăng trưởng bình quân có sự suy giảm
do những năm gần đây sự phát triển vượt bậc của ngành CN-TTCN, mặt khác trong năm
2005 do có sự biến động về thời tiết nên ảnh hưởng không nhỏ đến khai thác thuỷ sản.
Qua những số liệu trên ta thấy rằng: có sự suy giảm về sản lượng năm 2005 so với
2017. Mặc dù theo đánh giá của Quận, con số này cho ta thấy ngư dân đã đầu tư vào khai
thác các loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao hơn, đáp ứng nhu cầu của chế biến xuất khẩu
nhưng đó là chưa tính đến việc tăng tỷ số giá tiêu dùng khá cao trong những năm qua.
Mặc dù vậy chúng ta có thể nói rằng khai thác thuỷ sản của Quận đã có một vai trò to lớn
trong sự phát triển kinh tế xã hội của Quận nói riêng và của thành phố Đà Nẵng nói
chung.
2.2.5. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần :
2.2.5.1. Hệ thống cảng cá, bến cá :
Để cho ngành khai thác thuỷ sản phát triển thì một việc rất quan trọng phải đi song hành
đó là việc phát triển các dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ cho ngành đó: sản xuất nước
đá, công nghệ sơ chế, đầu ra,…
Cảng biển: Quận Sơn Trà có hệ thống cảng biển rất thuận tiện cho việc neo đậu tàu
thuyền, đối với cả tàu đánh cá cũng như tàu vận chuyển khu vực và quốc tế: Cảng Tiên
Sa chiều dài bến 897m, gồm hai cầu nhô (4 bến): 732m dùng cho tàu hàng tổng hợp…,
cảng Mỹ Khê: ở vùng Nam Thọ, cảng Nại Hiên…
Cảng cá: Thành Phố có cảng cá Thuận Phước được đầu tư nâng cấp từ năm 1997
Bến cá: Thành Phố chỉ có một bến cá là bến cá Mân Quang, diện tích khoảng 2500 m 2,
hàng ngày tổ chức phân phối trên 100 tấn hải sản của tàu thuyền cá Thành Phố. Tuy nhiên
cơ sở hạ tầng bến cá chưa được đầu tư như: đường xá, nạo vết luồng lạch, xây dựng bãi
tiếp nhận phân phối…vì vậy khu vực bến chật hẹp, vệ sinh môi trường không đảm bảo.
Chợ cá: là trung tâm hoạt động phân phối sản phẩm khai thác của ngư dân cho các cơ sở
chế biến và tiêu dùng nội địa, trên địa bàn thành phố còn có hệ thống chợ tạp hoá gồm 99
chợ lớn nhỏ từ thành phố đến nông thôn miền núi, có hoạt động mua bán thuỷ sản tiêu
dùng.
2.2.5.2. Hệ thống thông tin liên lac :
Từ trước đến nay tàu thuyền của ngư dân Thành Phố, được neo đậu dọc hai bên sông hàn
và khu vực vịnh Mân Quang, vừa mất mỹ quan thành phố lại không an toàn khi có bão lũ
xảy ra. Cơn bão Chanchu là một ví dụ điển hình của tình trạng này. Để khắc phục tình
trạng trên và đáp ứng nhu cầu phát triển nghề cá của Quận nói riêng và của Thành Phố
nói chung, năm 2015 thành phố xúc tiến đầu tư xây dựng dự án khu trú bão neo đậu tàu
thuyền Thọ Quang, sức chứa 1500 tàu cá công suất từ 22-500 CV, dự án đã hoàn thành
cuối năm 2015 đã giải quyết vấn đề bức xúc về nơi trú bão và neo đậu tàu thuyền cũng
như phát triến nghề cá trong thơi gian đến.
2.2.6. Vốn đầu tư :
Để phát triển khai thác thuỷ sản vốn đầu tư là một điều vô cùng quan trọng nhưng thục tế
nguồn vốn đầu tư vào khai thác thuỷ sản quận trong thời gian qua còn gặp rất nhiều bất
cập. Mặc dù cố gắng thu hút mọi nguồn vốn nhưng vốn đầu tư vẫn còn khá thấp, chưa sử
dụng hiệu quả được nguồn vốn đã huy động.
Các nguồn vốn tự có của người dân chưa huy động được, đây cũng một phần do hệ thống
chính sách của quận trong việc thu hút vốn đầu tư và hệ thống ngân hàng.
Bảng12: Cơ cấu vốn đầu tư vào ngành thuỷ sản
ĐVT: Triệu đồng
Danh mục
2014
2015
2016
2017
2005
An
Đông
3.370
550
33.710
20.000
17.000
An Hải Tây
42.590
43.100
43.640
45.000
42.000
Phước Mỹ
1.870
2.430
2.850
1.500
900
An Hải Bắc
9.570
13.330
18.670
15.000
21.000
Nại
Đông
19.910
25.870
31.890
32.000
24.000
Mân Thái
2.880
3.980
4.720
3.700
2.000
Thọ Quang
36.680
38.130
40.070
42.000
47.000
Tổng
116.870
130.390
145.550
159.200
153.900
Hải
Hiên
Nguồn: Điều tra thống kê 2005
Khai thác thuỷ sản đựơc sự quan tâm của các cấp ngành, tổng vốn đầu tư vào ngành thuỷ
sản nói chung và khai thác thuỷ sản nói riêng ngày một tăng lên, từ 116.870 năm 2014 lên
đến 159.200 năm 2017, năm 2005 lượng vốn đầu tư có giảm xuống nhưng không đáng kể
đó là do xu hướng chung trong những năm gần đây đầu tư nhiều hơn vào các ngành CNTTCN và dịch vụ được quan tâm đầu tư rất nhiều, mặt khác khó khăn trong việc huy
động nguồn vốn tự có của người dân, thời tiết lại có nhiều biến động nên rủi ro khá cao,
không tạo được tâm lý vững chác trong lòng nhà đầu tư. Thêm vào đó là việc sử dụng
vốn đầu tư chưa thực sự hợp lý. Cần phải điều chỉnh lại cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành
sơ chế nhiều hơn, đầu tư vào các loại tàu thuyền có công suất cao hơn để đáp ứng mục
tiêu vươn xa bờ. Mặt khác việc huy động vốn đầu tư chưa đạt hiệu quả cao, nhất là nguồn
vốn tự có trong nhân dân, chính sách cho vay tín dụng còn nhiều bất cập: cho vay thế
chấp…
Trong 5 năm xu hướng đầu tư vào các vùng phát triển cao như Thọ Quang, An Hải Tây,
Nại Hiên Đông bởi những địa phương này có cơ sở vật chất, công nghệ khai thác nghề
cá, các các biển, chợ cá, các xí nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản…phát triển hơn các
địa phương khác trên địa bàn quận.
Cần phải chú trọng vào việc xây dựng cơ sở vật chất và các dịch vụ hậu cần để thu hút
thêm vốn đầu tư vào ngành khai thác thuỷ sản quận trong những năm tiếp theo.
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển ngành khai thac thuỷ sản theo hướng phát triển bền
vững :
Ngành thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam thu hút gần 9
triệu lao động và là ngành đứng thứ 3 về giá trị ngoại tệ xuất khẩu. Tiềm năng phát triẻn
ngành còn rất lớn nếu được quản lý và điều hành theo hướng phát trển bền vững. Phát
triển nuôi tròng thuỷ sản đã chứng tỏ là một hướng quan trọng và hữu hiệu đẻ xoá đói
giảm nghèo, tạo việc lam và tăng thu nhập. Song hiện tại viec phát triển ngành còn nhiều