Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Dẫn độ trong tương trợ tư pháp - Lý luận, thực tiễn, bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.53 KB, 17 trang )

A.

MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh hội nhập ngày nay, mặt trái của quá trình phát triển của các
quốc gia là sự gia tăng không ngững của tỷ lệ tội phạm cả về mà mức độ và tính
chất nguy hiểm. Để nhằm ngăn chặn, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm thì
hoạt động dẫn độ tội phạm luôn được các quốc gia coi trọng và thể hiện trong các
điều ước quốc tế song phương và đa phương với nhau và thậm chí dẫn độ tội phạm
còn được các quốc gia thể chế hóa trong quy định pháp luật của chính quốc gia
mình.
Sau đây là một số lý thuyết về dẫn độ, thực tiễn áp dụng cũng như các tồn tại
vướng mắc về hoạt động dẫn độ tội phạm tại các nước và điển hình là Việt Nam.

B.
I.

NỘI DUNG

Khái Niệm Và Đặc Điểm Dẫn Độ
1. Khái niệm
Dẫn độ là một hình thức tương trợ tư pháp đã có từ rất lâu trong lịch sử phát

triển của loàì người. Khái niệm dẫn độ được pháp luật nước ta quy định trong Luật
tương trợ tư pháp 2007 tại Khoản 1 Điều 32:”Dẫn độ là việc một nước chuyển giao
cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người đã bị kết án hình sự đang có
mặt trên quốc gia của mình để nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình
sự người đó”.
2. Đặc điểm
Một, dẫn độ là một hình thức tương trợ tư pháp giữa các quốc gia. Tuy
nhiên, dẫn độ không giống với tương trợ tư pháp hình sự, nó là một chế định độc


lập với tương trợ tư pháp về hình sự


Hai, dẫn độ là một hình thức hợp tác giữa các quốc gia trong việc giải quyết
các vấn đề tư pháp mà các bên cùng quan tâm: nước được yêu cầu bàn giao người
đã thực hiện tội phạm hoặc đã bị kết án bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật
cho nước yêu cầu. Chỉ khi có yêu cầu dẫn độ từ quốc gia khác thì sự kiện dẫn độ
mới phát sinh.
Ba, yêu cầu dẫn độ cần phải phù hợp với pháp luật của quốc gia. Quốc gia
có quyền yêu cầu dẫn độ là quốc gia mà người phạm tội mang quốc tịch quốc gia
đó, nơi mà tội phạm hoàn thành, nơi tội phạm đã xảy ra, quốc gia có quyền lợi bị
tội phạm xâm phạm. Quốc gia được yêu cầu dẫn độ sẽ căn cứ vào các điều ước
quốc tế liên quan pháp luật quốc gia và tình hình tội phạm trên thực tế,.. để xem
xét yêu cầu dẫn độ và quyết định có chấp nhận yêu cầu đó hay không.
Bốn, dẫn độ có 2 mục dích, đó là truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành
án đối với người phạm tội. Hai mục đích này đã được pháp luật quy định cụ thể tại
Khoản 2 Điều 32 Luật tương trợ tư pháp 2007, những hoạt động nhằm thực hiện
các mục đích này sẽ được quốc gia yêu cầu tiến hành khi đã tiếp nhận người phạm
tội từ quốc gia được yêu cầu dẫn độ.
Năm, các quốc gia yêu cầu và được yêu cầu dẫn độ cần phải tuân thủ các
nguyên tắc của pháp luật quốc tế nói chung và nguyên tắc dẫn độ nói riêng. Các
nguyên tắc của dẫn độ trong pháp luật quốc tế bao gồm: nguyên tắc có đi có lại,
nguyên tắc không dẫn độ công dân của nước mình, nguyên tắc không dẫn độ tội
phạm chính trị và nguyên tắc tội phạm kép.
II.

Nguyên tắc dẫn độ
1. Nguyên tắc có đi có lại :
Đây là nguyên tắc được sử dụng phổ biến khi giữa các bên không có điều


ước song phương hay đa phương về dẫn độ. Vấn đề có đi có lại là nhu cầu xuất


phát từ thực tiễn khách quan và sớm trở thành thông lệ được áp dụng rộng rãi trên
thế giới.
Nội dung của nguyên tắc được thể hiện : khi một quốc gia được yêu cầu dẫn
độ một người cho quốc gia khác thì quốc gia này sẽ chỉ đáp ứng yêu cầu dẫn độ khi
và chỉ khi quốc gia được yêu cầu có cơ sở chắc chắn rằng trong trường hợp tương
tự ở tương lai quốc gia yêu cầu dẫn độ sẽ đáp ứng yêu cầu của quốc gia này.
Đây là nguyên tắc được áp dụng rộng rãi sở dĩ nó thể hiện sự bình đẳng giữa các
quốc gia vì chỉ khi các quốc gia thật sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau thì nguyên
tắc có đi có lại mới phát huy được hiệu quả. Đây cũng là một nguyên tắc thể hiện
tính linh hoạt áp dụng trong dẫn độ tội phạm khi mà nó cho phép giữa các nước
không có quan hệ hay chưa kí với nhau một điều ước nào về dẫn độ có thể thực
hiện được các yêu cầu pháp lí mà không cần phải đi đến các thủ tục rườm rà, phức
tạp.
2. Nguyên tắc tội phạm kép.
Đây là một trong những nguyên tắc cốt lõi cũng như là nguyên tắc đặc thù
của hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia. Pháp luật các quốc gia, các điều ước quốc
tế song phương và đa phương liên quan đến nội dung dẫn độ đều ghi nhận nguyên
tắc này.
Nội dung của nguyên tắc được thể hiện : để yêu cầu dẫn độ được thực hiện
thì hành vi nguy hiểm cho xã hội phải cấu thành tội phạm ở quốc gia yêu cầu dẫn
độ và cả quốc gia mà người phạm tội chạy trốn đến. Hay nói cách khác, một người
chỉ có thể bị dẫn độ khi hành vi của người đó đều bị coi là tội phạm và cấu thành
tội phạm theo pháp luật hình sự của quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu.
Trên thực tế, giữa các nước luôn xảy ra sự xung đột danh pháp khi một hành vi
được coi là tội phạm ở quốc gia này nhưng được coi là vô tội ở quốc gia khác. Vì



vậy trên thực tiễn khi áp dụng nguyên tắc này, các quốc gia phải tiến hành xem xét
và cân nhắc kĩ lưỡng theo quan điểm pháp lí trong nước và thế giới.
3. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình.
Nội dung của nguyên tắc thể hiện:quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối
không thực hiện yêu cầu dẫn độ của quốc gia nước ngoài nếu cá nhân bị yêu cầu là
công dân nước mình. Đây là nguyên tắc hết sức hợp lí và phù hợp khi tôn trọng và
bảo vệ mối quan hệ thiêng liêng giữa công dân và nhà nước. sở dĩ, công dân chính
là con dân của một nước, có các nghĩa vụ và các quyền đối với quốc gia và đồng
thời quốc gia cũng phải tạo điều kiện tốt nhất để đảm bảo mọi lợi ích cho công dân
nước mình. Tuy nhiên, để tránh tình trạng bỏ sót tội phạm thì quốc gia đó cũng
phải thực hiện quy định : không dẫn độ thì phải truy tố.
4. Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị.
Cùng với nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình, nguyên tắc không
dẫn độ tội phạm chính trị là nguyên tắc được hầu hết các quốc gia ghi nhận và tôn
trọng. Nội dung của nguyên tắc thể hiện: khi có yêu cầu dẫn dộ, quốc gia được yêu
cầu sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để các định xem hành vi đó
có phải tội phạm chính trị hay không. Nếu không phải tội phạm chính trị thì có
quyền không thực hiện yêu cầu dẫn độ.
Đây là nguyên tắc mà các quốc gia khó có thể áp dụng trên thực tế bởi lẽ,
khái niệm tội phạm chính trị còn chưa được thống nhất trên toàn thế giới cũng như
có sự xung đột danh pháp giữa các quốc gia. Vì thế dễ dàng dẫn đến việc một quốc
gia coi một hành vi là tội phạm chính trị và yêu cầu quốc gia khác dẫn dộ xong
quốc gia đó lại từ chối vì cho rằng hành vi ấy không phải là tội phạm chính trị.
Tuy nhiên, nguyên tắc trên cũng có ngoại lệ. Trong trường hợp thủ phạm
giết hại nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, các lãnh đạo cấp cao của
quốc gia thì không được miễn trừ dẫn độ. Đây là quy định nhằm bảo đảm người


thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sự ổn định và
phát triển của một quốc gia thì phải chịu trừng phạt thích đáng từ quốc gia ấy.

III. Một số nội dung pháp luật về dẫn độ
1. Các trường hợp bị dẫn độ
Cá nhân khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã bị kết án bằng một bản án
có hiệu lực pháp luật và đã bỏ trốn sang quốc gia khác thì quốc gia nơi người này
phạm tội hoặc nơi mà người này bị kết án có quyền yêu cầu quốc gia mà người đó
bỏ trốn sang dẫn độ về nước để truy cứu TNHS hoặc thi hành bản án đã tuyên. Do
vậy người bị dẫn độ luôn phải là một cá nhân cụ thể, tuy nhiên không phải bất cứ
cá nhân cụ thể phạm tội nào cũng là đối tượng của dẫn độ. Thông thường người
phạm tội bị dẫn độ khi thỏa mãn các điều kiện được ghi nhận trong các điều ước
quốc tế song phương, điều ước quốc tế khu vực, điều ước quốc tế đa phương và
pháp luật quốc gia. Đối với pháp luật Việt Nam một cá nhân phạm tội bị dẫn độ khi
thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 33 Trường hợp bị dẫn độ ( Luật TTTP
2007) theo đó đã xác định ra ba căn cứ để dẫn độ:
Một là, người có thể bị dẫn độ theo quy định của Luật này là người có hành
vi phạm tội mà Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu
quy định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình
hoặc đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù
còn lại ít nhất sáu tháng. ( K1 Điều 33 LTTTP 2007 )
Theo đó chỉ có thể dẫn độ một người thực hiện hành vi phạm tội khi hình
phạt áp dụng đối với người đó thấp nhất là 1 năm hoặc đối với trường hợp đã bị xử
phạt tù thì thời hạn chấp hành hình phạt còn lại ít nhất 6 tháng. Thời gian còn lại ít
nhất 6 tháng nhằm mục đích đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, tạo điều kiện cho
phạm nhân có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng.


Hai là, hành vi phạm tội của người quy định tại khoản 1 Điều này không
nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, các yếu tố cấu
thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau theo quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật của nước yêu cầu.( K2 Điều 33 LTTTP 2007 )
Pháp luật của các quốc gia ngoài những điểm tương đồng nhau thì luôn có

những điểm khác biệt bởi lý luận về tội phạm, tư duy pháp luật khác nhau, hành vi
phạm tội mà cá nhân đó thực hiện có thể thuộc nhóm tội phạm của quốc gia này
nhưng lại thuộc nhóm tội phạm khác của quốc gia kia vì vậy luôn không tránh khỏi
nhưng điểm khác biệt trong hệ thống pháp luật. Việc quy định hành vi phạm tội
không nhất thiết phải cũng một nhóm tội, cùng tội danh và yếu tố cấu thành tội
phạm tạo điều kiện cho việc dẫn độ nhằm đảm bảo phát hiện và xử lý kịp thời.
Ba là, trường hợp hành vi phạm tội của người quy định tại khoản 1 Điều này
xảy ra ngoài lãnh thổ của nước yêu cầu thì việc dẫn độ người phạm tội có thể được
thực hiện nếu theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hành vi đó là hành vi
phạm tội. ( K3 Điều 33 LTTTP 2007 )
Đối với trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ nước
yêu cầu và hành vi đó đủ các điều kiện cấu thành tội phạm của nước yêu cầu và
người đó lại xuất hiện tại Việt Nam là nước thứ ba. Theo đó các cơ quan tiến hành
tố tụng Việt Nam xem xét quyết định dẫn độ khi xét thấy hành vi phạm tội này đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại BLHS Việt Nam.
Bên cạnh đó Điều 34 LTTTP 2007 cũng đã quy định về trường hợp không
truy cứu TNHS , dẫn độ cho nước thứ ba, theo đó :
“ Người bị dẫn độ về Việt Nam không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
dẫn độ cho nước thứ ba về hành vi mà người đó đã thực hiện ở nước ngoài trước
khi bị dẫn độ về Việt Nam nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ


luật hình sự Việt Nam và không được nêu trong yêu cầu dẫn độ của Việt Nam hoặc
của nước thứ ba.
Trường hợp Việt Nam là nước được yêu cầu dẫn độ thì việc dẫn độ chỉ được
thực hiện khi nước yêu cầu dẫn độ cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự
người bị dẫn độ về hành vi phạm tội khác ngoài hành vi phạm tội đã được nêu
trong yêu cầu dẫn độ, không dẫn độ người đó cho nước thứ ba, trừ trường hợp
được sự đồng ý bằng văn bản của Việt Nam.”
2. Các trường hợp từ chối dẫn độ.

Điều 35 Luật Tương trợ tư pháp 2007 quy định về các trường hợp từ chối
dẫn độ cho nước ngoài như sau:
Trường hợp thứ nhất, người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam.
Khoản 1 Điều 5 Luật Quốc tịch 2008 quy định: “Người có quốc tịch Việt Nam là
công dân Việt Nam” đồng thời tại khoản 2 Điều 17 Hiến pháp 2013 cũng quy định:
“Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.” Như
vậy trường hợp từ chối dẫn độ nếu người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam
phù hợp với nguyên tắc không dẫn độ công dân của nước mình, đảm bảo việc một
người không thể bị dẫn độ nếu có thể chứng minh được có quốc tịch Việt Nam và
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo hộ công dân
Việt Nam. Như vậy, đối với trường trường hợp này, nếu người bị yêu cầu dẫn độ có
thể chứng minh mình mình mang quốc tịch Việt Nam thì không thể bị dẫn độ bởi
cơ quan có thẩm quyền Việt Nam.
Thứ hai, theo quy định của pháp luật Việt Nam người bị yêu cầu dẫn độ
không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt do đã hết thời
hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác. Theo Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015, thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết


thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và được tính
từ ngày tội phạm được thực hiện. Người phạm tội cũng có thể không bị dẫn độ vì
những lý do hợp pháp khác, ví dụ như được miễn trách nhiệm hình sự khi có một
trong các căn cứ được quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015.
Thứ ba, người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Tòa
án của Việt Nam kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội
được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam. Như vậy, trường hợp bản án kết tội của Tòa án Việt
Nam đối với người phạm tội về tội phạm trong yêu cầu dẫn độ đã có hiệu lực pháp
luật thì người pham tội không thể bị dẫn độ. Quy định này thể hiện nguyên tắc
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (khoản 3 Điều 31 Hiến pháp 2013 và

Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015) đồng thời đảm bảo phán quyết của Tòa án
được tôn trọng và thi hành. Trường hợp vụ án bị đình chỉ theo quy định tại Điều
282 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì người bị yêu cầu dẫn độ cũng không thể bị
dẫn độ.
Thứ tư, người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam vì lý do
có khả năng bị truy bức ở nước yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc,
tôn giáo, giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị.
Về lý thuyết, hoạt động dẫn độ nhằm mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự và thi
hành bản án, đảm bảo mọi tội phạm đều phải bị trừng phạt tuy nhiên trên thực tiễn,
hoạt động dẫn độ bị lợi dụng để phục vụ cho các động cơ mục đích mang tính
chính trị của các nước do vậy quy định này được đặt ra nhằm bảo vệ quyền con
người, phù hợp với các điều ước quốc tế nói chung và bảo hộ công dân Việt Nam
nói riêng.


Thứ năm, trường hợp yêu cầu dẫn độ có liên quan đến nhiều tội danh và
mỗi tội danh đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật nước yêu cầu dẫn độ nhưng không đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều 33
của Luật này.
Bên cạnh những trường hợp trên, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
của Việt Nam có thể từ chối dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
Hành vi mà người bị yêu cầu dẫn độ không phải là tội phạm theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam;
Người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam
về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ.
IV.

Thực trạng


1. Đạt được
Thứ nhất, Đảng và nhà nước đã có những quan tâm, chú trọng xây dựng các
văn bản luật, nghị định, ký kết các hiệp ước song phương, hiệp ước quốc tế liên
quan đến hoạt động dẫn độ. Các cơ quan có thẩm quyền của nước ta đã phối hợp
chặt chẽ được với các cơ quan có thẩm quyền tương ứng về hoạt động dẫn độ của
nước khác, đối với các quốc gia có chung đường biên giới thì hoạt động này càng
được quan tâm chặt chẽ hơn nhằm thực hiện việc dẫn độ hợp pháp, nhanh chóng và
phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam, luật pháp nước bạn và pháp luật
quốc tế.
Hai là, cơ sở pháp lý cho hoạt động dẫn độ ngày càng được hoàn thiện, nâng
cao phù hợp tình hình hiện tại.


Ngày nay, không quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa cũng
như hội nhập quốc tế. Do đó mà tội phạm và các vi phạm pháp luật khác ngày càng
có xu hướng “quốc tế hóa”, số lượng yêu cầu dẫn độ giữa các quốc gia tăng cao,
tính chất các loại tội phạm ngày càng phức tạp, gây ra nhiều khó khăn, đòi hỏi các
quốc gia phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan trong hoạt động
dẫn độ. Một số điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số quốc
gia khác là: Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam – Hàn Quốc năm
2003( Hiệp định gồm 20 Điều, là hiệp định song phương chuyên biệt đầu tiên về
dẫn độ của nhà nước ta); Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết
ký ngày 10/12/1981, nội dung về hình sự và dẫn độ quy định tại Chương III
"Tương trợ tư pháp về hình sự dẫn độ", gồm 16 điều từ Điều 53 đến Điều 68. Hiệp
định này hiện nay Liên bang Nga đã kế thừa…Ngoài hiệp định chuyên biệt đầu
tiên về dẫn độ trên, hiện nay, hai hiệp định song phương mới nhất về dẫn độ tội
phạm đã được nước ta đàm phán kí kết là Ấn Độ (2013) và Hungari (2013).
Hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng đã được bổ sung và hoàn thiện nhằm
đáp ứng với tình hình trong nước cũng như quốc tế. Tại Chương 37, phần 8 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định riêng về dẫn độ và chuyển giao tài liệu, vật

chứng của vụ án. Đến năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật tương trợ tư pháp có
quy định về công tác dẫn độ trong hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm. Và trong
chương 36, phần 8 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đã bổ sung thêm một số quy
định về dẫn độ cũng như hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm. Những quy định
trên về dẫn độ có ý nghĩa hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia điều chỉnh các
hoạt động hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm, bao gồm cả hoạt động dẫn độ.
Ba là, tham gia các tổ chức quốc tế chuyên biệt trong công tác đấu tranh
phòng ngừa tội phạm


Việt Nam từ năm 1991 cũng đã gia nhập Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế
(Interpol), sau đó là Hiệp hội Cảnh sát các nước Ðông-Nam Á (Aseanpol) cùng
nhiều cơ quan và tổ chức khác, xây dựng và phát triển nhiều mối quan hệ hợp tác
quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, và thu được những kết quả tốt.
Trong những năm qua, qua kênh hợp tác Interpol, cảnh sát Việt Nam đã tiếp
nhận và xử lý hàng chục nghìn lượt thông tin liên quan đến tội phạm xuyên quốc
gia, bắt giữ và trao trả hàng chục đối tượng truy nã quốc tế cho cảnh sát nước ngoài
như Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Áo...
Những kết quả trên đã góp phần nâng cao vị thế của các cơ quan thực thi pháp
luật Việt Nam trong mắt cộng đồng quốc tế, cũng như củng cố, phát triển quan hệ
song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
2. Một số hạn chế và kiến nghị
a. Một số hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được nhờ sự quan tâm phát triển sâu rộng
hoạt động tương trợ tư pháp nói chung, hoạt động dẫn độ nói riêng của Đảng và
Nhà nước thì vẫn còn tồn tại rất nhiều những khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng lý thuyết vào thực tiễn trong hoạt động dẫn độ, có thể kể đến như sau:
Một là, khi nghiên cứu và xem xét quy định trong một số hiệp định TTTP về
nghĩa vụ dẫn độ tội phạm, có thể nhận thấy quy định này trong một số hiệp định

TTTP còn chưa thống nhất. Hầu hết các hiệp định TTTP đều quy định chỉ dẫn độ
để truy cứu TNHS đối với những đối tượng bị coi là tội phạm mà theo pháp luật
của cả hai quốc gia có thể bị áp dụng hình phạt ít nhất là một năm tù giam hoặc để
thi hành hình phạt đối với bản án đã tuyên từ một năm tù trở lên. Tuy nhiên, trong


một số hiệp định như Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Ba Lan, Việt Nam và Liên
Xô cũ, Việt Nam và Mông Cổ lại quy định hình phạt tối thiểu đã tuyên là từ 6
tháng. Điều này ở khía cạnh nào đó sẽ gây khó khăn cho các cơ quan chức năng
của Việt Nam khi thực hiện thủ tục hoạt động dẫn độ.
Hai là, hệ thống các văn bản hướng dẫn các bộ luật, luật về tương trợ tư
pháp của Việt Nam còn chưa đầy đủ, cụ thể dẫn đến việc thực hiện của các cơ quan
chức năng còn gặp lúng túng. Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đến
việc đẩy mạnh xây dựng, ký kết các văn bản hợp tác quốc tế phòng, chống tội
phạm nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; nhiều quốc gia chưa ký hiệp định
tượng trợ tư pháp hình sự với nước ta, dẫn đến tình trạng bị động, kéo dài, thậm chí
không giải quyết được việc dẫn độ.
Ba là, trong nhiều năm qua, việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về
hình sự theo các hiệp định tương trợ tư pháp mà nhà nước ta ký kết chưa đi vào
quy chuẩn. Việc thực hiện các hiệp định song phương đạt hiệu quả chưa cao; nhiều
khi quan hệ hợp tác chỉ đóng khung trên nguyên tắc “có đi có lại” mà không tuân
theo các quy định của văn bản đã ký kết. Bên cạnh đó, nhiều văn bản hợp tác đã ký
kết từ lâu nhưng không được tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm; cũng chậm được
sửa đổi, bổ sung nên vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc.
Bốn là, hạn chế về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ thực hiện. Đội
ngũ cán bộ làm công tác liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp nói chung và
hoạt động dẫn độ nói riêng còn mỏng và yếu nhiều mặt đặc biệt là về ngoại ngữ và
kiến thức pháp luật quốc tế.
Những hạn chế, vướng mắc trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nhưng tập trung chủ yếu là những nguyên nhân sau:



Một là, cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động dẫn độ chưa đầy đủ, thiếu tính
đồng bộ. Nhìn chung, còn thiếu các điều ước quốc tế song phương điều chỉnh quan
hệ tương trợ tư pháp nói chung cũng như hoạt động dẫn độ nói riêng. Luật TTTP
của Việt Nam được ban hành năm 2007, có hiệu lực từ ngày 01/7/2008 nhưng chưa
được hướng dẫn đầy đủ, dẫn đến việc triển khai áp dụng trên thực tế còn bất cập.
Hai là, hoạt động ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh
vực tương trợ tư pháp hình sự chưa đáp ứng so với nhu cầu thực tiễn. Nhà nước ta
chưa ký được nhiều các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp hình sự với
nước ngoài. Nhất là các nước mà tình hình tội phạm có yếu tố nước ngoài liên quan
đến Việt Nam diễn biến phức tạp như Đức, Mỹ, Ca-na-đa, Ôx-trây-lia… Do vậy,
chưa tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ hỗ trợ cho hoạt động dẫn độ.
Ba là, quan hệ phối hợp trong quá trình giải quyết và thực hiện các yêu cầu
dẫn độ đôi khi còn mang tính hình thức, chưa phát huy đầy đủ tinh thần và trách
nhiệm, giải quyết có trường hợp còn tùy tiện chưa chú ý đến nguyên tắc “có đi có
lại” và thông lệ quốc tế trong quan hệ phối hợp.
Bốn là, năng lực trình độ chuyên môn của điều tra viên, cán bộ trực tiếp
thực thi nhiệm vụ tương trợ tư pháp về hình sự nói chung cũng như thực hiện hoạt
động dẫn độ nói riêng của Cơ quan điều tra nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn. Đặc biệt là trình độ ngoại ngữ, kiến thức hiểu biết về pháp luật quốc tế,
về nội dung các hiệp định mà Nhà nước ta là thành viên cũng như kinh nghiệm
thực tiễn. Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả công tác, cũng như quá
trình hợp tác quốc tế về việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và tham gia các diễn
đàn, các hội nghị, hội thảo quốc tế, giữa lực lượng Cảnh sát các nước về tương trợ
tư pháp về hình sự.
b. Một số kiến nghị.


Để khắc phục những hạn chế nêu trên thì cần thiết phải có những giải pháp

thiết thực đến từ Nhà nước hay các cơ quan có thẩm quyền phụ trách việc thực
hiện hoạt động dẫn độ. Có thể kể đến một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý có liên quan đến vấn đề
dẫn độ. Như đã phân tích ở trên, hệ thống pháp luật về dẫn độ của chúng ta còn
nhiều khiếm khuyết, chưa rõ ràng, cụ thể, thiếu đồng bộ dẫn đến sự chồng chéo,
khó áp dụng, nhất là trong vấn đề về chức năng, thẩm quyền của các cơ quan thực
thi và về trình tụ, thủ tục tiến hành dẫn độ. Do đó, trước mắt, các cơ quan lập pháp
cần tập trung xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành các
quy định về dẫn độ quy định trình tự, thủ tục thực hiện; xác định rõ thẩm quyền,
trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện hoạt động dẫn độ.
Thềm vào đó, chúng ta có thể tham khảo những trình tự, thủ tục dẫn độ của
pháp luật của Anh và Hàn Quốc nhằm tạo cơ sở pháp lí, cũng như tạo điều kiện
thuận lợi và thống nhất cho việc thực hiện thủ tục dẫn độ theo các hiệp định TTTP
mà Việt Nam đã kí kết với một số quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, cần tích cực kí kết cũng như thực hiện các điều ước quốc tế song
phương và đa phương, nâng cao chất lượng khi thực hiện hoạt động dẫn độ giữa
Việt Nam và các quốc gia khác. Thực tiễn giải quyết hoạt động dẫn độ cho thấy,
việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế mới chỉ là bước đầu, tạo nền tảng cho
hoạt động dẫn độ. Mặc dù, Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế song
phương và đa phương có quy định về dẫn độ hoặc là các điều ước quốc tế chuyên
biệt về dẫn độ. Tuy nhiên cũng cần phải chú trọng đến hiệu quả thực hiện các điều
ước quốc tế đó. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia có sự tổ chức, phân công phù hợp
đối với từng giai đoạn, từ tuyên truyền đến phân công, tổ chức các cơ quan có thẩm


quyền tiến hành, đặc biệt có những văn bản thể hiện sự rõ ràng, cụ thể trong việc
phân bổ công việc cho các cơ quan có thẩm quyền. Trên thực tế, hiện nay Việt
Nam chưa có quy định rõ ràng thẩm quyền của các cơ quan trong việc áp dụng và
thực hiện điều ước quốc tế song phương và đa phương vì thế nhiều điều ước quốc

tế chưa thực sự phát huy được vai trò của mình.
Thứ ba, nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn của lực lượng thực hiện
hoạt động dẫn độ nhằm tiến hành một cách có hiệu quả. Nhân tố con người luôn
đóng vai trò quan trọng trong bất kì một lĩnh vực nào vì thế tăng cường công tác
đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác dẫn dộ có ý nghĩa to lớn
đối với việc nâng cao chất lượng của hoạt động dẫn độ.
Việc nâng cao trình độ chuyên môn cần được tiến hành từ công tác giáo dục,
đào tạo như xây dựng kế hoạch đào tạo, tổ chức các khóa đào tạo, phổ biến kiến
thức về quy trình thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm
nói chung cũng như quy trình dẫn độ cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Về
trình độ nghiệp vụ, cần chú trọng rèn luyện, nâng cao, bồi dưỡng trình độ ngoại
ngữ, trình độ tin học đặc biệt là sự hiểu biết vè pháp luật quốc tế nhằm tạo ra một
lực lương tiến hành công tác dẫn độ có trình độ nghiệp vụ cao đem lại hiệu quả cho
hoạt dộng này trên thực tế.
Bên cạnh đó. việc tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong đào tạo, huấn
luyện lực lượng công an thông qua các chương trình liên kết với các cơ sở đào tạo
của nước ngoài nhằm tiếp xúc và học tập các kinh nghiệm của lực lượng cảnh sát
các nước trong việc phối hợp trong công tác hợp tác quốc tế chống tội phạm nói
chung và hoạt động dẫn độ nói riệng cũng là một giải pháp cần được tích cực thực
hiện nhất là trong thời kì hội nhập về mọi mặt hiện nay, việc học hỏi, nâng cao
trình độ giữa các quốc gia không còn quá xa lạ.


C.

KẾT LUẬN

Hoạt động hợp tác dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia được coi như hoạt
động cực kì hiệu quả nhằm kìm hãm, trấn áp các loại tội phạm. Nhận thấy được
điều đó các quốc gia đã rất nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ

pháp lý cùng với các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Các
điều ước quốc tế song phương và đa phương giữa các quốc gia đã và đang là công
cụ hữu hiệu để giúp các quốc gia đấu tranh phòng chống tội phạm một cách tốt
nhất. Những hoạt động này sẽ góp phần vào sự đấu trnah chung của cộng đồng
quốc tế nhằm đảm bảo an ninh chung của các quốc gia và toàn thể nhân loại


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thuận (Chủ biên) (2007), Luật hình sự quốc tế, NXB Công an
Nhân dân, Hà Nội.
2. Nguyễn Giang Nam (2012), Hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn
độ trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng cảnh sát
nhân dân (sách chuyên khảo), NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
3. Trường đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an Nhân
dân, Hà Nội 2011.
4. Nguyễn Xuân Yêm (2000), “Dẫn độ tội phạm, tương trợ tư pháp về hình sự
và chuyển giao phạm nhân quốc tế trong phòng chống tội phạm” NXB
Chính trị quốc gia năm 2000
5. Trường Đại Học Kiểm Sát Hà Nội, Giáo trình Luật Tương Trợ Tư Pháo
6. Luật tương trợ tư pháp năm 2007 của Việt Nam
7.

“Dẫn độ tội phạm trong hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với một
số quốc gia trên thế giới” – ThS. Ngô Thanh Xuyên – Viện Khoa học pháp
lý, bộ tư pháp – Cổng thông tin Bộ Tư Pháp



×