NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Câu 1: Sự cần thiết phải tăng cường quản lý nhà nước về đất đai trong giai
đoạn hiện nay? Nêu nội dung quản lý nhà nước về đất đai? Liên hệ thực tế công tác
quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương?
*Sự cần thiết của QLNN về đất đai:
1/ Đất đai có tầm quan trọng đối với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội : Các yếu tố
cấu thành 1 quốc gia là: LÃNH THỔ, DÂN CƯ, THIẾT LẬP QLCT, QLNN (điều hành
XH, quan hệ đối ngoại): “Đất đai là mẹ, sức lao động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật
chất”
2/ Nhu cầu tăng trưởng kinh tế + gia tăng dân số =>Sức ép khai thác và sử dụng đất:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: HIỆN ĐẠI VỀ KINH TẾ, TIẾN BỘ VỀ XÃ HỘI, PHÁT
TRIỂN MÔI TRƯỜNG
+ Điều 54 của Hiến pháp 2013
“Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất
nước, được quản lý theo pháp luật”.
3/ Quản lý đất đai là một nội dung thuộc về trách nhiệm QLNN
+ Điều 4 của Luật Đất đai 2013
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật
này”.
4/ Thực tế trong quản lý và sử dụng đất đai hiện nay
- Giá đất: “Ở Hàn Quốc, giá nhà của thị trường này gấp 5-7 lần thu nhập của người
dân. Trong khi tại Việt Nam, giá nhà vừa túi tiền, chứ không nói nhà cao cấp, đã gấp 22-25
lần so với thu nhập trung bình của xã hội”.(Tại cuộc họp Ban Kinh tế Trung ương 10/2017)
- Giá đền bù
- Giao đất, đòi lại đất
- Tranh chấp đất đai
- Quản lý đất đai (chất lượng dự báo nhu cầu quỹ đất, quy hoạch đất lâm nghiệp,
thiếu cương quyết trong xử phạt vi phạm hành chính về đất đai…)
- Khiếu nại, tố cáo về đất đai: 70% nội dung KN của công dân là về đất đai.
@ Điều tra trong đề án phát triển thị trường bất động sản của Bộ xây dựng (2016):
- 96% công chức, viên chức chưa ổn định về nhà ở
- 34% muốn mua đất và xây nhà trả góp
_ 32% có nhu cầu được thuê nhà của Nhà nước.
* Khái niệm QLNN về đất đai: là hoạt động của cơ quan QLNN có thẩm quyền,
người có thẩm quyền trong việc sử dụng các phương pháp, các công cụ quản lý thích hợp
tác động đến hành vi, hoạt động của người sử dụng đất nhằm đạt mục tiêu sử dụng đất tiết
kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước và ở từng địa phương.
*NỘI DUNG QLNN VỀ ĐẤT ĐAI
1. Ban hành văn bản QPPL về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện văn bản
đó.
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ
hành chính.
3. Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ
quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây dựng giá đất.
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
6. Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
7. Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
8. Thống kê, kiểm kê đất đai.
9. Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
10. Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
11. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
12. Thanh tra, kiểm tra,
13. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai
14. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử
dụng đất đai.
15. Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
* Liên hệ thực tế công tác quản lý nhà nước về đất đai tại .............:
............. là một huyện nằm phía Nam của tỉnh Quảng Nam, được thành lập năm
1983 trên cơ sở tách huyện Tam Kỳ (cũ) thành huyện ............. và thị xã Tam Kỳ (nay là
Thành phố Tam Kỳ, tỉnh lị của Quảng Nam). Phía bắc giáp thành phố Tam Kỳ, phía nam
giáp huyện Bình Sơn và huyện Trà Bồngtỉnh Quảng Ngãi, phía tây giáp huyện Bắc Trà
My.
Từ khi chia tách đến nay, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt
hơn, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định, hệ thống chính trị được
củng cố, kiện toàn. Đó là nhờ cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân trong huyện
đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức;
Trong những năm qua công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn Huyện đã
đạt được một số kết quả nhất định. Công tác cải cách thủ tục hành chính luôn được quan
tâm, triển khai thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Nam, thực quy
trình và thời gian tiếp nhận, xử lý và giao trả hồ sơ thuộc lĩnh vực đất đai theo cơ chế một
cửa; công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các địa phương từng bước được quan
tâm, phù hợp với quy hoạch chung của huyện, góp phần hạn chế được tình trạng lấn chiếm,
tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng… Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật đất đai. Đã tập trung tổ chức tuyên truyền hiệu quả pháp luật về đất đai
bằng nhiều hình thức khác nhau, tạo điều kiện để đưa Luật Đất đai vào cuộc sống. Đã quan
tâm và kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình chuyển tiếp
thi hành Luật Đất đai, không để ách tắc gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân. Tích
cực và giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của người dân và doanh nghiệp
trong quá trình quản lý và sử dụng đất; đặc biệt, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc
trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án lớn, các công trình trọng
điểm; tập trung thực hiện Chỉ thị 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm kê đất
đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát
việc quản lý, sử dụng đất nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật đất đai của
các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất. Quan tâm và chú trọng cải cách hành
chính trong lĩnh vực đất đai. Đã tập trung quyết liệt để xây dựng và công bố bộ thủ tục hành
chính về đất đai theo hướng cải cách, đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm dễ hiểu, dễ
thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục
hành chính về đất đai. Việc thực hiện Dự án CSDL-QLĐĐ phục vụ công tác quản lý nhà
nước về đất đai phát huy hiệu quả. Tính đến cuối năm 2016, UBND Huyện đã cấp 1.704
giấy chứng nhận (trong đó 243 giấy cấp lần đầu); cấp và bàn giao cho công dân theo Dự án
CSDL-QLĐĐ 10.936/29.939 giấy, tỷ lệ 36,52%, (còn 9.002 Giáy chứng nhận chưa bàn
giao cho nhân dân); đất lâm nghiệp đã cấpđược 4.877,74 ha/7.4461,88 ha, tỷ lệ 65%.
Kết quả đạt được đã phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện tích cực của
UBND huyện, lãnh đạo địa phương và các ngành chuyên môn. Qua đó cho thấy, hiệu quả
quản lý Nhà nước về đất đai từng bước được tăng cường; chính sách, pháp luật về đất đai
ngày càng được quan tâm, công tác giao đất, các quyền của người sử dụng đất được mở
rộng và được Nhà nước bảo đảm.
2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế: Tuy nhiên, tiến độ, quy trình và kết quả cấp giấy vẫn còn nhiều bất cập, tồn
tại, hạn chế: công tác tuyên truyền chưa được quan tâm đúng mức, nhất là tuyên truyền
người dân ý thức tự giác kê khai, đăng ký đất; chưa đánh giá được tỷ lệ đất đã cấp và nhu
cầu đất cần cấp giấy; việc thực hiện thủ tục cấp giấy cho nhân dân so với nhu cầu, nhất là
đất trong các dự án khai thác quỹ đất, bố trí tái định cư còn chậm; việc cấp giấy sai vị trí
đất, cấp chồng vẫn còn; việc rà soát, sắp xếp, xác định ranh giới, mốc giới, giải quyết tranh
chấp, vi phạm pháp luật về đất đai chưa xử lý kịp thời, dứt điểm; sự phối hợp giữa các cấp,
các ngành chưa chặt chẽ, đồng bộ; hệ thống CSDL-QLĐĐ vận hành chưa khớp nối, có độ
sai lệch về diện tích, kích thước các cạnh so với bản đồ giải thửa đo đạc theo Nghị định
60/CP, Nghị định 64/CP của Chỉnh phủ trước đây nên tiến độ cấp giấy chậm; Luật đất đai,
hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật đật đai có nhiều thay đổi, điều chỉnh, bổ sung
dẫn đến khi áp dụng vào thực tiễn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
2.1. Về công tác xây dựng chính sách, pháp luật đất đai và triển khai thi hành Luật
Đất đai: Thực tiễn triển khai thi hành Luật cho thấy vẫn còn có một số nội dung pháp luật
về đất đai chưa có quy định điều chỉnh; một số nội dung mặc dù đã có quy định nhưng khó
khả thi vì chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn triển khai tại các địa phương.
2.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:Còn gặp khó khăn khi giải quyết đối
với trường hợp phát sinh các dự án, công trình chưa có trong kế hoạch sử dụng đất hàng
năm do chưa có quy định về việc điều chỉnh kế hoạch.
2.3. Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất: việc áp dụng thực hiện
quy định về điều kiện để được giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
theo quy định của Luật Đất đai còn lúng túng. Nguyên nhân là do vẫn còn thiếu các quy định
để xử lý chuyển tiếp giữa Luật cũ và Luật mới về các trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực hiện dự
án đầu tư; dự án triển khai tại các khu vực nhạy cảm về an ninh, quốc phòng.
2.4. Về công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Công tác bồi thường,
giải phóng mặt bằng vẫn còn kéo dài, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai của các công
trình, dự án; việc khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất vẫn còn xảy ra và khá phổ biến. Nguyên nhân của tình trạng này là do: 1)
Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa được các cấp chính quyền
quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề cho
người có đất nông nghiệp bị thu hồi; 2) Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các
ngành; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân dân hiểu rõ quy
định của pháp luật hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải quyết dứt điểm, làm cho
việc giải phóng mặt bằng bị kéo dài nhiều năm; 3) Năng lực của một bộ phận đội ngũ cán bộ
làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn hạn chế và thiếu chuyên nghiệp.
2.5. Về đăng ký, cấp giấy chứng nhận, xây dựng hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa
chính: Việc lồng ghép giữa đo vẽ bản đồ địa chính với đăng ký, cấp Giấy chứng nhận và
xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai còn hạn chế. Hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa
chính chưa được cập nhật, chỉnh lý biến động thường xuyên, kịp thời theo quy định.
Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc nêu trên là do:
- Kinh phí đầu tư của địa phương và hỗ trợ của Trung ương cho thực hiện đo đạc,
cấp giấy chứng nhận trong những năm qua còn hạn chế so với nhu cầu do nguồn thu từ đất
giảm mạnh trong những năm qua và ngân sách Trung ương gặp nhiều khó khăn;
- Việc đo đạc lập bản đồ địa chính còn chậm, nhiều địa phương chưa có bản đồ địa
chính nhất là khu vực đất nông nghiệp, nông thôn, các nông, lâm trường;
- Trong nhiều năm qua, sau khi cấp giấy chứng nhận đã triển khai thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới gắn với quy hoạch lại đồng ruộng, dồn điền đổi thửa, dẫn đến
thay đổi cơ bản so với các giấy chứng nhận đã cấp; do đó, phải thực hiện đo đạc, chỉnh lý lại
bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và cấp đổi giấy chứng nhận cho người dân trong những năm
tới để đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai và thực hiện các quyền của người sử dụng đất;
- Việc rà soát, sắp xếp, xác định ranh giới, mốc giới, giải quyết tranh chấp, vi phạm
pháp luật đất đai của các nông, lâm trường, ban quản lý rừng thực hiện còn chậm, kém hiệu
quả.
2.6. Về công tác thống kê, kiểm kê đất đai: Việc báo cáo và công bố kết quả thống kê
đất đai hàng năm và kết quả kiểm kê đất đai định kỳ còn chậm so với kế hoạch đề ra.
Nguyên nhân là do việc triển khai công tác này thường vào đúng thời điểm trước và sau tết
âm lịch nên triển khai chậm. Mặt khác, các địa phương lại phải thực hiện rà soát, điều chỉnh
diện tích đo đạc bản đồ địa chính chính quy tại các đơn vị cấp xã nên mất nhiều thời gian để
cập nhật, chỉnh lý biến động. Riêng với công tác kiểm kê đất đai lập bản đồ hiện trạng sử
dụng đất năm 2014, do yêu cầu chất lượng, nội dung thực hiện có sự thay đổi so với kỳ kiểm
kê trước đây, đòi hỏi năng lực, chuyên môn cao của các đơn vị tham gia thực hiện. Ngoài ra,
do chất lượng tài liệu, bản đồ ở một số địa phương để sử dụng cho công tác khoanh vẽ chưa
đảm bảo, số lượng còn thiếu; nhân lực thực hiện cho công tác này chưa đáp ứng được yêu
cầu về nội dung, phương pháp thực hiện Thông tư 28/2014/TT-BTNMT; kinh phí hỗ trợ cho
các địa phương thực hiện kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014
chậm phê duyệt nên đã làm chậm tiến độ thực hiện ở các địa phương.
2.7. Về công tác định giá đất: Việc triển khai công tác định giá đất cụ thể theo quy
định của Luật Đất đai năm 2013 còn chậm; thời gian thực hiện việc xác định giá đất cụ thể
trong một số trường hợp còn kéo dài, chưa đáp ứng kịp yêu cầu về tiến độ để tính thu tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất, tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; việc xác định giá khởi
điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất còn phức tạp. Việc
điều tra, khảo sát giá đất phổ biến trên thị trường để phục vụ cho công tác xác định giá đất
cụ thể còn gặp khó khăn do người cung cấp thông tin về giá đất (người chuyển nhượng
hoặc người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất) không ký vào Phiếu điều tra để xác
nhận thông tin về giá đất đã cung cấp.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do: Quy định của pháp luật về đất đai liên quan
đến việc áp dụng các phương pháp định giá để xác định giá đất cụ thể trong một số trường
hợp còn phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn của các địa phương như thiếu
thông tin giá đất thị trường, đội ngũ tư vấn định giá đất chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của
công tác định giá. Công tác chỉ đạo thực hiện chưa thực sự sát sao, quyết liệt.
2.8. Về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất: Công tác xây
dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra chưa sát với thực tế và yêu cầu quản lý nhà nước về đất
đai; các đoàn thanh tra, kiểm tra chậm triển khai theo kế hoạch đã được duyệt; việc ban hành
kết luận thanh tra một số đợt còn chậm; một số trường hợp thanh tra không đúng đối tượng.
Việc thanh tra hàng năm còn ít, mang tính bị động theo các vụ việc mà báo chí, dư luận phản
ánh; việc xử phạt vi phạm qua thanh tra còn rất ít. Hiệu quả thanh tra chưa cao do một số vụ
việc thanh tra không phát hiện được vi phạm; nhiều trường hợp phát hiện hành vi vi phạm
pháp luật nhưng việc thực hiện kết luận thanh tra còn chậm; tỷ lệ thu hồi tiền, thu hồi đất qua
thanh tra còn thấp; việc phát hiện hành vi tham nhũng qua hoạt động thanh tra chuyên ngành
đất đai còn hạn chế, chưa tương xứng với thực trạng vi phạm.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do: (1) việc thu thập thông tin, tài liệu có liên
quan phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chưa được đơn vị quan tâm thực hiện, dẫn đến
việc xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện chậm; (2) tổ chức thanh tra chuyên ngành
thiếu ổn định, lực lượng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra chuyên ngành còn quá
mỏng, nhiều công việc đột xuất phát sinh; (3) việc phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra
còn chưa phù hợp, chức năng thanh tra chuyên ngành còn chồng chéo với các đơn vị khác
(như trả lời đơn thư, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giải quyết khiếu nại, tố cáo); (4)
quy định về phạt tiền vi phạm mang tính hình thức khó thực hiện và kinh phí cấp phục vụ
cho các đoàn thanh tra, kiểm tra còn chưa kịp thời, khó khăn khi triển khai công tác tại địa
phương.
2.9. Việc kiện toàn tổ chức dịch vụ công và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh
vực đất đai: Chưa thật sát sao, quyết liệt trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực đất đai. Trong triển khai thực hiện các quyền của người sử dụng đất, vẫn còn
gặp khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc thực hiện quyền thế chấp của doanh nghiệp
thuê lại đất trong khu công nghiệp; một số thủ tục hành chính cần được tiếp tục rà soát,
hoàn thiện theo tinh thần của Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ để cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.
* Một số giải pháp:
- UBND Huyện cần chỉ đạo các ngành, địa phương tăng cường công tác chỉ đạo,
triển khai thực hiện cấp giấy chứng nhận cho công dân theo Chỉ thị 12/CT-UBND của
UBND tỉnh Quảng Nam; tập trung xử lý dứt điểm những tồn tại, hạn chế thuộc lĩnh vực
quản lý đất đai; tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn cho công dân về quyền và
nghĩa vụ kê khai, đăng ký đất; vận hành hiệu quả cơ chế một cửa; kiểm tra, rà soát, thống
kê lại những trường hợp chưa được cấp giấy, những trường hợp đã cấp giấy nhưng đến nay
phát hiện sai sót, biến động để có giải pháp xử lý phù hợp; tăng cường sự phối hợp giữa
các ngành liên quan với địa phương để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quản lý
đất đai, nhất là những địa phương có các dự án mới.
1. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Đất đai, cụ thể:
- Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính về đất đai, đặc biệt là thủ tục giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất, đăng ký đất
đai, cấp Giấy chứng nhận…bảo đảm đúng quy định của pháp luật, rút ngắn thời gian, thuận
lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục về đất đai.
- Khẩn trương triển khai xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện Luật
Đất đai theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 của Chính phủ; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công trách nhiệm cụ thể
đối với việc xây dựng và vận hành hệ thống theo dõi, đánh giá ở các cấp. Chỉ đạo việc
đánh giá hàng năm về tình hình thi hành Luật Đất đai, hiệu quả sử dụng đất và tác động
của chính sách đất đai đến kinh tế, xã hội và môi trường tại địa phương.
2. Tập trung nguồn lực, tăng cường chỉ đạo lập phương án hoàn chỉnh hồ sơ để cấp đổi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa; xử lý dứt điểm
những vướng mắc trong cấp quyền sở hữu tài sản trên đất cho các hộ gia đình, cá nhân;
giải quyết nhanh và dứt điểm những tồn tại đối với các hộ gia đình, cá nhân đề nghị cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hướng dẫn, đôn đốc, đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các tổ chức, các cơ sở tôn giáo, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
tài sản cho các doanh nghiệp, cá nhân.
3. Tổ chức triển khai kịp thời có hiệu quả Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/4/2016 “Về thực
hiện Nghị quyết số 112/2015/NQ-QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về tăng cường
quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các Công ty Lâm
nghiệp,Ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác sử dụng”.
4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành Luật Đất đai: Tổ chức
thanh tra và xử lý nghiêm đối với các dự án chậm tiến độ, chậm đưa đất vào sử dụng,
chuyển nhượng dự án, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép trên địa bàn; tăng cường xử
phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm đã phát hiện trong thanh tra, kiểm tra; chỉ đạo
việc rà soát, công khai danh sách các trường hợp đang có vi phạm pháp luật đất đai trên
trang thông tin điện tử của tỉnh và gửi về Bộ Tài nguyên và Môi trường; kiện toàn bộ phận
tiếp nhận thông tin phản ánh của tổ chức, cá nhân về vi phạm pháp luật đất đai trên địa bàn.
1.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai
Xây dựng quy định bổ sung một số nội dung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, giải quyết tranh chấp, xử lý vi hành chính trong lĩnh
vực đất đai để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về pháp luật trong tổ chức thi hành Luật.
1.2. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất
đai.
1.3. Đẩy mạnh việc kiện toàn Văn phòng đăng ký đất đai, Tổ chức phát triển quỹ đất
một cấp theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.
1.4. Tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất; tiếp
tục chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác kiểm tra việc thi hành Luật Đất đai.
1.5. Tập trung nguồn lực đầu xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai đa mục
tiêu để vừa đáp ứng được yêu cầu thông tin cho công tác quản lý, đồng thời phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; tạo điều kiện để thực hiện quản lý đất đai công khai, minh
bạch và thuận lợi trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính.
Câu 2: Trình bày khái niệm và vai trò tiếp công dân? Liên hệ hoạt động tiếp
công dân ở địa phương (đơn vị) đồng chí công tác?
* Khái niệm
Theo quy định của Hiển pháp năm 1992 sửa đổi năm 2013, Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đồng thởi, Hiển pháp cũng
quy định mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cả nhân có thẩm
quyền về những việc làm ừải pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Để đảm bảo thực
hiện các quyền hiến định đó việc tiếp công dân của cơ quan nhà nước và các cá nhân có
thẩm quyền là trách nhiệm bắt buộc trước người dân.
Theo quy định của khoản 1 Điều 2 Luật Tiếp công dấn (2013) có thể quan niệm: Tiếp
công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tiếp công dân đón tiếp để
lắng nghe,tiếp nhận khiếu nại, tổ cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng
dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tổ cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy
định của pháp luật.
* Vai trò tiếp công dân
Việc tiếp công dân giúp cơ quan nhà nước nắm được các thông tin, kiến nghị, phản
ánh, góp ý những vấn đề liên quan đến chủ trương, đường lối, của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, công tác quản lý của cơ quan đơn vị, qua đó, Nhà nước có các
biện pháp, chủ trương phù hợp để điều chỉnh bổ sung chủ trương, chính sách, hoàn thiện
pháp luật cũng như để khắc phục những bất cập hạn chế trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước.
Tiếp công dân là hoạt động nhằm hiện thực hóa quyền dân chủ của công dân, là sự
cụ thể hỏa quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thào luận các vấn đề
chung của Nhà nước và xã hội của công dân, phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân
dân ừong xây dựng và bảo vệ Tổ quổc. Đồng thời, đây cũng
là biểu hiện sinh động phản ảnh bản chất dân chủ của Nhà nước ta - Nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
Tiếp công dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được
Hiến pháp ghi nhận, thể hiện mối quan hệ hài hòa, dân chủ giữa Nhà nước và người dân
giúp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của,các cơ quan, đơn vị được tiến hành một cách kịp
thời và đúng pháp luật.
Tiếp công dân có vai trò quan trọng trong hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo, khắc phục những hạn chế bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tổ cáo
của mình, qua đó tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật nói chung, pháp luật
khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng, góp'phần giúp công dân hiểu biết thêm pháp luật
nỏi chung, quyền nghĩa vụ công dân nói riêng, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài, khiếu
kiện vượt cấp, V.V..
Qua việc tiếp công dân cũng phần nào người dân nhìn nhận đánhrgiá được trình độ
năng lực, thái độ, phẩm chất đạo đức của những người cán bộ, công chức trực tiếp với
mình qua đó có thông tin tin cậy để phản ảnh với cơ quan có thẩm quyền cũng như để đánh
giá, lựa chọn nhân sự thông qua các kỳ bầu cử.
Liên hệ hoạt động tiếp công dân ở địa phương
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tiếp công dân, Huyện ủy, UBND
huyện ............. đã chủ động xây dựng kế hoạch và nghiêm túc triển khai Luật Tiếp
công dân năm 2013; Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo”.
Tập trung chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tăng cường công tác tiếp công dân,
không để việc khiếu nại, tố cáo đông người xảy ra, tố cáo vượt cấp nhất là các vụ việc tồn
đọng, phức tạp, kéo dài.
Sau khi Luật Tiếp công dân có hiệu lực, UBND Huyện đã tổ chức quán triệt, tuyên truyền
Luật Tiếp công dân cho từng cán bộ, chủ chốt của huyện và cán bộ, công chức làm công
tác tiếp công dân trên địa bàn huyện. UBDN Huyện còn ban hành nhiều văn bản để tổ chức
triển khai Luật Tiếp công dân như: Quyết định số 11646/QĐ-UBND ngày 26/9/2014 của
UBND Huyện về việc thành lập Ban Tiếp công dân huyện; Chỉ thị 07/CT-UBND ngày
10/12/2015 của UBND huyện về tăng cường công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại
tố cáo...
Sau 03 năm thực hiện Luật tiếp công dân, toàn huyện đã tiếp nhận 3.390 lượt với 3.764
người, trong đó có 67 đoàn đông người. Nội dung công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị chủ
yếu tập trung ở lĩnh vực đất đai, chế độ chính sách người có công, an sinh xã hội và một số
lĩnh vực khác. Số đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND Huyện là 2.307 đơn, (trong
đó đơn khiếu nại 142 đơn, đơn tố cáo 12 đơn, kiến nghị, phản ánh, tranh chấp là 2.153
đơn), đơn không đủ điều kiện thụ lý là 765 đơn.
Nhìn chung, công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo trong thời gian
qua đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành
đoàn thể, nghiêm túc thực hiện, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên đại bàn huyện. Công tác tiếp công dân được thực hiện thường xuyên theo lịch, đúng nề
nếp; hướng dẫn công dân thực hiên đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của
Nhà nước. Công tác giải quyết khiếu nại thực hiện đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo qui
định; nhiều vụ khiếu nại được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, hạn chế đơn phát sinh
vượt cấp và không xẩy ra điểm nóng về khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác tiếp công dân còn tồn tại một số vướng mắc như: điều kiện
cơ sở vật chất ở một số xã còn hạn chế, trụ sở tiếp công dân kết hợp chung với phòng làm
việc của các ban, ngành; mối quan hệ giữa Ban tiếp dân với cơ quan thanh tra, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền chưa đầy đủ, một số nơi có biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm, thái
độ không đúng mực với người dân đến khiếu nại, tố cáo; việc áp dụng luật khi giải quyết
khiếu nại, tố cáo một số nơi còn lúng túng và chưa thống nhất./.
Trong những năm qua, nhất là từ sau khi Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2012, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung, giải quyết khiếu nại, tố
cáo tại huyện đã đạt được những kết quả nhất định.
Từ những số liệu báo cáo trên có thể khẳng định rằng, công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần khôi phục lại những quyền và lợi ích
chính đáng của công dân; kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự tại cơ sở, tạo lòng tin của người dân vào chính quyền và cơ
quan quản lý Nhà nước nơi mình đang sinh sống và lao động, động viên nhân dân tham gia
vào hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy mọi người hoàn thành tốt các nghĩa vụ đối với
Nhà nước và xã hội.
Từ năm 2011 đến tháng 6 năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã tiếp công dân đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh 890 lượt, trong đó Lãnh đạo tiếp141 lượt, Kiểm sát
viên tiếp 749 lượt.
Số lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo kiến nghị, phản ánh, có chiều hướng tăng dần theo
từng năm, số lượng khiếu kiện đông người giảm kể cả về số lượng và tính chất, mức độ
phức tạp, không có hành động quá khích. Qua công tác tiếp dân trong những năm qua cho
thấy, các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực Tư pháp việc khiếu nại, tố cáo của công dân tập
trung trong việc giải quyết các vụ án hình sự như: yêu cầu, khiếu nại các quyết định khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can ... , bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố; về dân sự yêu cầu giám
đốc thẩm các bản án, quyết định của Toà án xét xử về tranh chấp tài sản, tranh chấp đất
đai...
Nhìn chung, công tác tiếp công dân của Viện kiểm sát trong thời gian qua đã bố trí phòng
tiếp công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân đến khiếu nại, tố cáo; có Nội quy, lịch
tiếp công dân của Lãnh đạo Viện, tổ chức tốt việc tiếp công dân; đảm bảo tất cả các trường
hợp công dân đến gửi đơn đều được tiếp nhận theo đúng quy định. Viện kiểm sát nhân dân
hai cấp đều có hòm thư tố giác, tin báo về tội phạm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và bố trí cán bộ, Kiểm sát viên chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm làm công tác tiếp công dân.
Trong năm 2012, công tác tiếp công dân có nhiều quy định mới do một số văn bản pháp
luật được ban hành và có hiệu lực như: Luật thi hành án hình sự, Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật khiếu nại, Luật tố cáo và Luật tiếp công dân. Viện
kiểm sát hai cấp đã chủ động nghiên cứu các quy định mới, vì vậy công tác tiếp công dân
ngày càng có hiệu quả cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số Viện kiểm sát cấp huyện, phòng
nghiệp vụ chưa giải quyết kịp thời khiếu nại của công dân, chậm trả lời đơn; vẫn còn
những trường hợp đã có quyết định giải quyết cuối cùng nhưng công dân vẫn chưa đồng
tình với kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo đó nên phần nào đã gây bức xúc cho dân.
Hiện nay 100% Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đều đã bố trí phòng tiếp công dân đến
khiếu nại, tố cáo, bố trí ít nhất một cán bộ, hoặc Kiểm sát viên làm công tác khiếu tố, VKS
cấp huyện phần lớn số Kiểm sát viên làm công tác khiếu tố là kiêm nhiệm.
1.2. Tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo
Từ năm 2011 đến tháng 6 năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã tiếp nhận 2.037
đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh. Trong đó: Viện kiểm sát tỉnh tiếp nhận 1.108
đơn, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tiếp nhận 929 đơn.
Tình hình tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn của Viện kiểm sát hai cấp trong thời gian qua đã
thực hiện nghiêm túc Quy chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản khác liên
quan đến công tác khiếu tố; Phòng 7 Viện tỉnh đã kịp thời ban hành nhiều Thông báo rút
kinh nghiệm giúp cho Viện kiểm sát cấp huyện thực hiện đúng các quy định về công tác
phân loại xử lý đơn. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân hai cấp từng bước quan tâm đến
công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo; đơn thuộc thẩm quyền giải quyết
được thụ lý kịp thời, đơn không thuộc thẩm quyền thì chuyển hoặc hướng dẫn công dân
gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
1.3. Quản lý đơn khiếu nại, tố cáo
Trong công tác tiếp nhận đơn trong thời gian qua, hầu hết số đơn được tiếp nhận đều tập
trung vào Phòng 7 Viện tỉnh và bộ phận khiếu tố ở cấp huyện để thống nhất quản lý. Vì
vậy, Viện kiểm sát hai cấp đã quản lý chặt chẽ đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết và trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đã chuyển các đơn vị nghiệp vụ.
2. Một số khó khăn, vướng mắc
2.1. Đối với tiếp công dân
Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đều chưa có trụ sở tiếp công dân nằm riêng
biệt với trụ sở làm việc, do vậy trong quá trình tiếp công dân có những công dân bức xúc
làm ảnh hưởng trật tự chung của cơ quan. Một số Viện kiểm sát cấp huyện, Lãnh đạo chưa
thật sự quan tâm đến công tác tiếp dân nên dẫn đến việc tiếp công dân hiệu quả chưa cao.
Chất lượng công chức làm công tác tiếp công dân còn thiếu kinh nghiệm nên việc giải
thích, hướng dẫn công dân chưa được thỏa đáng; Viện kiểm sát cấp huyện còn bố trí cán bộ
mới được tuyển dụng vào ngành làm công tác tiếp công dân.
Sự phối hợp giữa đơn vị khiếu tố với các đơn vị nghiệp vụ chưa được chú trọng; công tác
kiểm tra của Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới trong công tác tiếp dân
chưa được thường xuyên kịp thời, chưa tổ chức tập huấn cho cán bộ cấp huyện làm công
tác khiếu tố; Viện kiểm sát cấp huyện trong những năm qua chưa quan tâm đến việc cử cán
bộ làm công tác khiếu tố đi bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm theo yêu cầu của Viện kiểm sát
tối cao.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại:
Trước hết là do vai trò lãnh đạo của cấp ủy, trách nhiệm của Lãnh đạo một số đơn vị chưa
cao, chưa coi trọng công tác tiếp dân là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng
nhằm phát huy dân chủ, giải quyết kịp thời các thắc mắc, khiếu kiện của công dân.
Chưa phối hợp chặt chẽ giữa tiếp công dân với chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo phát
sinh từ hoạt động nghiệp vụ của đơn vị mình; chưa phối hợp chặt chẽ giữa Viện kiểm sát
cấp trên với Viện kiểm sát cấp dưới.
Công tác tập huấn nghiệp vụ chưa được triển khai kịp thời, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ
khiếu tố chưa được Lãnh đạo cấp huyện quan tâm, cán bộ làm công tác khiếu tố còn thiếu
kinh nghiệm, thường xuyên bị thay đổi.
2.2. Tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo
Việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo còn thiếu chính xác dẫn đến thụ lý
giải quyết cả những đơn không đúng thẩm quyền hoặc có những trường hợp đơn thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình lại không thụ lý giải quyết.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại: là do sự bất cập của pháp luật, Quy chế nghiệp
vụ còn chồng chéo, chưa hướng dẫn cụ thể; một số cán bộ làm công tác khiếu tố chưa chủ
động cập nhật nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến công tác này..; chưa có
phần mềm quản lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh cho nên công tác cập nhật số
liệu, quản lý đơn khiếu nại, tố cáo còn gặp không ít khó khăn.
2.3. Công tác quản lý đơn khiếu nại, tố cáo
Trong những năm qua việc quản lý đơn khiếu nại, tố cáo tại Viện kiểm sát hai cấp tỉnh
Quảng Ngãi chưa được thực hiện nghiêm túc, vẫn còn tình trạng các đơn vị nghiệp vụ khi
nhận đơn không chuyển cho đơn vị khiếu tố để quản lý chung, việc gửi kết quả giải quyết
của các đơn vị nghiệp vụ cho đơn vị khiếu tố chưa đầy đủ, kịp thời; việc theo dõi tiến độ
giải quyết của các đơn vị khiếu tố đối với các đơn vị nghiệp vụ chưa thường xuyên.
Công tác quản lý đơn chưa được Viện kiểm sát nhân dân tối cao trang bị phần mềm máy vi
tính để cập nhập. Vì vậy, việc quản lý, theo dõi đơn như hiện nay chưa đảm bảo; hiệu quả
công tác quản lý đơn còn gặp nhiều hạn chế như không quản lý đơn số đơn trùng ...
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại: Về tổ chức hoạt động của Phòng khiếu tố còn
nằm trong Phòng TCCB, đến tháng 6/2014 mới được tách thành Phòng 7, nên công tác
quản lý về nghiệp vụ khiếu tố thiếu chặt chẽ, kịp thời; đối với Viện kiểm sát cấp huyện do
cán bộ, Kiểm sát viên hoạt động kiêm nhiệm và thường xuyên thay đổi vị trí công tác nên
công tác này chưa mang lại hiệu quả cao. VKSND 2 cấp chưa xây dựng Quy chế phối hợp
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo giữa các cơ quan tư pháp với Viện kiểm sát.
III/ MỘT SÔ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN;
TIẾP NHẬN, PHÂN LOẠI, XỬ LÝ VÀ QUẢN LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG THỜI GIAN TỚI
Để nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, tiếp nhận , phân loại, xử và quản lý đơn
khiếu nại tố cáo trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
1. Nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo trong công tác tiếp dân;
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ
Chính trị, Kế hoạch 09 của Ban cán sự đảng Viện kiểm sát tối cao và Kế hoạch 52 của Tỉnh
ủy Quảng Ngãi về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết
khiếu nại, tố cáo cho cán bộ công chức hai cấp kiểm sát.
Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân hai cấp với các cơ quan tư pháp
cùng cấp; quan hệ phối hợp này phải được duy trì thường xuyên ngay từ khâu tiếp nhận, xử
lý đơn, nếu có khó khăn vướng mắc các đơn vị cùng nhau tìm biện pháp giải quyết dứt
điểm, không để dây dưa kéo dài.
2. Đề nghị Viện kiểm sát tối cao đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác khiếu tố như: cấp
kinh phí để xây phòng tiếp công dân riêng biệt với trụ sở làm việc của đơn vị; trang bị cho
bộ phận tiếp công dân máy ghi âm, chụp hình, máy camera.
3. Phòng khiếu tố, bộ phận khiếu tố của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp là đơn vị đầu mối
để tiếp nhận, phân loại thụ lý đơn và theo dõi tiến độ giải quyết đơn của các đơn vị nghiệp
vụ.
4. Chú trọng việc bố trí, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, Kiểm sát viên, Chuyên
viên làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
5. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp phải tăng cường công tác đối thoại với người khiếu nại,
tố cáo để ban hành quyết định giải quyết một cách thấu tình, đạt lý và đúng pháp luật.
6. Viện kiểm sát tỉnh hàng năm cần mở lớp tập huấn hoặc hội thảo chuyên đề về nghiệp vụ
khiếu tố cho cán bộ, Kiểm sát viên cấp huyện làm công tác này.
Công tác tiếp công dân, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ thường
xuyên, hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Vì vậy, Viện kiểm sát
nhân dân hai cấp cần làm tốt công này nhằm góp phần giải quyết dứt điểm các vụ khiếu
nại, bức xúc, kéo dài bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố niềm tin của
công dân vào đường lối đổi mới của Đảng và hoạt động của ngành Kiểm sát nói chung
nhằm thực hiện tốt Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo./.
Câu 3: Phân tích nội dung quản lý nhà nước về kinh tế? Theo đồng chí Nhà
nước cần tập trung giải quyết những vấn đề gì để khắc phục những nhược điểm của
nền kinh tế thị trường?
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những
phương hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quả độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đàng ta luôn khẳng định vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế. Đảng ta khẳng
định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước bằng phương pháp và công cụ
quản lý phù hợp can thiệp vào nền kinh, tế nhằm định hướng phát triển kinh tế; tạo môi
trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế; trực tiếp dầu tư vào một số ngành, lĩnh vực then
chốt; khuyến khích, giúp đỡ các thành phần kinh tế phát triển; ngăn ngừa và khắc phục
những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường; điều tiết kinh tế, phân phối và phần phối lại
thu nhập quốc dân đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội; mở rộng hợp tác quốc tế.
Khái niệm
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu nhẩt định.
Qua khái niệm này, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của hoạt động quản lý
nhà nước về kinh tế như:
- Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước về kinh té là cơ quan nhà nước có thẳm
quyền. Theo nghĩa rộng, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế được thực hiện, bời ba cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Khách thể của hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế chính là các hoạt động của
nền kinh tế.
- Hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu
nhất định. Mục tiêu chung của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập
kinh tế quốc té thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện thẳng lợi mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mỗi hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế đều hướng
tới những mục tiêu nhất định vả đều góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu chung kể
trên.
Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
1. Xây dựng thể chế kinh tế
Hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện trước hét ở hoạt động xây
dựng thể chế kinh tế. Việc xây dựng thể chế kinh tế góp phần đảm bảo môi trường pháp lý
thuận lợi, bỉnh đẳng và minh bạch để các chủ thể kỉnh tế được thực hiện các quyền tự do
kinh doanh của minh.
Hệ thống pháp luật về kinh tế có thể chia thành hai nhóm:
Thứ nhất, nhỏm các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp, dành riêng cho các chủ
thể kinh tế, gồm các quy định về thành lập, đãng ký kỉnh doanh, đăng ký đầu tư và quản trị
doanh nghiệp; hợp đồng kỉnh tế; về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp; cạnh tranh,
kiểm soát độc quyền; giải quyết tranh chấp kinh tế, V.V..
Thứ hai, nhóm các văn bản pháp luật áp dụng chung cho mọi cá nhân, tổ chức mà
khi các chủ thể kinh tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan phải thực hiện. Các
văn bản pháp luật của nhóm này điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như những quy định có tính nguyên tắc, nền tảng về tài sản, quyền sở hữu tài sản, về
hợp đồng của Bộ luật Dân sự; pháp luật về thuế, phí, lệ phí; pháp luật về đất đai; pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính; pháp luật về kế toán, thống kê; về bảo vệ tài nguyên môi
trường, V.V..
2. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế quốc dân làm
cơ sở định hướng cho sự vận động của thị trường
Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kể hoạch, dự án phát triển kinh tế quốc dân có
vai trò định hướng cho sự vận động của thị trường, làm cơ sở cho các chủ thể kinh tế xây
dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp. Kết quả của việc xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội gồm:
- Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế;
- Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kỉnh tê theo nganh và theo lanh thổ;
- Kế hoạch kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn, hàng năm;
- Các dự án cụ thể về đầu tư kinh tế.
3. Tổ chức xây dựng hệ thống két cẩu hạ tầng cho hoạt động kinh tế
Việc tổ chức xây dựng hệ thống’kết cấu hạ tầng cho hoạt động kỉnh tế bao gồm các
nội dung:
- Tổ chức quy hoạch, thiết kế tổng thể, xây dựng các dự án phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng,
- Trực tiếp đầu tư xây dựng những công trình trọng điểm ừong hệ thống két cấu hạ
tầng kinh tế.
- Tổ chức đấu thầu xây dựng những cộng trình mà Nhà nước không cần hoặc không
có điều kiện đầu tư, tiếp nhận và quản lý khai thác sử dụng.
4. Giám sát, kiểm tra mọi hoạt động kinh tế thị trường
Công tác giảm sát, kiểm tra mọi hoạt động kinh tế thị trường được thực hiện ữên các
mặt sau:
- Giảm sát, kiểm ứa việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp
luật của Nhà nước về kinh tế.
- Giám sát, kiểm fra việc thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước trong quả
trình' quản lý nhà nước về kinh tế.
- Giám sát, kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các đơn vị kinh tế.
- Giám sát, kiểm tra việc sử dụng các nguồn lực quốc gia.
- Giám sát, kiểm tra việc xử lý chất thải và bảo vệ môi trường của các đơn vị kinh tế.
5. Thực hiện các quyền lợi của Nhà nước về kinh tế
Quyền lợi của Nhà nước về kinh tế gồm sự toàn vẹn giá trị tài sản công và các khoản
thu của ngân sách nhà nước từ các hoạt động kinh té.
Các quyền lợi của Nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua:
- Việc tổ chức bảo vệ tài sản công, chống mọi nguy cơ tổn thất như thiên tai, địch
họa, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, V.V..
- Định ra cấc khoản thu cho ngân sách nhà nước, tổ chức thu đủ, kịp thời các khoản
thu theo luật định gồm thu thuế, phí, lệ phí, các khoản lợi ích khác, V.V..
6. Bảo đảm tinh bền vững và tích cực của các cân đổi kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác
động tiêu cực của cơ chể thị trường
Bảo đàm các cân đối kinh tế vĩ mô là một chức năng quan trọng của Nhà nước trong
vai trò quản lý nền kinh tế thị trường. Các loại cân đối kinh tế vĩ mô quan trọng nhất là:
cân đổi trong hệ thống tài khoản quốc gia; cân đối ngân sách; cân đối tiền tệ; cân đối cán
cân thanh toán quốc tế. Nhà nước bằng các công cụ điều tiết của minh cần đảm bảo tính ổn
định vững chắc kinh tế vĩ mô, đảm bảo tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô, tạo ra
xu hướng phát triển tích cực, hạn chế rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường để
khuyến khích kinh tế phát triển.
* Theo tôi, để khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế thị trường? Nhà nước
cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Do đó:
Câu 4: Trình bày nội dung và ý nghĩa của công tác đánh giá cán bộ, công chức?
Liên hệ thực tế công tác đánh giá cán bộ, công chức ở địa phương (đơn vị) đồng chí
công tác?
a. Nội dung của công tác đánh giá cán bộ, công chức (CBCC):
Đánh giá là một khâu quan trọng, căn bản trong quá trình quản lý và sử dụng CBCC,
được tiến hành thường xuyên hàng năm hoặc trước khi xem xét đề bạt, chuyển công tác,
làm cơ sở cho các quyết định quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng, tuyển chọn, đề bạt, lương,
thưởng đối với CBCC. Đánh giá đúng, chính xác kết quả làm việc của CBCC là căn cứ để
lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử dụng đúng với năng lực, sở trường, từ đó chủ động
trong việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và bổ nhiệm. Đồng thời, hoạt động đánh giá sẽ
cung cấp thông tin phản hồi để CBCC biết rõ về năng lực và việc thực hiện công việc của
họ hiện tại đang ở mức độ nào, giúp họ phấn đấu tự hoàn thiện bản thân và hoàn thành tốt
các nhiệm vụ được giao.
Đánh giá CBCC phải dựa trên mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thể
hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí, thời gian;
tinh thần trách nhiệm trong hoạt động công vụ. Đánh giá theo hiệu quả công tác căn cứ
theo tiêu chí của ngành, địa phương, đơn vị; căn cứ vào sự tín nhiệm của tập thể và người
đứng đầu cơ quan đối với CBCC (lấy hiệu quả công việc làm thước đo). Cần áp dụng các
phương pháp đánh giá CBCC tiên tiến; đổi mới quy trình đánh giá CBCC, đảm bảo dân
chủ, công bằng, công khai, chính xác và trách nhiệm đối với việc đánh giá CBCC.
*. Các nội dung đánh giá CBCC:
Các nội dung đánh giá chủ yếu bao gồm: Chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong
và lề lối làm việc; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác;
năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; tinh thần
trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; thái độ phục vụ nhân dân.
Đối với công chức lãnh đạo, quản lý, ngoài các nội dung nêu trên còn được đánh giá
theo các nội dung như: Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo,
quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết CBCC.
b. Ý nghĩa của công tác đánh giá cán bộ, công chức (CBCC)
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”;
“Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Công tác cán bộ gồm nhiều khâu như: Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo,
bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ. Trong đó đánh giá là khâu có ý nghĩa quan trọng và là
cơ sở của các khâu khác. Thực tế cho thấy, chỉ có đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của
cán bộ, mới làm cơ sở cho việc tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,
bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật... cán bộ được khách quan, chính xác;
ngược lại, nếu đánh giá không đúng phẩm chất, năng lực cán bộ, sẽ dẫn đến bố trí, sử dụng
không đúng và dẫn đến hậu quả khôn lường, nhất là bố trí sai đối với cán bộ chủ chốt,
người đứng đầu.
Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) cũng chỉ rõ: Phải rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy
định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên; khắc phục những bất hợp lý
trong công tác cán bộ, như: Phân công, phân cấp, thẩm quyền quản lý, quy trình bổ nhiệm,
nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tổng thể, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống
chính trị. Hằng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển, điều động công tác đối với cán
bộ, tiêu chí quan trọng để đánh giá cán bộ, đảng viên là: Kết quả thực hiện nhiệm vụ được
giao; kết quả thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; tự phê bình
và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu tranh, khắc phục suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Công tác đánh giá cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng nên trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này. Nhờ đó, Đảng đã
lựa chọn xây dựng được đội ngũ cán bộ phần lớn có đủ đức, đủ tài để gánh vác và hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang của dân tộc. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017
một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì công tác đánh giá cán bộ, công chức lại càng có ý nghĩa
quan trọng hơn.
c. Liên hệ thực tế: Bản thân hiện đang làm việc tại huyện ............., xin được chia sẽ thực
tế:
............. là huyện nằm phía Nam của tỉnh Quảng Nam, được thành lập năm 1983
trên cơ sở tách huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện ..............
Từ khi chia tách đến nay, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt
hơn, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định, hệ thống chính trị được
củng cố, kiện toàn. Đó là nhờ cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân trong huyện
đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức; Cùng với
đó, những năm gần đây, việc đánh giá cán bộ, công chức dần đi vào công tâm, khách quan,
đúng người đúng việc, lãnh đạo huyện đã sáng suốt chọn người tài thật sự để gánh vác
trách nhiệm lớn lao mà Đảng, Nhà nước và nhân dân huyện giao phó thông qua việc đánh
giá cán bộ công chức thường xuyên và đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội của huyện nhà.
Những năm qua, chất lượng đội ngũ cán bộ - công chức huyện ............. được nâng
lên đáng kể, tổ chức bộ máy được kiện toàn, cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác của một
huyện nằm trong vùng trọng điểm Khu kinh tế mở Chu Lai...
Trước đó, giai đoạn 2011-2015. Công tác đánh giá cán bộ ngày càng đi vào nền nếp,
đúng quy định và có chất lượng hơn; công tác quy hoạch cán bộ thực hiện đảm bảo nguyên
tắc, thẩm quyền, nội dung, đối tượng và quy trình tiến hành quy hoạch; công tác đào tào,
bồi dưỡng cán bộ được quan tâm; việc tuyển dụng cán bộ, công chức được thực hiện đảm
bảo nguyên tắc, yêu cầu, công khai, dân chủ và khách quan. Huyện ủy ............. thực hiện
tốt công tác luân chuyển cán bộ về số lượng và chất lượng...
Hiện tại, ............. có 380 cán bộ - công chức cấp xã, thị trấn, trong đó trình độ đại
học có 210 người, tỉ lệ 55,79%. Đối với cấp huyện, có 37 cán bộ là cấp Trưởng phòng và
tương đương, trong đó 35 người có trình độ chuyên môn đại học trở lên, tỉ lệ 94,59%; 33
người có trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân, tỉ lệ 89,19%.
Chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ từ huyện đến xã nâng lên đáng kể, nhất là sự
vận hành cơ chế của hệ thống chính trị, chủ động, linh hoạt giải quyết những vấn đề phức
tạp, nhạy cảm phát sinh ở cơ sở; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở huyện cơ bản đạt
chuẩn theo quy định, từng bước được trẻ hóa, trình độ, năng lực có bước phát triển tốt, chất
lượng cấp ủy các cấp được nâng lên.
Bên cạnh ưu điểm, công tác cán bộ của huyện ............. những năm qua vẫn còn
những hạn chế. Theo đánh giá của Huyện ủy ............., một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa
phương nhận xét, đánh giá cán bộ còn mang tính hình thức, chưa gắn với kiểm điểm, tự
phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); Công tác quy hoạch cán bộ
có nơi quán triệt chưa sâu sắc; chưa thực hiện tốt việc tuyển dụng, thu hút người có năng
lực, sinh viên có trình độ đại học loại giỏi, sau đại học; việc đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu
ứng cử cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số còn hạn chế...
Với tinh thần phát huy ưu điểm, khắc phục tồn tại, Huyện ủy ............. đã triển khai
đề án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2016-2020
và những năm tiếp theo với mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gắn liền với kiện
toàn tổ chức bộ máy; tinh giảm biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
và cải cách hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự có tâm, có tầm gắn với thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị 05/CT-TW của Bộ Chính trị.
Mục tiêu cụ thể mà Huyện ủy đề ra đến năm 2020 đối với cấp xã, thị trấn là 100%
các đồng chí Cấp ủy, các chức danh chủ chốt, cán bộ - công chức đạt trình độ đại học
chuyên môn và trung cấp lý luận chính trị trở lên. Riêng các xã miền núi Tam Trà, Tam
Sơn, Tam Thạnh là 80% có trình độ đại học chuyên môn. Đối với cấp huyện, 100% các
đồng chí Cấp ủy có trình độ đại học chuyên môn và cao cấp chính trị trở lên. 100%
Trưởng, Phó phòng và tương đương đạt trình độ đại học chuyên môn trở lên (nếu sinh sau
năm 1975 phải đạt trình độ đại học chuyên môn hệ chính quy) và đảm bảo trình độ lý luận
chính trị theo quy định của Tỉnh ủy.
Để đạt mục tiêu đề ra trong đề án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kiện toàn tổ
chức bộ máy giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo, Huyện ủy ............. đề ra nhiều
nhiệm vụ và giải pháp, trong đó có việc tạo sự chuyển biến trong nhận thức, hành động đối
với cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên về công tác cán bộ, đổi mới công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho cán bộ, công chức, đảng viên, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
nhận xét, đánh giá cán bộ; quy định rõ về trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó của
người đứng đầu, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, đề bạt,
bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, luân chuyển cán bộ. Huyện ủy ............. cũng xây dựng cơ chế
chính sách cho cán bộ nhằm thực hiện tốt công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
kiện toàn tổ chức bộ máy, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một địa phương vùng trọng điểm
Khu kinh tế mở Chu Lai và vùng động lực kinh tế phía Đông tỉnh Quảng Nam
1. Nguyên nhân và những hạn chế trong công tác đánh giá cán bộ
Thứ nhất, về nguyên nhân khách quan: Nước ta từ một nền nông nghiệp lạc hậu với chế độ
phong kiến tồn tại hàng nghìn năm đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy dấu ấn của nền sản xuất
nhỏ còn hiện diện, ảnh hưởng đến tầm nhìn, phong cách tư duy của cán bộ, đảng viên, làm
nảy sinh tư tưởng tùy tiện, kém ý thức tổ chức kỷ luật, nhất là sa vào chủ nghĩa cá nhân ở
một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sinh trưởng trong xã hội cũ,
chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư
tưởng, về thói quen… Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá
nhân”(3). Vết tích của xã hội cũ ẩn mình trong công tác cán bộ, nhất là khâu đánh giá cán
bộ, biểu hiện cụ thể là tư tưởng ganh tỵ, không muốn ai hơn mình, “yêu nên tốt, ghét nên
xấu”; bè cánh, cục bộ địa phương, thân quen, dòng họ; “do lòng yêu ghét của mình mà đối
với người”(4). Đó là những căn nguyên sâu xa làm lệch chuẩn hệ giá trị đánh giá cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, do chủ nghĩa cá nhân mà có nhiều người phạm vào
những chứng bệnh như ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc
chắn hơn người ngoài; ham dùng những kẻ khéo nịnh hót, mà chán ghét những người
chính trực…
Thứ hai, đánh giá cán bộ là vấn đề khó, tinh tế và phức tạp. Nghị quyết Trung ương lần thứ
9 (khóa X) của Đảng chỉ rõ “đánh giá cán bộ được coi là khâu tiền đề quan trọng nhất
nhưng vẫn là khâu khó và yếu nhất, khó nhất là đánh giá cái “tâm”, cái “tầm” và bản lĩnh
chính trị của cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất cán
bộ”(5). Trong những năm qua, một số cấp ủy đảng khi đánh giá cán bộ chưa thực sự lấy
hiệu quả công việc, chưa coi trọng định lượng làm thước đo trong đánh giá cán bộ; nhiều
nơi chưa thực hiện công khai việc đánh giá cán bộ.
Thứ ba, do chưa lượng hóa được tiêu chuẩn cũng như chưa mô tả vị trí công việc tại không
ít tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nên việc nhận xét, đánh giá thiếu cơ sở khách quan. Hệ
tiêu chuẩn xác định rõ ràng, vị trí việc làm được mô tả một cách chi tiết trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy chính là cơ sở khách quan, khoa học để đánh giá phẩm chất,
năng lực, kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức.
Thứ tư, còn không ít cấp ủy đảng và cơ quan có thẩm quyền về công tác tổ chức, cán bộ
chưa chú trọng tới các biện pháp quản lý cán bộ để hiểu rõ tư tưởng, lập trường, khả năng
hoàn thành nhiệm vụ, xu hướng phát triển, năng lực sở trường, uy tín cá nhân, quan hệ xã
hội của bản thân và gia đình cán bộ để quản lý cán bộ hiệu quả. Lý luận và thực tiễn cho
thấy có “hiểu biết cán bộ” mới có cơ sở đánh giá đúng cán bộ. Trên thực tế “có trường hợp
còn không biết mặt cán bộ, dẫn đến việc nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thực chất, chưa
khách quan, chưa sát”(6). Để đánh giá đúng cán bộ đòi hỏi các chủ thể quản lý phải nắm
được đầy đủ thông tin về cán bộ như phẩm chất chính trị, năng lực, sở trường, yếu tố tâm
lý, xu hướng triển vọng, khí chất…
Thứ năm, tính gương mẫu của một số cán bộ chủ chốt chưa cao, nói không đi đôi với làm,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng... nên không dám chỉ ra
những hạn chế, yếu kém của cán bộ, nhân viên dưới quyền. Nhân cách, uy tín của cán bộ
chủ chốt có vai trò rất quan trọng, quyết định đến độ chính xác trong nhận xét, đánh giá
cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng “Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán
bộ càng đúng”(7).
2. Biện pháp nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của đánh giá cán bộ.
Đánh giá cán bộ thực chất là đo lường phẩm chất, năng lực của cán bộ. Đây là khâu quan
trọng tác động đến các khâu của công tác cán bộ. Chất lượng công tác cán bộ liên quan đến
khâu đánh giá cán bộ. Các tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải phát huy dân chủ, công khai,
minh bạch và thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong công tác đánh giá cán bộ. Kết quả
đánh giá cán bộ phải được thông báo công khai trong tổ chức đảng để giúp cán bộ biết
được kết quả đồng nghiệp, tổ chức đánh giá về mình, từ đó thấy được những ưu điểm,
khuyết điểm, hạn chế để xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện.
Hai là, cần lượng hóa tiêu chuẩn gắn với mô tả công việc của từng cán bộ, công chức.
Tiêu chuẩn cán bộ là những tiêu chí phản ánh phẩm chất, năng lực (đức - tài) của người cán
bộ. Nắm vững tiêu chuẩn mới có căn cứ khách quan để đánh giá đúng cán bộ cũng như tiến
hành các khâu của công tác cán bộ. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mà xây
dựng, mô tả vị trí việc làm của từng chức danh. Đây là một trong những nội dung đổi mới
công tác tổ chức cán bộ hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng chính trị và năng lực hoạt
động của từng chức danh trong tổ chức bộ máy; là cơ sở để đối chiếu, đánh giá năng lực
hoạt động và kết quả thực hiện nhiệm vụ của từng cán bộ. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
chỉ rõ “Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ
sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ
yếu”(8). Khi đánh giá cán bộ, các chủ thể cần căn cứ các tiêu chí như: phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng; năng lực ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định; phong cách
lãnh đạo; hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân.
Ba là, kết hợp các kênh thông tin để đánh giá cán bộ.
Khi đánh giá cán bộ phải kết hợp các kênh thông tin để có căn cứ đánh giá đúng cán bộ, cụ
thể là: cấp ủy trực tiếp quản lý cán bộ; cấp ủy cấp trên trực tiếp; cơ quan tổ chức cán bộ;
lấy hiệu quả công tác thực tế làm thước đo; cán bộ, nhân viên dưới quyền, quần chúng
nhân dân đánh giá và cán bộ tự đánh giá. Mỗi kênh đánh giá đều phản ánh được thế mạnh,
ưu điểm, nhưng trong đó 3 kênh chủ đạo là cấp ủy đảng gắn với trách nhiệm đánh giá của
người đứng đầu; hiệu quả công tác thực tế và tín nhiệm của quần chúng nhân dân có ý
nghĩa chi phối, quyết định.
Khi đánh giá cán bộ phải có quan điểm biện chứng, khoa học. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
“Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem
xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa”(9). Chẳng hạn cùng là
một chức danh như nhau, nhưng công tác ở địa bàn phức tạp, đi lại khó khăn, trình độ dân
trí thấp, an ninh phức tạp sẽ được đánh giá cao hơn so với cán bộ, công chức công tác trong
điều kiện môi trường thuận lợi... Xuất phát từ bản chất xã hội của con người, khi đánh giá
cán bộ phải có quan điểm toàn diện, tránh phiến diện chủ quan, có như vậy mới hiểu được
đầy đủ bản chất của người cán bộ “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải
xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem cả công việc của
họ”(10). Cần bảo đảm dân chủ và công khai trong đánh giá cán bộ, từ đó góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức.
Cần tiếp tục duy trì việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ. Lấy phiếu tín nhiệm định kỳ
đối với cán bộ chủ chốt là cách làm mới của Đảng nhằm mục đích đánh giá phẩm chất,
năng lực của cán bộ, có tác dụng nhắc nhở, động viên, cảnh báo cán bộ luôn nêu cao trách
nhiệm, phấn đấu rèn luyện, tận tụy phục vụ nhân dân. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là một
tham số giúp cấp ủy, người đứng đầu nắm được phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ;
mặt khác giúp cán bộ điều chỉnh, khắc phục những hạn chế, yếu kém để hoàn thiện nhân
cách, tổ chức điều hành công việc có hiệu quả hơn.
Bốn là, coi trọng kiểm tra, giám sát cán bộ, công tác cán bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt
hay xấu”(11). Làm tốt chức năng này mới giúp các chủ thể quản lý hiểu và nắm chắc cán
bộ ở tất cả các phương diện chính trị tư tưởng, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, năng
lực sở trường, xu hướng triển vọng, uy tín trong quần chúng và hoàn cảnh gia đình. Đảng
lãnh đạo, quản lý cán bộ, “thương yêu cán bộ” nhưng “không phải là vỗ về, nuông chiều,
thả mặc” mà phải thường xuyên động viên, nhắc nhở, phê bình và tự phê bình để cán bộ
phát huy ưu điểm, phòng tránh các khuyết điểm, sai phạm. Tác nghiệp này không chỉ giúp
các cấp ủy nắm chắc cán bộ mà còn giúp cán bộ phấn đấu rèn luyện tốt hơn. Hơn lúc nào
hết, các cấp ủy đảng phải tăng cường kiểm tra công tác cán bộ, trong đó có khâu đánh giá
cán bộ của các tổ chức đảng cấp dưới nhằm giúp các tổ chức đảng thực hiện đúng, bài bản
khâu đánh giá cán bộ.
Năm là, phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, đánh giá cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán bộ nào có lỗi lầm
mà có thể sửa đổi, ai làm việc gì hay, việc gì quấy, dân chúng cũng do cách so sánh đó, mà
họ biết rõ ràng”(12). Sự nhận xét chân thành, có trách nhiệm với động cơ góp ý xây dựng
của quần chúng nhân dân là một kênh để các cấp ủy tham khảo nhận xét, đánh giá chính
xác cán bộ, là cơ sở để quản lý, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý. Do đó, cần tiếp
tục duy trì quy trình cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm nhất thiết phải có nhận xét của cấp ủy
địa phương./.
Câu 5: Tại sao cần phải hiện đại hóa cơ quan hành chính nhà nước. Liên hệ
thực tế việc thực hiện nội dung trên tại địa phương (đơn vị) đồng chí công tác?
a. Sự cần thiết phải hiện đại hóa cơ quan hành chính Nhà nước vì:
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào các hoạt động hành
chính góp phần quan trọng làm giảm số lượng nhân sự và nâng cao năng suất lao động
trong các cơ quan nhà nước và làm thay đổi cách thức làm việc, ứng xử của đội ngũ cán
bộ, công chức theo hướng chuyên nghiệp.
Cải cách hành chính ở nước ta hiện nay diễn ra trong khuôn khổ cải cách nhà nước
theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, là tiền đề quan trọng để thực hiện
thành công quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những nguyên nhân chủ yếu đẩy
mạnh cải cách hành chính ở nước ta là:
- Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường
định hướng XHCN
-Giải quyết những bất cập còn tồn tại của nền hành chính;
- Nhằm thích ứng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế;
- Sự phát triển của khoa học-công nghệ;
- Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với Nhà nước ngày càng cao
b. Nội dung của hiện đại hóa các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay:
Hiện đại hóa hành chính là xu hướng cách mạng khoa học-công nghệ phát triển
mạnh mẽ hiện nay. Ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào hoạt động hành chính
nhà nước làm tăng năng suất lao động, còn góp phần quan trọng làm thay đổi phương thức
làm việc của cán bộ, công chức, hướng tới một môi trường hành chính hiện đại. Nội dung
chủ yếu của hiện đại hóa thể hiện trên các mặt:
- Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính trên
Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước để đến năm 2020 là: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao
đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công
chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ
liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; Các giao dịch của các cơ
quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, dựa trên các ứng dụng
truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến ở mức độ
3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi;
- Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của
từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và
trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công,
dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công;
- Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan
hành chính nhà nước, tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách thủ tục
hành chính;
- Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính
nhà nước;
- Thực hiện Quyết định số1441/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đầu tư trụ sở cấp xã, phường bảo đảm yêu cầu cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước;
- Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại. Tuy nhiện,
hiện công tác chỉ đạo thực hiện trong thời gian qua chưa ngang tầm, chưa kiên quyết, thiếu
đồng bộ và điều hành chưa nghiêm túc. Một số chủ trương đúng nhưng chưa được chỉ đạo
sát nên kết quả thấp so với yêu cầu. Chưa tạo sự đồng bộ, gắn kết giữa cải cách hành chính
với công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng, với các cuộc cải cách về kinh tế, lập pháp, tư
pháp. Việc đầu tư về nhân - trí - nguồn lực cho cải cách hành chính còn chưa thỏa đáng.
Kinh phí để triển khai thực hiện các đề án, nhiệm vụ cải cách hành chính chưa được hướng
dẫn thống nhất, còn lúng túng trong bố trí kinh phí thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành
chính ở cả Trung ương và địa phương. So với mục tiêu, yêu cầu đang đặt ra của tiến trình
hội nhập WTO vào kinh tế khu vực và toàn cầu thì chúng ta còn phải cải cách mạnh mẽ
nhiều hơn nữa mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhanh chóng thoát
khỏi nguy cơ tụt hậu so với trình độ phát triển chung của khu vực và thế giới, phấn đấu cơ
bản sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
c. Liên hệ thực tế:
Bản thân hiện đang làm việc tại huyện ............., xin phép được chia sẽ những nội
dung hiện đại hóa cơ quan hành chính hiện nay tại huyện như sau:
............. là huyện nằm phía Nam của tỉnh Quảng Nam, được thành lập năm 1983 trên
cơ sở tách huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện .............. Phía bắc giáp thành
phố Tam Kỳ, phía nam giáp huyện Bình Sơn và huyện Trà Bồng tỉnh Quảng Ngãi,
phía Tây giáp huyện Nam Trà My, phía đông giáp Biển Đông.
Từ khi chia tách đến nay, huyện đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt hơn, tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được giữ vững ổn định, hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn.
Đạt được những kết quả đó là nhờ cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân
trong huyện đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách
thức; Cùng với đó, những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin,
truyền thông cùng với nhiều ngành công nghệ cao khác đã và đang làm biến đổi sâu sắc
đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của huyện nhà.
Việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, truyền thông đã góp phần giải
phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của cả xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người dân.
Những năm qua, ............. đã có sự quan tâm rất lớn và chỉ đạo quyết liệt việc áp
dụng hiện đại hóa cơ quan hành chính nhà nước đặc biệt trên lĩnh vực ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin trên địa bàn huyện thông qua nhiều văn bản và các giải pháp
khác nhau. Ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính được chỉ đạo thực
hiện trong chương trình tổng thể cải cách cán bộ, công chức, viên chức, thường xuyên sử
dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các
hoạt động trong cơ quan; Các giao dịch được thực hiện trên môi trường điện tử; cung cấp
tất cả các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2 và cơ bản mức độ 3 trên Cổng thông tin điện
tử của huyện để phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Việc triển khai phần mềm Quản lý văn bản và điều hành công việc là rõ nét, 100%
cơ quan đã triển khai thực hiện. Tỷ lệ cán bộ, công chức sử dụng hệ thống thư điện tử trong
công việc gần 100%. Nhiều phần mềm chuyên ngành đã được triển khai sử dụng hiệu quả
tại các cơ quan.
Cổng Thông tin điện tử của huyện đã được cập nhật khá đầy đủ, kịp thời, đặc biệt là
những thông tin hữu ích phục vụ người dân và doanh nghiệp, tuyên truyền về công tác chỉ
đạo, điều hành của UBND huyện đối với những hoạt động chung của huyện. Tích hợp trên
Cổng Thông tin điện tử những phần mềm phục vụ cho sự chỉ đạo điều hành công việc như:
Phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc, phần mềm một cửa điện tử, tra cứu đơn
thư,...
Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu trong việc triển khai hệ thống một cửa điện tử,
một cửa liên thông và dịch vụ công trực tuyến. Để đạt được kết quả như mong muốn, bên
cạnh sự chỉ đạo quyết liệt của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính huyện, cần có sự chủ động,
phối hợp chặt chẽ, quyết tâm hơn nữa của các phòng, ban, ngành, đoàn thể cũng như 17 xã
thị trấn trên toàn huyện..
Bên cạnh vai trò của nhà nước trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho việc ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà quản lý,
nhà khoa học, các doanh nghiệp và sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân với tư cách
vừa là người thụ hưởng thành quả, vừa là tác nhân đóng góp, thúc đẩy quá trình phát triển
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và trong đời sống xã hội, góp phần không nhỏ
vào sự nghiệp chung chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Kết quả 01 năm thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU của tỉnh ủy về công tác cải cách
hành chính
Trong những năm qua, công tác cải cách hành chính luôn được cấp ủy, chính quyền
địa phương quan tâm.
Đặc biệt, từ khi Tỉnh ủy Quảng Nam ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 27/4/2016
(khóa XXI) về đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh giai đoạn 20162020, Huyện ủy, UBND huyện đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác cải cách hành chính
trên 06 lĩnh vực nhằm đáp ứng mục tiêu: Xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên
nghiệp, hiện đại, chuyển từ “nền hành chính quản lý” sang “nền hành chính phục vụ”.
Sau hơn 01 năm triển khai thực hiện, công tác cải cách hành chính đã có bước chuyển biến
mạnh mẽ, được quán triệt, triển khai thực hiện khá toàn diện, đồng bộ trên địa bàn huyện,
có sự chung tay, vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Nội dung hoạt
động cải cách ngày càng đi vào chiều sâu; nhận thức về cải cách hành chính chuyển biến
khá mạnh; thực hiện tốt cơ chế một cửa, công khai thủ tục hành chính tạo chuyển biến tích
cực trong quan hệ giữa cơ quan hành chính với công dân và tổ chức. Tổ chức bộ máy đã
được sắp xếp lại theo hướng tinh giản, gọn nhẹ; chức năng, nhiệm vụ được quy định đầy
đủ, rõ ràng hơn. Cơ sở vật chất không ngừng được đầu tư hoàn thiện; kỷ luật, kỷ cương
hành chính được siết chặt; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao. Chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong điều
hành, thực hiện nhiệm vụ được đẩy mạnh. Thực hiện khoán biên chế và kinh phí đã tạo chủ
động cho cơ quan, đơn vị trong việc quản lý, sử dụng kinh phí, tăng trách nhiệm cho thủ
trưởng đơn vị; thực hành tiết kiệm, tăng thu nhập, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ,
công chức, kết quả đạt được như sau:
Về cải cách thể chế, HĐND, UBND huyện đã rà soát, hệ thống hóa và ban hành nhiều văn
bản đúng quy phạm pháp luật, đảm bảo tính khả thi, đúng hình thức, nội dung và thẩm
quyền theo quy định.
Cải cách thủ tục hành chính và cơ chế một cửa, UBND huyện chỉ đạo các cơ quan, đơn vị,
UBND các xã, thị trấn rà soát, niêm yết công khai các TTHC tại bộ phận một cửa, tại nơi
làm việc, trên Cổng thông tin điện tử và ban hành quy trình tiếp nhận, xử lý và giao trả hồ