Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 60 NĂM THÀNH LẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN,
60 NĂM KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA

PHÁT TRIỂN KINH DOANH BỀN VỮNG
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
HÀ NỘI, 2016



MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

Đề dẫn hội thảo
Phần 1: Những vấn đề chung và kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh doanh
bền vững của doanh nghiệp
1

Phát triển kinh doanh bền vững: Tổng quan và các vấn đề đặt ra


3

PGS.TS. Trương Thị Nam Thắng
2

Định hướng phát triển kinh doanh bền vững của doanh nghiệp Việt Nam

17

PGS.TS. Ngô Kim Thanh
3

Khởi sự kinh doanh theo hướng phát triển bền vững ở nước ta

27

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Huyền
Trần Minh Cường
4

Báo cáo bền vững đối với doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế hội nhập

42

ThS. NCS. Phạm Thị Minh Hồng
5

Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam phát

49


triển kinh doanh bền vững trong bối cảnh ký kết Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP)
TS. Hà Thị Thúy Vân
ThS. Đàm Bích Hà
6

Lợi thế cạnh tranh trong điều kiện kinh doanh bền vững

63

PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Dung
7

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Yếu tố phát triển kinh doanh bền
vững tại Việt Nam

74

TS. Nguyễn Vân Hà
8

Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xanh nhằm hướng đến phát triển kinh
doanh bền vững

85

ThS. Nguyễn Thị Hương Giang
9


Mối quan hệ giữa sự trung thành của khách hàng và đảm bảo doanh thu,
lợi nhuận bền vững cho doanh nghiệp

91

TS. Nguyễn Thị Hồng Thắm

i


TT
10

Nội dung

Trang

Vai trò của quản trị công ty trong phát triển kinh doanh bền vững

98

PGS.TS. Lê Công Hoa
11

CEO với vai trò phát triển bền vững doanh nghiệp

106

TS. Trần Thị Phương Hiền
12


Nguyên tắc cạnh tranh trung lập trong ban hành và thực thi chính sách:
Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam

115

ThS. Lê Đức Nhã
13

Thúc đẩy vai trò của doanh nghiệp đối với tăng trưởng xanh trong bối cảnh
toàn cầu hóa - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam

141

ThS. Đào Lê Trang Anh
ThS. Nguyễn Tuấn Anh
14

Kinh nghiệm quốc tế về “tài chính xanh” và hàm ý chính sách đối với
Việt Nam

153

ThS. Võ Hoàng Kim An
ThS. Lê Đức Nhã
ThS. Trương Thị Thùy Trang

Phần 2: Kinh doanh bền vững của một số ngành và doanh nghiệp Việt Nam
15


Phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

173

TS. Tạ Quang Bình
16

Kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp bền vững trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế

183

Hoàng Quốc Mậu
17

Phát triển kinh doanh bền vững ngành chế biến gỗ Việt Nam

197

TS. Nguyễn Thu Thủy
18

Phát triển bền vững ngành rau quả Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

206

TS. Trương Đức Lực
19

Tiêu thụ bền vững sản phẩm dệt may - Sự hiểu biết và thái độ

ThS. NCS. Đặng Kim Thoa

ii

212


TT

Nội dung

Trang

20

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập. Nghiên cứu điển hình tại Công ty cổ phần Tổng Công ty May

221

Đáp Cầu
ThS. Phạm Việt Thắng
21

Nghiên cứu xây dựng trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp khai thác

234

khoáng sản Việt Nam
TS. Hoàng Thị Thanh Hương

Hoàng Thị Thanh Thủy
22

Phát triển bền vững mô hình kinh doanh chuỗi cửa hàng ở Việt Nam

245

TS. Hà Sơn Tùng
23

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư vào tỉnh Nghệ An theo
hướng bền vững trong bối cảnh tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương

258

ThS. Nguyễn Thị Quế
ThS. Nguyễn Hồng Chỉnh

Phần 3: Phát triển các ngành và các doanh nghiệp Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế
24

Ảnh hưởng của hội nhập tới tự do hóa kinh tế ở Việt Nam

269

TS. Nguyễn Thị Thùy Dương
25


Ngành dệt may của Việt Nam trước ngưỡng cửa TPP

283
TS. Ngô Tuấn Anh

26

Thực trạng hình thành và phát triển cụm liên kết công nghiệp dệt may
trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ - Nghiên cứu dưới góc độ quan hệ
liên kết giữa các doanh nghiệp

290

TS. Nguyễn Kế Nghĩa
27

Nâng cấp chuỗi giá trị sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế

301

PGS.TS. Trần Việt Lâm
28

Xác định nhu cầu đào tạo trong doanh nghiệp - Nghiên cứu tại Công ty cổ
phần Than Núi Béo - TKV

315

TS. Vũ Hùng Phương

iii


TT

Nội dung

Trang

29

Những yếu tố cần kiểm soát tại điểm bán hàng để tạo ra những trải nghiệm
khách hàng độc đáo và thú vị

333

ThS. Trần Thị Thu Huyền
30

Thực trạng áp dụng cơ chế APA trong chống chuyển giá tại một số quốc
gia và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

344

Vũ Thị Minh Hiền
Nguyễn Thanh Hiền
Nguyễn Thị Hồng
Đoàn Thùy Dương
Nguyễn Thị Ngọc Ánh
ThS. TrầnThị Thu Hiền

31

Quản trị chuỗi cung ứng tôm tại tỉnh Thừa Thiên Huế

357

NCS. Tạ Minh Quang
32

Vai trò của tài chính vi mô trong phát triển doanh nghiệp xã hội nông
nghiệp ở Việt Nam

367

TS. Ngô Văn Thạo
33

Những bài học kinh nghiệm về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô ở
một số quốc gia châu Á
ThS. Vũ Anh Trọng
ThS. Nguyễn Đức Hùng

iv

378


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Địa chỉ: 207 Đƣờng Giải Phóng, Hà Nội
Website: - Email:
Điện thoại/ Fax: (04) 36282486

Chịu trách nhiệm xuất bản:

TS. NGUYỄN ANH TÚ, Giám đốc Nhà xuất bản

Chịu trách nhiệm nội dung:

GS.TS. NGUYỄN THÀNH ĐỘ, Tổng biên tập

Biên tập:

TRỊNH THỊ QUYÊN

Chế bản
Thiết kế bìa:
Sửa bản in và đọc sách mẫu

TRỊNH THỊ QUYÊN

In 150 cuốn, khổ 21x29cm tại Công ty TNHH In, Photocopy Hoa Hồng - Bình Liên
Địa chỉ: Số 20, ngõ 191A Đại La, phương Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội
Mã số 3089-2016/CXBIPH/01-252/ĐHKTQD và ISBN 978-604-946-170-5
Số quyết định xuất bản: 278/QĐ-NXBĐHKTQD-ngày 29 tháng 9 năm 2016
In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2016
396



VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TRONG PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
TS. Ngô Văn Thạo
Đại học Sài Gòn

Tóm tắt
Tài chính vi mô (Microfinance-MF) trên thế giới ra đời vào năm 1976 với
ngân hàng Grameen dành cho người nghèo, nằm ở vùng ngoại ô của Bangladesh
và nó được cả thế giới biết đến khi Liên Hiệp Quốc chọn năm 2005 là Năm Quốc tế
tài chính vi mô cùng giáo sư Mauhammad Yunus (người sáng lập ra ngân hàng ra
ngân hàng Grameen) được nhận giải Nobel hòa bình năm 2006. Bài viết tập trung
đánh giá về họat động của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong thời gian
qua thông qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và phát
huy vai trò của nó trong việc phục vụ cộng đồng là các doanh nghiệp xã hội trong
nông nghiệp.
Tứ khóa: Tài chính vi mô, Doanh nghiệp xã hội, Hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp.
1. Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam
1.1. Khái niệm về tài chính vi mô
Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Tài chính vi mô (TCVM) là việc
cung cấp các dịch vụ tài chính như tiền gởi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển
tiền và bảo hiểm cho người nghèo và hộ gia đình có thu nhập thấp và các doanh
nghiệp nhỏ của họ.
1.2. Đặc điểm
- Khách hàng của tổ chức TCVM chủ yếu là những người nghèo, không có
tài sản thế chấp;
- Khoản vay thường nhỏ, chi phí giao dịch cao;
- Nhu cầu vay vốn thường đột xuất, ngắn hạn;
- Phương thức cho vay chủ yếu theo tổ, nhóm;

- Tài chính vi mô có khả năng phát triển bền vững.
1.3. Vai trò
- Cung cấp các dịch vụ tài chính cho xã hội;

367


- Góp phần vào sự phát triển của hệ thống tài chính;
- Là công cụ hữu ích thực hiện xóa đói giảm nghèo;
- Góp phần năng cao năng xuất lao động biên;
- Đa dạng các khoản thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp;
- Giúp người nghèo tránh, giảm rủi ro về kinh tế và cuộc sống.
Hoạt động của các tổ chức TCVM đã đem lại những lợi ích thiết thực cho
những người vay vốn, giúp cho các hộ gia đình thoát nghèo từ việc cung ứng vốn
tín dụng cho hoạt động sản xuất của các hộ này. Điều tra năm 2014 của nhóm công
tác TCVM Việt Nam - VMFWG cho thấy 69,8% những người vay vốn cho biết
mức độ thoát nghèo khi vay vốn từ tổ chức TCVM là rất tốt và tốt, chỉ có 1,4% cho
rằng họ không thoát nghèo từ vốn vay do các tổ chức TCVM cung cấp. Tuy mức độ
tiếp cận với nguồn vốn từ TCVM vẫn còn một số khó khăn nhất định nhưng mức độ
hài lòng của khách hàng tiếp cận dịch vụ từ tổ chức TCVM cũng khá cao, có tới
45,91% khách hàng rất hài lòng và 51,26% khách hàng hài lòng với dịch vụ của các
tổ chức TCVM (trong số 882 khách hàng được khảo sát)(18)
1.4. Các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam(19)
Các tổ chức cung cấp tài chính vi mô hiện nay của Việt Nam có thể phân
theo 3 khu vực chủ yếu như: Khu vực chính thức; Khu vực bán chính thức; và khu
vực phi chính thức;
- Khu vực chính thức: bao gồm ngân hàng thương mại (ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn), ngân hàng chính sách xã hội, hoạt động của quỹ tín
dụng nhân dân, các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép hoạt động bào gồm (Tình
thương, M7, Thanh Hóa). Thị trường tài chính vi mô chính thức của Việt Nam hiện

nay do 02 nhà cung cấp chính thức, là ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam và hệ
thống các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở chiếm thị phần chính; bên cạnh đó là quỹ
tình thương - TYM, Thanh Hóa.
- Các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức: bao gồm hoạt động tín dụng,
tiết kiệm quy mô nhỏ tại cộng đồng theo mô hình Nhóm phụ nữ tín dụng - tiết kiệm
của Hội Liên Hiệp phụ nữ các cấp, đặc biệt là cấp xã phường theo nguyên tắc tự
nguyện, tự quản, không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện huy động vốn của thành
viên và sử dụng vốn đó để cho vay giữa các thành viên trong cộng đồng hẹp nhưng
nguồn vốn của một số địa phương chủ yếu từ nguồn Quỹ phát triển nhóm hợp tác.

18
19

Trần Trọng Huy (2016), Tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển
Trịnh Quốc Trung (2016), Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam

368


Một số tổ chức hiệp hội khác như: Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội Người
cao tuổi cũng có cùng hoạt động tín dụng tiết kiệm nhưng nguồn vốn của các tổ
chức này đến từ các nguồn tài trợ, nguồn ủy thác và từ vận động ủng hộ, quyên góp,
cho mượn, cho vay với lãi suất thấp. Bên cạnh đó là một số dự án cũng có hoạt
động tài chính vi mô như: chương trình Oxfam của Anh, chương trình hỗ trợ kinh
doanh với người nghèo, Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm của
Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí minh (CED), quỹ phát triển nhà ở Habitat
của Hoa kỳ.
- Các TCTCVM không chính thức: bao gồm các đơn vị, cá nhân, nhóm dân
cư, cửa hàng, quỹ tương trợ, nhóm, tổ tiết kiệm… dưới dạng hụi, tín dụng chợ đen
mà chưa được kiểm soát và quản lý của cơ quan Nhà nước.

1.5. Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô
Với các tổ chức tài chính vi mô như trên, ngoại trừ các tổ chức không chính
thức, còn lại các tổ chức chính thức và bán chính thức đều có chức năng huy động
vốn và cho vay vi mô bằng Việt Nam đồng (VNĐ) dưới hai hình thức là cho vay
theo nhóm hoặc cá nhân độc lập, với thời hạn cho vay ngắn hoặc trung hạn, dịch vụ
bảo hiểm và các dịch vụ phi tài chính.
Trong khi đó các tổ chức bán chính thức nhận tiền từ các quỹ, chương trình
ủy thác trong và ngoài nước với mức lãi suất ưu đãi và có thể lãi suất 0% như tổ
chức Habitat(20) nhưng khi cho hộ dân vay vẫn duy trì mức lãi suất tối thiểu cho bù
đắp chi phí giao dịch và quản lý quỹ của đơn vị đối tác đứng ra thực hiện. Do địa
bàn hoạt động nông thôn, giá trị món vay ít nên chi phí giao dịch lớn và mức lãi
suất của các tổ chức tài chính vi mô này thường cao hơn mức lãi suất của các ngân
hàng thương mại nhưng bù lại là người vay không cần thế chấp tài sản, giảm được
chi phí đi lại do có lực lượng cộng tác viên đến tận nhà phục vụ, và giảm thiểu được
tín dụng chợ đen (lãi suất thực của cho vay góp đều theo ngày của các tổ chức tín
dụng vi mô là 1,6%/tháng, trong khi lãi suất của loại hình vay nợ từ chơi hụi trung
bình khoảng 5,75%/tháng, tức cao gấp 3,6 lần).(21)
Chính vì cho các đối tượng nghèo vay, giá trị món vay nhỏ, tài sản duy nhất
của họ là đất đai sản xuất gắn liền với nhà ở nên việc xét cho vay theo kiểu liên đới
trách nhiệm (Nhóm hộ vay cùng chịu trách nhiệm về món vay của một thành viên
nào đó trong nhóm bội tín), việc xét cho vay thông qua nhóm tổ đảm bảo việc giám
sát người vay sử dụng vốn đúng mục đích và phải có ý thức trách nhiệm hoàn trả nợ
20

/>Ngô Văn Thạo (2016), Mức lãi suất của các loại hình vay nợ trả góp định kỳ trong hoạt động tài chính vi
mô tại Việt Nam
21

369



vay để cho các thành viên khác có thể được xét vay kế tiếp. Đây là hoạt động có
tính cộng đồng cao mà hoạt động tín dụng thông thường của các ngân hàng thương
mại khó có thể cung cấp đến với các đối tượng này. Các tổ nhóm vay vốn ngoài
việc quy tụ các thành viên lại để giúp họ tiếp cận được nguồn vốn thì việc hỗ trợ tư
vấn sản xuất, cung ứng con giống, vật tư, tiêu thụ nông sản, trao đổi và chia sẻ kinh
nghiệm giữa các nhóm có cùng đối tượng sản xuất cũng được các thành viên trong
nhóm vay vốn quan tâm đã thúc đẩy việc hình thành các tổ nhóm hợp tác sản xuất
tự nguyện bên cạnh các tổ chức xã hội hiện có. Chính vì thế, một số chương trình
tín dụng vi mô đặt ra các tiêu chí để được xét duyệt cho vay vốn là các hộ phải tham
gia tập huấn kỹ thuật sản xuất, quản lý chi tiêu và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh
mới và phải có được sự bảo lãnh và giám sát của các thành viên trong tổ nhóm mới
được cho vay.
2. Doanh nghiệp xã hội trong nông nghiệp
2.1. Khái niệm
Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp được hiểu là các doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cung cấp các
dịch vụ đầu vào cũng như tư vấn; hỗ trợ kỹ thuật cho các nông hộ sản xuất; kết nối
các hộ có cùng đối tượng sản xuất với nhau nhằm gia tăng hiệu quả sản xuất cho
chính các thành viên này thông qua thực hiện chuyên môn hóa và cơ giới hóa; giải
quyết các vấn đề thiếu lao động trong sản xuất cũng như môi trường và dịch bệnh
mà các nông hộ sản xuất gặp phải; đồng thời tổ chức sản xuất đáp ứng các tiêu
chuẩn an toàn về sản xuất và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; tìm kiếm đầu ra cho
các sản phẩm mà các nông hộ thành viên tạo ra. DNXH trong lĩnh vực nông nghiệp
của Việt Nam hiện tồn tại ở các loại hình như: trung tâm giống, trung tâm khuyến
nông - khuyến ngư, các hợp tác xã hoặc các tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp.
2.2. Quá trình hình thành và xu hướng phát triển của doanh nghiệp xã hội
nông nghiệp
Với đặc thù là quốc gia sản xuất nông nghiệp nên “Doanh nghiệp xã hội
trong nông nghiệp” của Việt Nam có từ lâu đời thông qua các hoạt động cơ bản

như: đổi công, giúp nhau sản xuất và thu hoạch cho kịp thời vụ nhằm tăng thêm sức
mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực
hiện, hoặc làm riêng lẻ không có hiệu quả như phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu
bệnh, đào kênh dẫn nước... Quá trình liên kết này còn mang đặc điểm tình cảm, tâm
lý truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn trong sản
xuất và đời sống. Khi nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá
370


trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ như: dịch vụ
về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi... Trong điều
kiện này, từng hộ nông dân nếu tự đảm nhiệm tất cả các công đoạn cho quá trình
sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc không có hiệu quả
so với hợp tác. Từ đó nảy sinh nhu cầu liên kết ở trình độ cao hơn, đó là liên kết
thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày công - giá trị dịch vụ, và hình thành
nhóm tổ dịch vụ sản xuất.
Khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển cùng với quá trình phân công
chuyên môn hoá nảy sinh các đối tượng chuyên biệt như: cây lương thực, rau màu,
cây ăn trái, cây công nghiệp và cũng xuất hiện nhiều loại dịch vụ chuyên hóa phục
vụ cho nông nghiệp như: cung ứng vật tư, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ nông sản.
Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị, xã
hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế nông dân đều có nhu cầu liên kết từ hình thức giản
đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển
thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, nên nó là
tính tất yếu để hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở
trình độ cao hơn. Do đó, việc hình thành các tổ nhóm, hợp tác xã sản xuất nông là
một tất yếu khách quan và chính các loại hình liên kết sản xuất này là tiền thân của
các doanh nghiệp xã hội trong nông nghiệp.
Doanh nghiệp xã hội nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn như: kết nối những người sản xuất nhỏ lẻ để tiếp nhận các

dịch vụ hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức viện trợ trong và ngoài nước; thực hiện
cơ giới hóa nông nghiệp; gia tăng giá trị sản xuất thông qua tham gia chuỗi giá trị
sản xuất và thực hiện quy trình sản xuất nông sản an toàn. Chính phủ ban hành
nhiều chính sách khuyến khích liên kết và tiêu thụ nông sản, tiêu biểu là Nghị định:
109/2010/NĐ-CP ngày 04/11/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo có điều kiện;
Quyết định: 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ
hàng hóa nông sản thông qua hợp đồng; Công văn 354/BNN-TT ngày 17/02/2012
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về chỉ đạo xây dựng cánh đồng mẫu
lớn; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 về chính sách phát triển hợp
tác liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn. Do đó,
hướng phát triển cho doanh nghiệp xã hội nông nghiệp trong thời gian tới là tham
gia vào các công đoạn trong chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản như:
- Tham gia cung ứng các yếu tố đầu vào như vật tư, con giống, nhiên liệu với
chất lượng ổn định và giá thành cạnh tranh.

371


- Cung cấp các dịch vụ cơ giới hóa trong quá trình sản xuất và hệ thống tưới
tiêu nội đồng quy mô nhỏ.
- Cung cấp các dịch vụ khuyến nông cho nông dân nhằm gia tăng giá trị nông
sản, bảo đảm an toàn sản xuất và vệ sinh thực phẩm, tham gia một số công đoạn sau
thu hoạch như sơ chế và bảo quản nông sản và tạo mối liên kết với thị trường tiêu
thụ cho nông dân.
- Tham gia vào quá trình chế biến, xử lý rác thải trong sản xuất nông nghiệp
thành các loại phân bón hữu cơ, trồng nấm nhằm giảm thiểu chất thải khí nhà kín,
hạn chế sử dụng phân bón hóa học trong sản xuất.
- Tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp khác ngoài
ngành như: dịch vụ du lịch, tham quan, phục vụ lễ hội.
2.3. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp xã hội nông nghiệp

Các doanh nghiệp xã hội nông nghiệp ở Việt Nam hiện tồn tại ở dạng tổ
nhóm hợp tác và hợp tác xã là chủ yếu; Theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn thì đến cuối năm 2011 trong ngành nông nghiệp có 9.725 HTX, so với năm
2002 tăng 2.258 HTX. Trong đó HTX nông nghiệp chiếm 93,8%; 0,45% HTX lâm
nghiệp, 5 % HTX thuỷ sản (105 HTX khai thác, 388 HTX nuôi trồng); 0,75% HTX
diêm nghiệp. Sau năm 2002, số thành lập mới là 3.345 HTX (tập trung chủ yếu ở
các tỉnh Nam Bộ và Tây Nguyên chủ yếu ở lĩnh vực thuỷ sản), số giải thể là 1.087
HTX (chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ chiếm tỉ lệ 90% tổng
số HTX cũ). Riêng với tổ hợp tác đến cuối năm 2011 cả nước có 140.297 tổ hợp tác
nông nghiệp với khoảng 2,3 triệu thành viên tham gia và hoạt động trong các lĩnh
vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
Nội dung hoạt động của Hợp tác xã được ưu tiên theo hướng trước hết là
phục vụ phát triển kinh tế hộ. Kinh tế hợp tác, Hợp tác xã đã góp phần vào việc giải
quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định đời sống cho hàng triệu người lao động. Các
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp đại bộ phận được chuyển đổi từ Hợp tác xã cũ, sát
nhập từ các Hợp tác xã quy mô nhỏ, hoặc được thành lập mới về cơ bản đã chuyển
từ Hợp tác xã hoạt động theo cơ chế kế hoạch, tập trung bao cấp sang Hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp với 3 dạng quy mô (toàn xã, liên thôn và quy mô thôn). Mô
hình Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có quy mô toàn xã với xã viên đông và địa
bàn hoạt động rộng phát huy có hiệu quả khá hơn trong việc tổ chức các dịch vụ hỗ
trợ xã viên và nâng cao tiềm lực kinh tế, tạo sự phát triển bền vững và ổn định cho
các Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Gần như 100% các Hợp tác xã nông nghiệp có
bộ máy tổ chức vừa quản lý, vừa điều hành ở mức độ khác nhau, song hầu hết các
372


Hợp tác xã đã hướng dẫn, tổ chức cho xã viên, nông dân sản xuất, đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào canh tác, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Tùy từng điều kiện
của các Hợp tác xã khác nhau, nhưng phổ biến các Hợp tác xã đã tổ chức được các
dịch vụ đầu vào sản xuất cho hộ xã viên, nhất là các dịch vụ tưới tiêu, bảo vệ thực

vật, thú y, vật tư nông nghiệp. Nhiều Hợp tác xã đã mở rộng hoạt động dịch vụ như
làm đất, bảo vệ đồng ruộng và tiêu thụ nông sản cho xã viên, dịch vụ môi trường,
nước sạch, y tế, văn hóa, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh, ổn
định chính trị và trật tự xã hội, tham gia tích cực vào công tác “xóa đói, giảm
nghèo” tại địa phương. Theo thống kê mới nhất của Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn (tháng 8/2015), cả nước có hơn 10.500 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
nhưng chưa tới 10% trong số này hoạt động hiệu quả, đa phần các hợp tác xã chỉ tập
trung cung cấp dịch vụ đầu vào như cung ứng giống, vật tư; với hơn 90% hợp tác xã
còn lại không tham gia vào hoạt động liên kết tiêu thụ nông sản và kết nối nông dân
với doanh nghiệp(22).
Tuy nhiên, các doanh nghiệp xã hội nông nghiệp ở Việt Nam có mang đầy
đủ các đặc điểm của một doanh nghiệp xã hội thực thụ chưa nhiều. Theo ghi nhận
CSIP đến cuối năm 2014 đã công nhận và tài trợ cho 8 doanh nghiệp nhưng có đến
6 doanh nghiệp ở khu vực phía Bắc và 02 doanh nghiệp ở khu vực phía Nam. Hoạt
động của các doanh nghiệp phía Bắc bao gồm: hỗ trợ cộng đồng trồng, chế biến và
tiêu thụ các loại dược liệu (công ty Vietherb ở Lạng Sơn, Công ty Sapanapro trồng
và chế biến thuốc gia truyền của người Dao đỏ ở Sapa); nhân giống, sản xuất và
phân phối thực phẩm sạch (SECO - công ty cổ phần thiên nhiên Việt ở Thái
Nguyên, DNXH xứ Thanh ở Thanh Hóa, HTX sản xuất nấm Xuân Thủy ở Nam
Định, Trang Trại hữu cơ Tôi tại Ba Vì). Phía Nam với công ty TMTM ở Đồng Nai
là trồng và giới thiệu sản phẩm từ cây Chùm ngây và công ty Green Youth
Collection ở Tp. Hồ Chí Minh với mục tiêu hướng nghiệp cho thanh niên trồng rau
hữu cơ trên các mái nhà cao tầng trong khu đô thị. Theo nghiên cứu của Vũ Thị
Huỳnh Anh (2014) thì doanh nghiệp xã hội nông nghiệp ở Việt Nam có các vai trò
tiêu biểu như:
- Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ với giá thành giảm nhằm giúp những
người thu nhập thấp có khả năng chi trả tiêu biểu là hợp tác xã bò sữa Evergrowth ở
Sóc Trăng hoạt động cho các nông hộ nuôi bò thiếu tiền thức ăn, con giống, kỹ
thuật ban đầu và tổ chức thu mua sữa cho các hộ sản xuất bảo đảm mức lãi cho họ
hợp lý thông qua hợp đồng cung ứng và bao tiêu sản phẩm.

22

90% Hợp tác xã nông nghiệp hoạt động không hiệu quả 05/08/2015.

373


- Vận hành và duy trì cơ sở hạ tầng cần thiết cho cộng đồng, điển hình là
HTX Hữu Đức ở Ninh Thuận cung cấp phân bón và xây dựng hệ thống kênh tưới
cho nông dân với chi phí thấp.
- Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ như phân bón sinh học và năng lượng tái
tạo - những sản phẩm mà người sử dụng không chi trả toàn bộ chi phí nhưng lại có
tác động tích cực đến môi trường, điển hình là Nhà máy tinh bột sắn Hướng Hóa ở
Quảng Trị là sản xuất phân bón hữu cơ từ rác thải trong quá trình chế biến sắn và
bán cho các hộ trồng sắn với giá ưu đãi và hợp đồng tiêu thụ sắn cho nông dân tại
trang trại.
- Cung cấp gói hỗ trợ kỹ thuật hay công nghệ có thể sẽ có giá thành cao nếu
được cung cấp bởi các doanh nghiệp tư nhân, nhằm giúp nâng cao giá trị của nông
sản. Trung tâm KCT tại Thái Bình cung cấp kiến thức chuyên môn về sản xuất và
bảo quản khoai tây giống cho các hộ sản xất tại tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận.
2.4 . Những hạn chế của doanh nghiệp xã hội trong nông nghiệp(23)
Do doanh nghiệp xã hội trong nông nghiệp với tiền thân là các tổ nhóm sản
xuất nông nghiệp, hình thành trên cơ sở tự nguyện thông qua liên kết những hộ sản
xuất nhỏ lẽ, phân tán để tăng vị thế trong sản xuất; tiếp cận các nguồn vốn chính
thức cũng như các chương trình dự án tài trợ trong và ngoài nước nên nó có những
hạn chế nhất định như sau:
- Nhận thức về doanh nghiệp xã hội còn nhiều hạn chế: trong nếp nghĩ của đa
số dân chúng còn hoài nghi về loại hình hợp tác xã kiểu cũ; một số còn trông chờ
vào sự trợ giúp của Nhà nước hay các chương trình viện trợ;
- Thiếu thị trường tiêu thụ nông sản sạch do doanh nghiệp còn bị động khâu

phân phối và tiêu thụ sản phẩm;
- Vị thế của các DNXH so với các doanh nghiệp truyền thống còn khá thấp:
do thiếu khung pháp lý hoạt động và đa số là quy mô nhỏ nên chưa thoát khỏi yếu
tố độc quyền bán và độc quyền mua của các doanh nghiệp truyền thống;
- Khó khăn trong việc vận hành và phát triển: thiếu địa điểm giao dịch, cán
bộ quản lý lớn tuổi, kiêm nhiệm và thiếu vắng các bộ phận chuyên trách;
- Thiếu vốn và yếu kém trong khả năng tiếp cận các nguồn tài chính: do còn
khá non trẻ, nguồn vốn ban đầu hạn chế nên các DNXH này rất khó tiếp cận các
nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng do không có tài sản thế chấp và khả năng
sinh lợi trong sản xuất nông nghiệp thấp nhưng rũi ro lại cao;
23

Ngô Văn Thạo (2016), Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, Tr
183-191.

374


- Thiếu khung pháp lý hoạt động: Dù Luật doanh nghiệp sửa đổi 2014 dành
riêng điều 10 cho DNXH khi áp dụng cần có các thông tư hướng dẫn cụ thể và cần
có thời gian mới phát huy hiệu lực của nó;
- Hạn chế về trình độ và kỹ năng lãnh đạo; việc ra đời và hoạt động còn nặng
tính mệnh lệnh và chỉ đạo của chính quyền các cấp cũng như sự tư vấn và tài trợ của
các chương trình dự án nhưng trình độ và năng lực quản lý của cán bộ lãnh đạo hạn
chế, lối tư duy chưa phù hợp với xu hướng phát triển;
- Chưa có chính sách và động lực thu hút trí thức trẻ tham gia quản lý và điều
hành trong các DNXH nông nghiệp;
- Đối đầu với các bất trắc và rủi ro: sản phẩm nông sản gặp phải vấn đề dịch
bệnh; giống bị suy thoái cũng như tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng
nên thương hiệu cho sản phẩm kém bền vững;

- Dễ bị tác động, lôi kéo: tính nguyên tắc và tuân thủ của nông hộ trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa cao nên dễ bị tư thương lợi dụng và lôi kéo;
- Thiếu việc làm cho lao động trong thời kỳ nông nhàn và dôi dư do cơ giới
hóa nông nghiệp.
Với những hạn chế nêu trên thì thiếu vốn và yếu kém trong khả năng tiếp cận
các nguồn tài chính là một trong những hạn chế lớn đối với các doanh nghiệp xã hội
nông nghiệp. Dù rằng hoạt động của các doanh nghiệp xã hội nông nghiệp thời gian
qua đã thu hút sự quan tâm của các nhà tài trợ đối với Việt Nam theo hướng áp
dụng nguyên tắc thị trường phục vụ phát triển bền vững như: (1) Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) với dự án thị trường cho người nghèo và dự kiến quỹ đầu tư
cùng người nghèo (IBIF); Stichting Nederlanse Vrijwillingers (SNV) của Hà Lan
với mô hình kinh doanh bền vững cùng người nghèo đối với các doanh nghiệp nông
nghiệp; (2) Ngân hàng thế giới (WB) với ngày sáng tạo Việt Nam; The Global
Competitiveness Facility for Vietnam Enterprises (GCF) là chương trình hỗ trợ
cạnh tranh toàn cầu dành cho các doanh nghiệp Việt Nam của chính phủ Đan Mạch,
giúp giảm thiểu rủi ro tài chính cho các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức ngoài quốc
doanh Việt Nam đang cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp nhỏ/ các hộ
kinh doanh/nông dân tham gia vào các chuỗi giá trị theo hướng xuất khẩu; một số
nhà tài trợ khác với mô hình tài trợ một phần các sáng kiến/đề xuất dự án vì cộng
đồng và có tiềm năng xuất khẩu. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn này rất
hạn chế và thiếu ổn định do nó đi từ các chương trình, dự án tài trợ có thời gian
hoạt động hạn chế. Do đó, về lâu dài thì nguồn vốn cho các doanh nghiệp xã hội
nông nghiệp ngoài vốn tự có của chính các doanh nghiệp và thành viên của họ ra

375


thì nguồn vốn đến từ các tổ chức tài chính vi mô là kênh cấp vốn có tính bền vững
và ổn định nhất.
3. Khả năng liên kết giữa các tổ chức tài chính vi mô và doanh nghiệp xã

hội nông nghiệp.
Hiện nay, các tổ tài chính vi mô của Việt Nam hoạt động với nhiều hình thức
tổ chức khác nhau như: Công ty TNHH MTV (ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn, ngân hàng chính sách xã hội); Hợp tác xã (Quỹ tín dụng nhân dân), công
ty TNHH (các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức, các tổ chức kinh doanh dịch
vụ cầm đồ…). Mỗi loại hình tổ chức có khung khổ pháp lý và phạm vi hoạt động
riêng biệt và bị chi phối bởi nhiều Thông tư, Nghị định đã vô tình làm giảm đi vai
trò hoạt động và mục tiêu tôn chỉ của chúng. Do các tổ chức tài chính vi mô với vai
trò cung cấp nguồn vốn cho cộng đồng nhưng địa bàn hoạt động rộng; giá trị món
vay nhỏ và thiếu tập trung nên không thể triển khai và giám sát được việc sử dụng
vốn của các đối tượng vay và họ cần có đối tác liên kết thực hiện các công việc này
và chính các doanh nghiệp xã hội nông nghiệp trong cộng đồng dưới dạng là các
hợp tác xã, tổ nhóm sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, hạn chế của một số tổ chức tài chính vi mô Nhà nước hiện nay có
khá nhiều ưu đãi về nguồn vốn như Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo
việc làm - CED có mức huy động vốn trung bình là 2,36%/năm nhưng khi cho các
hộ vay thì mức lãi suất dao động từ 20 - 27%/năm. Điều này được lý giải do giá trị
món vay thấp (trung bình 10 - 15 triệu/hộ) nhưng lợi nhuận thu được lẽ ra được tái
đầu tư để gia tăng nguồn vốn cho quỹ và mở rộng đối tượng cho vay cũng như nâng
giá trị cho món vay thì lại được chi để trả lương cho nhân viên và hoa hồng cho các
đối tác liên kết (Chi phí nhân viên tại CED chiếm 50% tổng chi phí chung và mức
lương trả cho nhân viên trung bình là 18,12 triệu/tháng trong khi các ngân hàng
thương mại trong cùng thời điểm đó mức lương nhân viên của họ dao động từ 14,33
đến 16,86 triệu/tháng)24
Trong khi hiện tại, các hộ sản xuất nông nghiệp, nông dân đang có xu hướng
liên kết lại theo dạng hợp tác xã, tổ hợp tác để có thể tiếp cận các dịch vụ đầu vào
cũng như được tư vấn; hỗ trợ kỹ thuật trong sản xuất; kết nối chia sẽ kinh nghiệm
và tuân thủ lịch thời vụ; thực hiện chuyên môn hóa và cơ giới hóa để khắc phục các
vấn đề thiếu lao động trong sản xuất cũng như môi trường và dịch bệnh; đồng thời
tổ chức sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn về sản xuất và tiêu chuẩn chất

lượng sản phẩm; kết nối và tìm kiếm thị trường đầu ra. Các tổ chức hợp tác xã, tổ
24

Lê Hoài Ân (2016), Đánh giá lại vai trò của các tổ chức tài chính vi mô Nhà Nước

376


hợp tác tự nguyện này có những điểm tương đồng với doanh nghiệp xã hội, giải
quyết các vấn đề phát sinh trong sản xuất, kinh doanh của hộ và họ cần rất nhiều
nguồn lực để thực hiện; một trong những nguồn lực chính yếu là nguồn vốn phục
vụ cho đầu tư trang thiết bị phục vụ sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi cho phù hợp với nhu cầu chất lượng của thị trường nhưng các tổ chức này
cũng như nông hộ thành viên của họ không thể tiếp cận nguồn vốn chính thức của
các ngân hàng thương mại do không có tài sản thế chấp hoặc tài sản có giá trị thấp
nên không thể vay với lượng vốn lớn theo nhu cầu đầu tư; và chính các tổ chức tài
chính vi mô được xem là cứu cánh đáp ứng các nhu cầu về vốn. Do đó, nếu các tổ
chức tài chính vi mô liên kết tốt với các doanh nghiệp xã hội nông nghiệp (cụ thể
là các Hợp tác xã, tổ hợp tác) thì sẽ giảm đi các chi phí giao dịch trung gian; góp
phần giảm chi phí quản lý và đều hành nhưng có thể giám sát hoạt động của các
hộ vay vốn thông qua các doanh nghiệp xã hội; nâng cao tầm ảnh hưởng cũng như
gia tăng hiệu quả hoạt động.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Hoài Ân (2016), Đánh giá lại vai trò của các tổ chức tài chính vi mô
Nhà Nước, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam:
Thực trạng và xu hướng phát triển”, tháng 5/2016;
2. Nguyễn Đình Cung (2012), Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam - khái niệm,
bối cảnh và chính sách, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng, tr.24;
3. Trần Trọng Huy (2016), Tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng
và định hướng phát triển”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hoạt động tài chính vi mô tại

Việt Nam: Thực trạng và xu hướng phát triển, tháng 5/2016;
4. Ngô Văn Thạo (2016), Doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp ở
đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản kinh tế;
5. Ngô Văn Thạo (2016), Mức lãi suất của các loại hình vay nợ trả góp định
kỳ trong hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hoạt
động tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng và xu hướng phát triển”, tháng
5/2016;
6. Trịnh Quốc Trung (2016), Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam, Kỷ yếu
hội thảo khoa học “Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng và xu
hướng phát triển”, tháng 05/2016.

377



×