BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
----------------------------
Nguyễn Bình Thành
TƯƠNG QUAN GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ ẢO GIÁC TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số
: 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Hữu Huy Nhựt
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016
Mục lục
Mục lục
i
Danh mục các bảng, biểu
iii
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
iv
1 Tăng trưởng kinh tế dưới ảnh hưởng của ảo giác
tiền tệ
1
1.1Giới thiệu
3
1.2Các nghiên cứu liên quan
5
1.3Mô hình
1.3.1 Môi trường . . . . . . . . . . .
1.3.1.1 Sở thích . . . . . . . . .
1.3.1.2 Kĩ thuật tạo thu nhập .
1.3.1.3 Chính sách tiền tệ . . .
1.3.1.4 Cân bằng . . . . . . . .
1.3.2 Quyết định tiêu dùng/tiết kiệm
1.3.3 Cân bằng . . . . . . . . . . . .
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
8
8
8
10
10
11
11
17
1.4Định lượng tác động của ảo giác tiền tệ
20
1.4.1 Tổn thất phúc lợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
1.4.2 Triệt tiêu phí tổn của ảo giác tiền tệ . . . . . . . . . . . . . . 27
1.5Kết luận
31
2 Tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và ảo giác
tiền tệ tại Việt Nam
45
2.1Thu thập và xử lý dữ liệu
45
2.2Kết quả nghiên cứu
50
2.2.1 Phân tích kết quả . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 50
i
2.2.1.1 Thay đổi của tổn thất phúc lợi . . . . . .
2.2.1.2 Thay đổi của tỉ lệ phần trăm tăng trưởng
2.2.1.3 Sự tham gia của tham số tránh rủi ro γ . .
2.2.2 Triệt tiêu tác động của ảo giác tiền tệ . . . . . . .
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
50
55
57
60
2.3Kết luận
65
2.3.1 Tóm tắt kết quả chính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 65
2.3.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp . . . . . . . . . . . . . . . . 65
Tài liệu
67
Bảng biến số
71
ii
Danh sách bảng
2.1
2.2
2.3
GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam từ 1984 - 2014 46
Tỉ lệ lạm phát của Việt Nam từ 1996 - 2015 . . . . . . . . . . 48
Bộ tham số cơ bản cho trường hợp Việt Nam . . . . . . . . . . 49
iii
Danh sách hình vẽ
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
2.13
2.14
2.15
2.16
2.17
2.18
Tổn thất phúc lợi và hiệu ứng tăng trưởng của ảo giác tiền tệ.
Chúng tôi đặt các tham số γ = 2, A = 0.0644, ρ = −ln (0.98) ,
σk = 0.0204 và π = 0.0425. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hiệu ứng của ảo giác tiền tệ ở các tỉ lệ lạm phát kì vọng
khác nhau. Chúng tôi đặt các tham số γ = 2, A = 0.0644,
ρ = −ln (0.98) , σk = 0.0204. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hiệu ứng của ảo giác tiền tệ tại các độ tránh rủi ro khác
nhau. Chúng tôi đặt các tham số A = 0.0644, ρ = −ln (0.98) ,
σk = 0.0204 và π = 0.0425. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lãi suất danh nghĩa tối thiểu hóa tổn thất và tỉ lệ lạm phát
kì vọng. Chúng tôi đặt các tham số γ = 2, A = 0.0644, ρ =
−ln (0.98) , và σk = 0.0204. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tác động của tham số tránh rủi ro lên lãi suất danh nghĩa tối
thiểu hóa tổn thất và tỉ lệ lạm phát kì vọng. Chúng tôi đặt
các tham số A = 0.0644, ρ = −ln (0.98) , và σk = 0.0204. . . .
Chương trình tính tổn thất phúc lợi và vẽ đồ thị . . . . . . . .
Chương trình kiểm chứng lại trường hợp Hoa Kỳ . . . . . . .
Đồ thị kiểm chứng lại trường hợp Hoa Kỳ . . . . . . . . . . .
Chương trình tính tổn thất phúc lợi trường hợp Việt Nam . .
Đồ thị tổn thất phúc lợi - trường hợp Việt Nam . . . . . . . .
Đồ thị tổn thất phúc lợi - trường hợp Việt Nam (đã điều chỉnh)
Tác động lên tăng trưởng kinh tế của ảo giác tiền tệ - trường
hợp Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Chương trình tính sự phụ thuộc của biến số γ . . . . . . . . .
Đồ thị biểu diễn phụ thuộc của γ lên tăng trưởng kinh tế . . .
Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của γ lên tổn thất phúc lợi . . .
Chương trình tính giải pháp triệt tiêu tác động ảo giác tiền tệ
Phần trăm lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh (theo γ) . . .
Lạm phát kì vọng được điều chỉnh (theo γ) . . . . . . . . . . .
iv
24
25
26
28
30
51
51
52
52
53
55
56
58
59
60
62
63
64
Chương 1
Tăng trưởng kinh tế dưới ảnh
hưởng của ảo giác tiền tệ
1
Tăng trưởng kinh tế dưới ảnh hưởng của ảo
giác tiền tệ
Jianjun Miao∗
Danyang Xie†
Ngày 24 tháng 11 năm 2016
Tóm tắt
Các bằng chứng cả lí thuyết và thực nghiệm đều chỉ ra ảo giác tiền tệ là dai
dẳng và phổ biến. Bài báo này đưa khái niệm ảo giác tiền tệ vào một mô
hình tiền tệ ngẫu nhiên với thời gian liên tục có tăng trưởng nội sinh. Chúng
tôi mô hình hóa hành vi của một đối tượng bị ảo giác tiền tệ bằng giả định
rằng anh ta tối đa hóa tiện ích một cách không tiêu chuẩn do phát sinh từ cả
giá trị thực và giá trị danh nghĩa. Ảo giác tiền tệ ảnh hưởng đến nhận thức
của đối tượng về tăng trưởng và khả năng mạo hiểm đối với tài sản thực, vì
vậy làm sai lệch quyết định tiêu dùng/tiết kiệm của anh ta. Nó ảnh hưởng
đến tăng trưởng dài hạn thông qua cơ chế này. Chúng tôi cho thấy rằng tổn
thất phúc lợi của ảo giác tiền tệ là không đáng kể, trong khi ảnh hưởng của
nó đối với tăng trưởng dài hạn thì đáng lưu tâm thậm chí ngay khi độ ảo
giác tiền tệ ở mức thấp.
∗
Liên hệ tác giả tại: Khoa kinh tế, đại học Boston, 270 Bay State, Boston, MA 00215,
Hoa Kỳ,
CEMA, Trung tâm đại học tài chính và kinh tế và AFR, đại học Triết Giang, Trung Quốc
Tel: +1 617 353 6675, email: (J. Miao),
†
Khoa kinh tế, đại học khoa học và kĩ thuật Hongkong, Clear Water Bay, Kowloon,
Hong Kong,
Tel.: +852 2358 7615, email:
2
1.1
Giới thiệu
Thuật ngữ ảo giác tiền tệ mô tả cho hiện tượng con người nhầm lẫn giữa
giá trị danh nghĩa và giá trị thực. Khái niệm này đã được đặt ra bởi Irving
Fisher trong cả cuốn sách của ông nói về chủ đề này (Fisher, 1928). Sự hiện
diện của ảo giác tiền tệ thường làm xuất hiện tính bất quân bình trong ngắn
hạn của tiền tệ đối với các kinh tế gia trường phái Keynesian và một số nhà
lí thuyết định lượng như Fisher1 . Tuy nhiên, ảo giác tiền tệ thường được xem
như phi lí trí và gây thiệt hại kinh tế cho người đưa ra quyết định, vì vậy
các nhà kinh tế đã không sử dụng ảo giác tiền tệ trong phân tích chính thức,
ngoại trừ 2 kinh tế gia Akerlof and Yellen (1985b,a). Sự quan tâm đối với ảo
giác tiền tệ đã được khơi lại bởi nhiều nghiên cứu cả thực nghiệm và kinh
nghiệm từ giữa thập niên 1990, có thể kể đến các nghiên cứu lí thuyết của
Akerlof et al. (1996, 2000) về đường Phillips, Piazzesi and Schneider (2008)
về thị trường nhà, và Basak and Yan (2010) về hành vi nhà đầu tư.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi mở rộng mô hình dựa trên sở thích của
Basak and Yan (2010) và kết hợp sự mở rộng này vào một mô hình tăng
trưởng nội sinh. Chúng tôi nghiên cứu làm thế nào sự hiện diện của ảo giác
tiền tệ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
dài hạn. Tăng trưởng nội sinh được sử dụng thông qua mô hình AK một
thời kì (one-sector AK framework) của Jones and Manuelli (1990) và Rebelo
(1990). Tiền tệ được đưa vào thông qua hàm MIU (mony-in-the-utility) của
Sidrauski (1967a,b)2 . Chúng tôi chỉ ra rằng ảo giác tiền tệ ảnh hưởng đến
nhận thức của đổi tượng về tăng trưởng và khả năng mạo hiểm đối với tài
sản thực, vì vậy làm sai lệch quyết định tiêu dùng/tiết kiệm của anh ta. Theo
trực giác, tài sản thực bao gồm các cân bằng tiền tệ thực. Một đối tượng bị
ảo giác tiền tệ đánh giá cả giá trị thực và giá trị danh nghĩa, vì vậy cả lạm
phát kì vọng và lạm phát đều có ảnh hưởng một cách không chắc chắn đến
các quy luật quyết định của anh ta.
Mô hình của chúng tôi dễ sử dụng và cho phép chúng tôi suy được các
giải pháp cho mô hình đóng. Tuy vậy, nó cũng đủ đa dạng để cân chỉnh và
đánh giá định lượng. Chúng tôi đã chứng minh được tổn thất phúc lợi của ảo
1
Theo các nhà kinh tế Keynesian (Keynes, 1936; Leontief, 1936), người lao động chịu
ảnh hưởng của ảo giác tiền tệ. Nguồn cung lao động phụ thuộc vào mức lương danh nghĩa
trong khi nguồn cầu phụ thuộc vào mức lương thực. Một sự gia tăng trong mức giá sẽ
nâng điểm cân bằng lao động.
2
Để củng cố kết quả, chúng tôi cũng phân tích mô hình theo giới hạn tiêu dùng cashin-advance (CIA). Chúng tôi tìm được cùng một kết quả (xem phụ lục B)
3
giác tiền tệ là một hàm số ít nhất bậc 2, trong khi tác động lên tăng trưởng
kinh tế dài hạn là hàm số bậc 1 đối với biến số ảo giác tiền tệ. Khi áp dụng
mô hình vào số liệu kinh tế hàng năm của Hoa Kỳ từ 1960 đến 2006, chúng
tôi nhận ra rằng kể cả khi mức độ ảo giác tiền tệ là thấp, ví dụ đối tượng đại
diện bị ảnh hưởng chỉ 5% giá trị danh nghĩa vào quá trình ra quyết định, thì
khi đó tổn thất phúc lợi bị ảnh hưởng không đáng kể ở mức 0.06% thu nhập
thực tế, trong khi ảo giác này làm giảm tỉ lệ tăng trưởng kinh tế đáng ghi
nhận ở mức 0.11 điểm phần trăm. Kết quả này bổ sung cho kết quả nghiên
cứu của Basak and Yan (2010)3 , và làm gợi nhớ lại kết luận của Keynesian
rằng một sự sai lệch nhỏ trong lí trí thuần túy chỉ làm phúc lợi tổn thất ở
mức thấp, nhưng có thể có tác động đáng kể lên hậu quả kinh tế Akerlof
(2002); Akerlof and Yellen (1985a); Mankiw (1985).
Chúng tôi diễn giải trong lí thuyết, nhà ban hành chính sách tiền tệ có
thể chọn mức tăng trưởng của cung tiền phù hợp để triệt tiêu tổn thất gây
ra bởi ảo giác tiền tệ bằng cách điều chỉnh lại các sai lệch ở quyết định tiêu
dùng/tiết kiệm. Chính sách tiền tệ này bao gồm cả một tỉ lệ lạm phát kì
vọng khác 0 hoặc một lãi suất danh nghĩa hằng định sao cho sự sai lệch do
việc đối tượng quan niệm sai lầm về tăng trưởng và rủi ro của tài sản thực
bù trừ lẫn nhau.
Có thể lập luận rằng ảo giác tiền tệ sẽ không còn trong mô hình dài hạn
bởi vì khi đó đối tượng đã nhận thức được. Tuy nhiên, như Shafir et al.
(1997) đã lập luận, ảo giác tiền tệ xuất hiện trong phần lớn các trường hợp
bởi vì một cá nhân suy nghĩ dựa trên giá trị danh nghĩa thì dễ dàng và tự
nhiên hơn là suy nghĩ về giá trị thực. Khuynh hướng này tồn tại dai dẳng,
mặc cho sự cố gắng của nhà kinh tế trong việc cải thiện nhận thức của công
chúng. Akerlof et al. (2000) đã sử dụng nhiều bằng chứng tâm lí học để chứng
minh rằng chính lạm phát cao, chứ không phải thời gian, mới làm xua tan
ảo giác tiền tệ. Lạm phát cao dễ bị chú ý nên người ta sẽ chủ động phân biệt
sự khác nhau giữa giá trị danh nghĩa và giá trị thực. Kết quả định lượng của
chúng tôi ủng hộ quan điểm tâm lí học này. Chúng tôi nhận thấy rằng tổn
thất phúc lợi của ảo giác tiền tệ là nhỏ khi lạm phát thấp. Tổn thất này tăng
một cách không tuyến tính theo tỉ lệ lạm phát kì vọng và trở thành tổn thất
lớn khi lạm phát cao.
Mô hình của chúng tôi làm sáng tỏ quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát4 .
3
Basak and Yan (2010) minh họa rằng tổn thất phúc lợi của ảo giác tiền tệ đối với nhà
đầu tư là nhỏ trong một môi trường bình thường, trong khi tác động của nó lên cân bằng
là đáng ghi nhận.
4
Chúng tôi lưu ý rằng cả lạm phát và tăng trưởng kinh tế đều nội sinh. Mối quan hệ
4
Trong khi một số nhà nghiên cứu tìm được bằng chứng rằng mối quan hệ này
nghịch biến (Barro, 1996; Chari et al., 1995), các nghiên cứu thực nghiệm
khác chỉ ra rằng mối quan hệ này không bền vững (Bullard and Keating,
1995; Sarel, 1996; Bruno and Easterly, 1998; Dotsey and Sarte, 2000; Fischer
et al., 2002; Khan and Ssnhadji, 2001). Chúng tôi chứng minh được mối quan
hệ này phụ thuộc vào thái độ của đối tượng đại diện với rủi ro hoặc độ co
dãn thay thế liên thời gian [elasticity of intertemporal substitution]5 . Trong
trường hợp đặc biệt, tăng trưởng và lạm phát quan hệ nghịch biến (đồng
biến) khi độ lớn của tham số tránh rủi ro lớn hơn (nhỏ hơn) đơn vị. Mối
quan hệ này độc lập khi độ lớn của tham số tránh rủi ro bằng đơn vị.
Phần tiếp theo của bài báo này được trình bày như sau. Trong phần 2,
chúng tôi khảo sát các nghiên cứu có liên quan và chỉ ra tính phù hợp của
mô hình của chúng tôi. Trong phần 3, chúng tôi nghiên cứu một mô hình
MIU trong tăng trưởng nội sinh có sự hiện diện của ảo giác tiền tệ. Trong
phần 4, chúng tôi phân tích các tác động định lượng của ảo giác tiền tệ và
thảo luận về chính sách tiền tệ sao cho triệt tiêu được tổn thất phúc lợi gây
ra bởi ảo giác tiền tệ. Chúng tôi kết luận trong phần 5, các chứng minh và
các chi tiết kĩ thuật được trình bày trong phần phụ lục.
1.2
Các nghiên cứu liên quan
Nghiên cứu của chúng tôi liên quan đến 2 xu hướng lí thuyết. Thứ nhất, nó
liên quan đến lí thuyết về ảo giác tiền tệ, vào thời kì đầu của tiên của thế kỉ
206 . Fisher (1928) định nghĩa ảo giác tiền tệ như là "một sự thất bại trong
nhận thức đồng đô la, hay bất kì đơn vị tiền tệ nào, đang mở rộng hoặc thu
hẹp giá trị". Leontief (1936) định nghĩa sẽ không có ảo giác tiền tệ nếu các
hàm số cung và cầu cùng thuần nhất bậc 0 với giá danh nghĩa. Điều này
Leontief (1936) đã gọi là "nguyên lý thuần nhất" (homogeneity postulate).
Bắt đầu từ Haberler and Haberler (1941), các tác giả khác đã sử dụng thuật
ngữ ảo giác tiền tệ như là một khái niệm phá vỡ "nguyên lí thuần nhất" ở
trên. Patinkin (1965) chỉ ra rằng việc sử dụng như thế này sẽ không chính
xác khi có tính đến hiệu ứng cân bằng thực (real balance effect). Patinkin
giữa chúng liên quan mật thiết đến mối quan hệ giữa tăng trưởng tiền tệ và tăng trưởng
sản lượng bởi vì lạm phát được xác định bởi tăng trưởng tiền tệ.
5
Trong hàm tiện ích của chúng tôi, mức độ tránh rủi ro tương đối bằng nghịch đảo của
độ co dãn thay thế liên thời gian.
6
Xem Howitt (1987) để có một tổng quan lí thuyết về ảo giác tiền tệ.
5
(1965) định nghĩa rằng "một cá nhân được xem như là chịu ảnh hưởng của
ảo giác đó nếu hàm cầu thuần hàng hóa của anh ta không duy nhất phụ
thuộc vào tương quan giữa giá cả và tài sản thực"
Trong một mô hình tĩnh, sự thiếu vắng của ảo giác tiền tệ, theo Patinkin,
tương đương với hành vi tiêu dùng có lí trí. Cho hàm cầu của một người
là x∗i (p1 , ..., pn , W ) với các hàng hóa i = 1, ..., n, cùng với hàm cầu tiền là
M ∗ (p1 , ..., pn , W ), hàm tiện ích được tối đa hóa U (x1 , ..., xn ; M, p1 , ..., pn ) sao
cho thỏa mãn phương trình ngân sách p1 x1 + ... + pn xn + M = W , với W
là tài sản danh nghĩa ban đầu. Hàm tiện ích bao gồm tiền M và giá danh
nghĩa pi bởi vì tiền được giả định như có thể sinh ra những dịch vụ ẩn có
giá trị phụ thuộc vào giá cả7 . Hàm U được gọi là không có ảo giác nếu nó
thuần nhất bậc 0 với (M, p1 , ..., pn ). Dễ dàng chứng minh được x∗i không có
ảo giác theo cách diễn giải của Patinkin khi và chỉ khi các biến này có thể
suy ra từ hàm U không có ảo giác (xem Dusansky and Kalman 1974; Howitt
and Patinkin 1980). Sử dụng lí thuyết sở thích bộc lộ trong môi trường tĩnh,
L¨offler (2001) đưa ra một nền tảng tiên đề cho một hàm tiện ích để trình
bày một hàm cầu vi phạm thuộc tính thuần nhất bậc 0 của tài sản, từ đó
làm xuất hiện ảo giác tiền tệ. Ông ấy đã chứng minh hàm tiện ích này phụ
thuộc vào thịnh vượng danh nghĩa.
Mô hình của chúng tôi về ảo giác tiền tệ kế thừa những nghiên cứu trước
đây và mở rộng nó trong môi trường động. Môi trường của chúng tôi liên hệ
mật thiết với mô hình của Basak and Yan (2010) và bao hàm cả mô hình
đó như một trường hợp đặc biệt. Có những xu hướng tiếp cận mô hình khác
trong các nghiên cứu gần đây. Akerlof et al. (2000) giả định rằng năng suất
của một doanh nghiệp phụ thuộc vào lương danh nghĩa mà doanh nghiệp
đó trả so với một mức lương danh nghĩa được tham khảo. Một mức lương
tham khảo doanh nghĩa của doanh nghiệp bị ảo giác đánh giá thấp lạm phát.
Trong một mô hình lương có hiệu quả, Shafir et al. (1997) mô hình hóa ảo
giác tiền tệ bằng cách giả định nỗ lực người lao động bị ảo giác không chỉ
phụ thuộc vào mức lương thực, mà còn vào tỉ lệ giữa mức lương danh nghĩa
hiện tại và mức lương danh nghĩa trong quá khứ. Trong mô hình 2 thời kì,
Cohen et al. (2005) giả định rằng (i) một đối tượng bị ảo giác tiền tệ tối đa
hóa tiện ích kì vọng thông qua tài sản danh nghĩa thay vì tài sản thực, và
(ii) đối tượng này tin rằng tăng trưởng danh nghĩa của tài sản doanh nghiệp
7
Có những lí do khác giải thích vì sao sở thích phụ thuộc vào giá cả. Ví dụ, Pollak
(1977) và Veblen (1899) tham luận rằng mọi người nhận định chất lượng thông qua giá
cả hoặc giá cao làm cho hàng hóa trở nên đáng giá hơn.
6
không phụ thuộc vào lạm phát. Piazzesi and Schneider (2008) giả định một
đối tượng bị ảo giác tiền tệ có một hàm tiện ích tiêu chuẩn của tiêu dùng
thực, nhưng đối tượng này tin tưởng một cách sai lệch rằng lợi nhuận danh
nghĩa của một tài sản không phụ thuộc vào lạm phát.
Thứ hai, nghiên cứu của chúng tôi liên quan đến mảng nghiên cứu về mối
quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát. Hầu hết các nghiên cứu trong mảng
này là thực nghiệm và cung cấp chứng cứ hỗn hợp về mối quan hệ này. Mô
hình lí thuyết tiêu chuẩn không thể lí giải được chứng cứ này. Như đã đề
cập trong phần giới thiệu, Barro (1996) và Chari et al. (1995) báo cáo mối
quan hệ là nghịch biến. Chari et al. (1995) sử dụng 4 dạng của mô hình tăng
trưởng nội sinh (mô hình Ak một thời kì, mô hình AK 2 thời kì, mô hình
vốn nhân lực của Lucas (1988), và mô hình hiệu ứng ngoại lai của Romer
(1986)) để giải thích về mối quan hệ nghịch biến này. Họ tranh luận rằng vấn
đề của các mô hình chuẩn có lẽ do giả định giới hạn tiêu chuẩn của chúng
rằng tất cả tiền tệ được nắm giữ công khai để thực hiện giao dịch. Khi mô
hình được điều chỉnh sao cho ngân hàng có vai trò giữ tiền, mô hình cho kết
quả tốt hơn. Jones and Manuelli (1995) nghiên cứu 2 mô hình phát triển nội
sinh (mô hình AK và mô hình Lucas, 1988) với cầu tiền được đưa vào thông
qua các ràng buộc CIA (cash-in-advance). Họ đã chỉ ra mối quan hệ giữa
lạm phát và tăng trưởng phụ thuộc vào lạm phát có ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư hay không.
Một vài nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng mối quan hệ nghịch biến
giữa tăng trưởng và lạm phát là không vững chắc (Bullard and Keating,
1995; Sarel, 1996; Bruno and Easterly, 1998; Dotsey and Sarte, 2000; Fischer
et al., 2002; Khan and Ssnhadji, 2001). Bullard and Keating (1995) cho thấy
một cú sốc lạm phát thường xuyên không tương quan với một thay đổi
thường xuyên của đầu ra thực ở hầu hết các quốc gia được nghiên cứu. Sarel
(1996) tìm được bằng chứng về một điểm gãy cấu trúc của hàm số liên hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Dotsey and Sarte (2000) đưa ra một
mô hình tăng trưởng AK nội sinh với ràng buộc CIA và chính sách tiền tệ
không chắc chắn. Họ cho thấy lạm phát và tăng trưởng nghịch biến trong
dài hạn nhưng lại đồng biến trong ngắn hạn.
Nghiên cứu của chúng tôi đóng góp vào cả 2 xu hướng lí thuyết ở trên.
Trong giới hạn hiểu biết của mình, nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu
đầu tiên khám phá ra tác động của ảo giác tiền tệ lên mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát.
7
1.3
Mô hình
Đầu tiên, chúng tôi sẽ giới thiệu môi trường mô hình và sau đó phân tích bài
toán tối ưu hóa của đối tượng. Sau cùng, chúng tôi mô tả đặc điểm của cân
bằng tiền tệ có cạnh tranh.
1.3.1
Môi trường
Chúng tôi xem xét một nền kinh tế bao gồm một đối tượng nghiên cứu đại
diện và 1 nhà ban hành chính sách tiền tệ. Thời gian trong mô hình là liên
tục và không giới hạn. Để tạo được tăng trưởng dài hạn nội sinh, chúng tôi sử
dụng mô hình AK một thời kì đơn giản (Jones and Manuelli, 1990; Rebelo,
1990). Mô hình này dễ phân tích và được sử dụng rộng rãi trong các nghiên
cứu về quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát (Dotsey and Sarte, 2000; Chari
et al., 1995). Không giống như mô hình AK tất định tiêu chuẩn (standard
deterministic AK model), chúng tôi đưa yếu tố bất định vào kĩ thuật sản
xuất giống như Eaton (1981) để làm rõ cách thức một môi trường bất định
có thể khuếch đại tác động của ảo giác tiền tệ. Tại mỗi điểm thời gian, đối
tượng nghiên cứu quyết định tiêu dùng bao nhiêu và đầu tư bao nhiêu tổng
tài sản vào vốn sản xuất, trái phiếu danh nghĩa và tiền mặt. Trái phiếu danh
nghĩa có một lãi suất danh nghĩa cơ bản R và đang ở trạng thái cân bằng thị
trường. Lãi suất danh nghĩa R là nội sinh và là một hằng số trong cân bằng.
1.3.1.1
Sở thích
Để xác định vai trò của tiền tệ, chúng tôi sử dụng công thức Sidrauski
(1967a,b) của hàm Money-In-the-Utilty (MIU). Cụ thể, đối tượng nghiên
cứu tạo ra tiện ích phát sinh từ tiêu dùng và tiền mặt. Không giống như
công thức tiêu chuẩn, chúng tôi giả định đối tượng nghiên cứu chịu ảnh
hưởng của ảo giác tiền tệ. Để kiểm soát được ảo giác tiền tệ này, chúng tôi
sử dụng hàm số tiện ích kì vọng có tính đến yếu tố thời gian như sau:
∞
ˆ
E
e−ρt U (ct , Mt , Pt )dt
(1)
0
với (ct ), (Mt ) và (Pt ) lần lượt là chuỗi tiêu dùng, tiền mặt và giá cả. Như
trong phần 2, chúng tôi định nghĩa hàm U không có ảo giác nếu nó thỏa mãn
8
tính thuần nhất bậc 0 đối với M và P . Như vậy, để có ảo giác tiền tệ trong
mô hình, thuộc tính thuần nhất bậc 0 này phải được phá bỏ.
Bởi vì chúng tôi phân tích tăng trưởng trong dài hạn, chúng tôi cần một
hàm tiện ích để thỏa mãn thuộc tính thuần nhất trong tiêu dùng (certain
homogeneity property in consumption). Yêu cầu này đưa chúng tôi đến một
dạng đặc biệt của hàm CES
U (c, M, P ) =
1
(α c1−θ (P c)θ
1−γ
1−ϕ
+ (1 − α) (M/P )1−θ M θ
1−ϕ (1−γ)/(1−ϕ)
)
(2)
với γ > 0 là tham số tránh né rủi ro, 1/ϕ > 0 là độ co giãn thay thế giữa
tiêu dùng và tiền mặt, và α ∈ (0, 1) đại diện cho tỉ trọng tương đối giữa tiêu
dùng và tiền mặt. Tham số quan trọng nhất θ ∈ [0, 1] đại diện cho độ ảo
giác tiền tệ. Trong trường hợp θ = 0 là không có ảo giác và trường hợp θ = 1
có nghĩa là ảo giác hoàn toàn. Có thể giải nghĩa như sau: đối tượng nghiên
cứu chịu ảnh hưởng của cả giá trị thực và giá trị danh nghĩa, với giá trị của
θ được tính theo giá trị danh nghĩa. Điều này phù hợp với cách giải thích
theo nghĩa tâm lí học của ảo giác tiền tệ của Shafir et al. (1997), trong đó họ
đã đưa ra lập luận rằng “mọi người đều nhận thức được sự khác nhau giữa
giá trị thực và giá trị danh nghĩa, nhưng trong một thời điểm riêng lẻ, hoặc
một thời gian ngắn, tiền là một đơn vị dễ nhận biết và tự nhiên, mọi người
thường thiên về giá trị danh nghĩa khi giao dịch. Kết quả là, mức giá của
giao dịch thường là một sự pha trộn giữa giá trị danh nghĩa và giá trị thực.
Điều này dẫn đến ảo giác tiền tệ”. Chúng ta không nên hiểu về mô hình giá
trị theo nghĩa đối tượng thích mức giá cao. Thay vào đó, hàm giá trị cho
thấy một đối tượng bị ảo giác tạo ra tiện ích từ sự pha trộn nhận thức sai
lệch của anh ta về tiêu dùng thực và tiêu dùng danh nghĩa, c1−θ (P c)θ , cũng
như cân bằng tiền tệ thực và danh nghĩa, (M/P )1−θ M θ
Công thức CES ở trên tương đồng với một vài trường hợp nổi tiếng. Trong
trường hợp γ = 1 tương đương với hàm tiện ích logarit, và trường hợp ϕ = 1
tương đương với công thức sau:
U (c, M, P ) =
1
(cα (M/P )1−α )1−γ P θ(1−γ)
1−γ
(3)
Cho θ = 0, hàm này được sử dụng bởi Fischer (1979) trong nghiên cứu về
đường chuyển đổi của tích lũy tư bản, và bởi Lucas Jr (2001) trong nghiên
cứu về tổn thất phúc lợi của lạm phát. Khi chúng tôi nghiên cứu về mô hình
9
CIA trong phụ lục B, tiền tệ không được đưa vào hàm tiện ích. Vì vậy, chúng
tôi sử dụng dạng đặc biệt sau:
U (c, M, P ) =
[c1−θ (P c)θ ]1−γ
1−γ
(4)
Hàm này được sử dụng đầu tiên bởi Basak and Yan (2010) trong một mô
hình kinh tế trao đổi thuần túy. Phương trình của chúng tôi ở (2) mới và
khái quát phương trình được sử dụng bởi Basak and Yan (2010).
1.3.1.2
Kĩ thuật tạo thu nhập
Giả định đối tượng được nghiên cứu của chúng tôi sử dụng một kĩ thuật có
lợi nhuận thu được giới hạn trong một phạm vi. Cụ thể, với kt đơn vị vốn
thực ở thời điểm t, kĩ thuật này đem về một kết quả kinh tế có tính ngẫu
nhiên theo dạng của chuyển động Brown hình học như sau:
dyt = Akt dt + kt σk dzt
(5)
trong khoảng thời gian dt, với A > 0, σk > 0 và (zt ) là một chuyển động
Brown tiêu chuẩn (cụ thể, dzt là một biến ngẫu nhiên độc lập có phân phối
chuẩn với trung bình bằng 0 và phương sai bằng dt). Ở đây, dzt đại diện
cho một cú sốc cung. Để đơn giản hóa, chúng tôi giả định vốn không bị sụt
giá. Đặc điểm này là cốt yếu để việc tính toán có thể khả thi cho ra kết quả
trong một mô hình động và không chắc chắn như trên. Điều này đã được sử
dụng bởi Eaton (1981), Turnovsky (1993) và Rebelo and Xie (1999) cùng với
những người khác.
1.3.1.3
Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ được giả định là có tăng trưởng tiền tệ đơn giản, sao cho
cung tiền Mt , thỏa mãn phương trình
dMt = µMt dt
(6)
với µ > 0 là hằng số tăng trưởng tiền tệ. Bất kì chính sách cung tiền nào
cũng được thực hiện bởi một chính sách lưu chuyển tài khóa, nghiệp vụ thị
trường mở, hoặc cả hai. Tại điểm khởi đầu, chúng tôi giả định rằng đối tượng
nghiên cứu sử dụng lưu chuyển trọn gói (một lần, bao gồm thuế, phí, các
khoản viện trợ...) theo thời gian thực (real lump-sum transfers), như sau:
10
vt = µ
Mt
Pt
(7)
Những giả định khác cách thực hiện tăng trưởng cung tiền có thể đẫn
đến những kết luận khác nhau về mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
Vi dụ, thực hiện tăng cung tiền để hỗ trợ cho việc hình thành tư bản hoặc
giảm thiểu các biến dạng do thuế có thể thúc đẩy tăng trưởng.
1.3.1.4
Cân bằng
Một cân bằng tiền tệ có cạnh tranh bao gồm các tiến trình ngẫu nhiên (ct ),
(kt ), (Bt ), (Pt ), và R phải thỏa mãn các điều kiện sau:
1. đối tượng nghiên cứu tối ưu hóa tiện ích bằng cách đưa phương trình
(1) và (2) áp dụng vào giới hạn ngân sách
dkt +
RBt
dBt dMt
+
= (Akt − ct )dt + kt σt dzt +
dt + vt dt
Pt
Pt
Pt
(8)
với k0 được cho trước,
Pt biểu thị mức giá ngày t,
Bt và Mt tỉ lệ trái phiếu và tiền mặt nắm giữ ngày t,
vt biểu thị giá trị thực ngày t của lưu chuyển tiền tệ. Nếu vt < 0, có
nghĩa là thuế trọn gói
2. Tất cả các thị trường được đơn giản hóa với Bt = 0, Mt = Mt tại bất
kì thời điểm t nào, khi đó
dkt = (Akt − ct )dt + kt σt dzt
(9)
3. Chính sách tiền tệ thỏa mãn các phương trình (6) và (7)
1.3.2
Quyết định tiêu dùng/tiết kiệm
Để giải quyết vấn đề cân bằng tiền tệ có cạnh tranh, trước tiên, chúng tôi
sẽ giải quyết vấn đề lựa chọn của đối tượng nghiên cứu bằng phương pháp
quy hoạch động với giá cả và lưu chuyển tiền tệ đã xác định ở trên. Vì vậy,
chúng tôi cần xác định chuyển động của mức giá Pt và lưu chuyển tiền tệ vt .
11
Chúng tôi ước đoán quy luật cân bằng của chuyển động của Pt tuân theo
chuyển động Brown hình học
dPt
= πdt − σP dzt
Pt
(10)
P0 = 1, σP > 0
với dzt , đại diện cho cú sốc cung, là biến bất định duy nhất trong mô
hình này. Trong phương trình phỏng đoán (10), tỉ lệ lạm phát kì vọng
(1/dt)E[dPt /Pt ] bằng hằng số π và tỉ lệ lạm phát không được kì vọng được
biểu thị bằng −σP dzt . Ở phần sau, chúng tôi sẽ tính toán π và σP và xác
nhận ước đoán của phương trình (10) là đúng trong cân bằng
Lưu ý là dấu trừ (−) trong vế phải của phương trình (10) biểu thị ý nghĩa
rằng một cú shock cung có giá trị dương sẽ làm giảm mức giá.
Áp dụng bổ đề Ito, ta suy ra giá cả của tiền tệ, 1/Pt , cũng tuân theo
chuyển động Brown hình học:
d
1
Pt
=−
1
1
dPt + 3 (dPt )2 =
2
Pt
Pt
σP2
π
−
Pt
Pt
dt +
σP
dzt
Pt
(11)
Chúng tôi định nghĩa mức tài sản thực ròng của đối tượng nghiên cứu đối
với dòng lưu chuyển trọn gói trong tương lai như sau wt = kt +Bt /Pt +Mt /Pt .
Từ định nghĩa này ta suy ra:
dwt = dkt + d
Bt
Pt
+d
Mt
Pt
(12)
Suy ra từ bổ đề Ito, d(Mt /Pt ) và d(Bt /Pt ) được viết lại như sau:
d
và
d
Mt
Pt
=
dMt
+ Mt d
Pt
Bt
Pt
=
dBt
+ Bt d
Pt
1
Pt
1
Pt
(13)
(14)
Đến đây, chúng tôi sẽ sử dụng phương trình (11), (13) và (14) để viết lại
phương trình ngân sách của đối tượng nghiên cứu (8) như sau
dBt dMt
1
+
+ (Bt + Mt ) d
Pt
Pt
Pt
RBt
= (Akt − ct ) dt + kt σk dzt +
dt + vt dt + (wt − kt )
Pt
dwt = dkt +
12
(15)
σP2 − π dt + σP dzt
Đặt kt = φt wt và Bt /Pt = ψt wt , với φt và ψt sẽ được xác định sau. Suy
ra Mt /Pt = (1 − φt − ψt )wt . chúng tôi có thể viết lại phương trình ngân sách
(15) như sau
dwt = wt Aφt + Rψt + (1 − φt ) σP2 − π
+ vt − ct dt+[φt σk + (1 − φt ) σP ] wt dzt
(16)
chúng tôi ước đoán rằng trong cân bằng, φt có giá trị là một hằng số,
như sẽ chỉ ra ở phương trình (24) dưới đây. Bởi vì trong cân bằng, Bt = 0 và
ψt = 0, vì vậy chúng tôi có
Mt
= wt (1 − φ∗ )
Pt
(17)
Phương trình này có dạng giống như phương trình cầu tiền trong lí thuyết
định lượng tiền tệ bởi vì tài sản tỉ lệ với tổng thu nhập trong cân bằng. Áp
dụng bổ đề Ito vào phương trình này và kết hợp với hệ số khuếch tán trong
phương trình (17), chúng tôi đạt được
φ∗ σk + (1 − φ∗ )σP = σP
suy ra σP = σk . Khác với lạm phát kì vọng, giá cả thay đổi nghịch biến và tỉ
lệ một đối một với cú sốc cung. Kết quả này biểu thị một thực tế rằng hàm
sản lượng thì tuyến tính theo kt , và cầu tiền thực tỉ lệ với tài sản và vốn.
Tiếp theo, chúng tôi sẽ chuyển sang khảo sát biến thiên của lưu chuyển
vt . Lưu chuyển này phụ thuộc vào cân bằng của mức độ nắm giữ tiền mặt,
và phụ thuộc vào mức tổng tài sản của nền kinh tế, kí hiệu bằng w. Vì vậy
cần thiết phải tìm nguồn gốc biến thiên của tổng tài sản. Theo Rebelo and
Xie (1999), chúng tôi ước đoán tổng tài sản tuân theo quá trình khuếch tán:
dwt = f (wt ) dt + h (wt ) dzt
(18)
với f và h là những hàm sẽ được xác định sao cho nó phù hợp với mức tài
sản của đối tượng nghiên cứu, wt = wt . Trong trường hợp này, lưu chuyển
trọn gói thỏa mãn
vt = µM t /Pt = µwt (1 − φ∗ )
(19)
Chúng tôi giờ đã sẵn sàng để giải bài toán quy hoạch động của đối tượng
kinh tế, với 3 quy luật chuyển động (10), (15) và (18) lần lượt cho Pt , wt
và wt . Theo thông thường các biến mức tài sản của đối tượng và mức giá là
các biến trạng thái. Trong quá trình giải bài toán ra quyết định, đối tượng
13
nghiên cứu nhận lưu chuyển trọn gói. Vì vậy, anh ta phải tính đến quy luật
chuyển đổi của mức tổng tài sản. Điều này ngụ ý rằng mức tổng tài sản nên
là một biến trạng thái. Theo thuộc tính thuần nhất của hàm tiện ích, chúng
tôi ước đoán hàm giá trị có dạng như sau:
(w + βw)1−γ θ(1−γ)
P
J (w, w, P ) = b
1−γ
(20)
với b và β là các hằng số.
Sử dụng lí thuyết quy hoạch động chuẩn, hàm giá trị thỏa mãn phương
trình Hamilton-Jacobi-Bellman (HJB) sau:
0 = maxU (c, M, P ) − ρJ (w, w, P )
(21)
φ,ψ
+J1 (w, w, P ) w Aφ + Rψ + (1 − φ) σk2 − π + v − c
+J2 (w, w, P ) f (w) + J3 (w, w, P ) P π
1
1
1
+ J11 (w, w, P ) σk2 w2 + J22 (w, w, P ) [h (w)]2 + J33 (w, w, P ) [P σk ]2
2
2
2
2
+J12 (w, w, P ) h (w) wσk − J13 (w, w, P ) wP σk − J23 (w, w, P ) h (w) P σk
với U được định nghĩa trong phương trình (2). Giải phương trình này, ta
được:
Mệnh đề 1
Cho
θ (γ − 1)
σ2
ρ − (1 − γ) A 1
+ (1 − γ) σk2 +
π + k ((γ − 1) (2 − θ) − 1) > 0
γ
2
γ
2
(22)
Cho mức giá, mức tổng tài sản, và lưu chuyển lần lượt thỏa mãn phương
trình (10), (18) và (19), với σP = σk ,
η≡
f (w) = (A − η) w
h (w) = σk w
và
(23)
η
φ∗ = 1 −
R+
14
αR 1/ϕ
1−α
(24)
−µ
thì hàm giá trị được cho bởi phương trình (20) với b và β được cho bởi
b=η
−γ
R
1−α
γ−1
α
β =µ R+
(1−γ)ϕ/(1−ϕ)
(1−ϕ)/ϕ
αR
1−α
+ (1 − α)
−1
1/ϕ
αR
1−α
(25)
−µ
(26)
Hơn nữa, lãi suất danh nghĩa thỏa mãn
R = A + π − σk2 = A + π − σP2
(27)
Quy tắc tiêu dùng tối ưu được xác định bằng
c=
αR 1/ϕ
1−α
R+
αR
1−α
η
1/ϕ
(w + βw)
(28)
Quy tắc cầu tiền tối ưu được xác định bằng
η
M
=
αR
P
R + 1−α
1/ϕ
(w + βw)
(29)
Phương trình (27) là phương trình Fisher đã hiệu chỉnh cho các nhân tố
bất định. Nó cho thấy lãi suất danh nghĩa bằng với lãi suất thực kì vọng, A,
cộng với tỉ lệ lạm phát kì vọng trừ đi mức độ biến động của tỉ lệ lạm phát,
σP2 . Phương trình này được suy ra từ mô hình không arbitrage đơn giản. Khi
có sự hiện diện của lạm phát không kiểm soát, lãi suất danh nghĩa nói chung
là không bằng lãi suất thực kì vọng cộng với lạm phát kì vọng. Điều này dẫn
đến một thực tế là, nhìn chung, E(1/P ) = 1/E(P ) khi lạm phát là ngẫu
nhiên, xem (Fischer, 1975)
Quan trọng hơn, mệnh đề 1 xác nhận hàm ước đoán giá trị (20) là chính
xác. Mệnh đề 1 cũng mô tả đặc điểm của các quy luật ra quyết định của
đối tượng nghiên cứu. Để nói thêm về các luật ra quyết định này, chúng tôi
trước hết cần phân tích trường hợp đặc biệt với θ = 0. Trường hợp này mô
tả hành vi của các đối tượng thuần lí trí và không có ảo giác tiền tệ. Trong
trường hợp này, cũng giống như trong lý thuyết lựa chọn danh mục Merton
(1969), một đối tượng hoàn toàn lí trí tiêu dùng một phần cố định tài sản
của mình phân phối một phần cố định khác tài sản của mình dưới dạng tiền
15
mặt. Tổng tài sản trở thành, w + βw, bao gồm giá trị hiện tại không tính
được của các lưu chuyển và tài sản được giữ dưới dạng vốn, trái phiếu và tiền
mặt. Hai phần tài sản cố định trong phương trình (28) và (29) phụ thuộc vào
lãi suất danh nghĩa R, đại diện cho chi phí giữ tiền mặt. Chúng cũng phụ
thuộc vào biến η, đại diện cho xu hướng biên của tiêu dùng tài sản trong mô
hình tiêu dùng/tiết kiệm mà không có tiền tệ (Merton, 1969). Như đã đưa
ra ở phương trình (22), lợi nhuận A trong khoản đầu tư và độ biến động của
lợi nhuận σk2 có vai trò quan trọng trong xác định η. Tác động của chúng
đối với tiêu dùng thông qua η phụ thuộc vào mức độ của hệ số chấp nhận
rủi ro γ, biến số xác định mức độ tương quan của hiệu ứng thay thế và hiệu
ứng tài sản. Trong trường hợp đặc biệt, hiệu ứng tài sản chiếm ưu thế khi
γ > 1, vì vậy sự gia tăng của A và giảm của σk2 làm tăng tiêu dùng hiện tại.
Khi γ < 1, hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế vì vậy tạo nên kết quả ngược lại.
Trong trường hợp trung gian với γ = 1, cả 2 hiệu ứng triệt tiêu nhau vì vậy
sự thay đổi cơ hội đầu tư không ảnh hưởng đến tiêu dùng.
Tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét hành vi của đối tượng bị ảo giác tiền tệ
khi θ > 0. Mệnh đề 1 cho thấy tiêu dùng và cầu tiền biểu thị dạng hàm số
tương tự so với một đối tượng hoàn toàn lí trí với θ = 0. Điểm khác biệt căn
bản là biến số η trong phương trình (22) trở thành
θ(γ − 1) σ 2
θ(γ − 1)
π+
((γ − 1)(2 − θ) − 1)
γ
γ
2
Khái niệm này phản ánh ảnh hưởng của ảo giác tiền tệ và bao gồm 2
thành phần. Thành phần đầu tiên liên quan đến tỉ lệ lạm phát kì vọng và
phụ thuộc vào mức độ chấp nhận rủi ro và ảo giác tiền tệ. Nó tồn tại ngay
trong cả trường hợp tất định với σk = 0. Có thể hiểu một cách trực giác
như sau. Theo định nghĩa, tài sản thực bao gồm cân bằng tiền mặt thực bởi
vì wt = kt + Bt /Pt + Mt /Pt . Một đối tượng bị ảo giác tiền tệ định giá dựa
theo cả giá trị thực và giá trị danh nghĩa. Anh ta nhận thức sai lệch về tăng
trưởng của tài sản thực và đưa ra quyết định tiêu dùng/tiết kiệm dựa trên
cả giá trị thực và giá trị danh nghĩa. Kết quả là, lạm phát kì vọng ảnh hưởng
đến những quy tắc quyết định của anh ta. Thành phần thứ hai mô tả động
cơ phòng ngừa nhằm bảo vệ trước lạm phát không chắc chắn. Thành phần
sau phụ thuộc vào độ dao động của lạm phát, σP = σk , và độ chấp nhận
rủi ro cùng với ảo giác tiền tệ. Tóm lại, ảo giác tiền tệ biến dạng nhận thức
của chủ thể về tăng trưởng và khả năng mạo hiểm của tài sản thực. Độ biến
dạng toàn phần có mối tương quan dương với θ(γ − 1)/γ
16
Trong trường hợp tất định khi σk = 0, tỉ lệ lạm phát cũng tất định bởi
vìσk = σP = 0. Trong trường hợp này, tỉ lệ lạm phát kì vọng bằng tỉ lệ lạm
phát thực. Ảo giác tiền tệ khi ấy chỉ biến dạng nhận thức của chủ thể về
tăng trưởng của tài sản thực. Phương trình (22), chỉ ra khi γ > 1, tỉ lệ lạm
phát kì vọng cao hơn làm cho chủ thể bị ảo giác tiêu dùng nhiều hơn. Giải
thích theo trực giác là khi tỉ lệ lạm phát kì vọng π cao hơn dẫn đến tỉ lệ
tăng trưởng tài sản danh nghĩa cao hơn, và một chủ thể bị ảo giác tiền tệ
nhận thức sai về tăng trưởng nhanh của tài sản danh nghĩa là tăng trưởng
thực. Nhận thức như thế này có 2 hiệu ứng thay thế và hiệu ứng tài sản trái
ngược nhau. Khi γ > 1, hiệu ứng tài sản chiếm ưu thế vì vậy chủ thể lúc này
sẽ tiêu dùng nhiều hơn do ảnh hưởng của sự gia tăng của tỉ lệ lạm phát kì
vọng. Ngược lại, khi γ < 1, hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế vì vậy chủ thể
tiêu dùng ít hơn. Khi γ = 1, hiệu ứng tài sản và hiệu ứng thay thế triệt tiêu
lẫn nhau vì vậy chủ thể không phụ thuộc vào sự thay đổi của tỉ lệ lạm phát
kì vọng. Một phương pháp phân tích tương tự cũng được áp dụng đối với tác
động lạm phát kì vọng lên cầu tiền.
1.3.3
Cân bằng
Mệnh đề 2:
Giả sử điều kiện (22) thỏa mãn, π được xác định bởi
A−ρ 1
θ (γ − 1) σk2
+ (3 − γ) σk2 +
((γ − 1) (2 − θ) − 1)
γ
2
2γ
(30)
Đây là tỉ lệ lạm phát kì vọng cân bằng. Quy luật cân bằng động của mức
giá, mức tổng tài sản, và các lưu chuyển lần lượt thỏa mãn các phương trình
(10), (18) và (19), với σp = σk và các hàm f và h được định nghĩa ở (23).
Khi đó, cân bằng mức tiêu dùng và vốn cổ phiếu thỏa mãn c = ηk và
π=
γ
θ + (1 − θ) γ
µ−
c=
αR
1−α
1/ϕ
(1 − φ∗ ) w
M/P = (1 − φ∗)w
k = φ∗ w
17
(31)
Với φ∗ được định nghĩa ở phương trình (24). Hơn nữa, độ bốc hơi của tăng
trưởng vốn bằng σk và tỉ lệ tăng trưởng vốn kì vọng được tính bằng
g =A−η
(32)
Mệnh đề 2 xác nhận ước đoán của chúng tôi về hằng số lạm phát kì vọng,
π, được xác định bởi tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ, µ, là hằng số. Hơn nữa, khi
phương trình (22) được thỏa mãn, mệnh đề 2 cũng xác nhận những điều kiện
khác của mệnh đề 1. Kết quả là, mệnh đề 1 và 2 cùng nhau mô tả hoàn toàn
cân bằng trong mô hình MIU của chúng tôi. Bởi vì cân bằng giữa tiêu dùng
và vốn là tỉ lệ với tài sản thực, tiêu dùng và tài sản thực cũng tăng trưởng
với tỉ lệ g = A − η
Trong mệnh đề 1, chúng tôi đã thảo luận tính chất của cân bằng trong
trường hợp không có ảo giác tiền tệ (θ = 0). Trong trường hợp này, η nhận
giá trị
η0 ≡
ρ − (1 − γ) A 1
+ (1 − γ) σk2
γ
2
(33)
Kết quả là, phương trình (32) suy ra tỉ lệ tăng trưởng vốn kì vọng được
xác định bởi
g0 ≡
A−ρ 1
+ (γ − 1) σk2
γ
2
(34)
Vì vậy, chính sách tiền tệ không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và
phân phối thực. Tác động của nó lên sự thay đổi lạm phát đã được trình
bày ở phương trình (30). Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác khi
không có sự hiện diện của ảo giác tiền tệ (θ = 0) (ví dụ, Chang and Lai 2000;
Marquis and Reffett 1991; Rebelo and Xie 1999; Wang and Yip 1992)
Có nghi vấn rằng liệu sự trung tính của tiền tệ có còn đúng dưới tác động
của ảo giác tiền tệ nếu tiêu dùng và cân bằng tiền tệ thực tế có thể được
phân tách bằng hàm tiện ích. Hàm CES của chúng tôi như trong phương
trình (2) đưa ra sự gia tăng của khả năng phân tách khi γ = φ
U (c, M, P ) =
1
1−ϕ
α c1−θ (P c)θ
1−ϕ
+ (1 − α) (M/P )1−θ M θ
1−ϕ
,ϕ>
0
Cho γ = ϕ vào phương trình (22), chúng tôi suy ra được từ mệnh đề 1
và 2 rằng tỉ lệ tăng trưởng vốn được xác định bởi
18
ρ − (1 − ϕ) A 1
θ (ϕ − 1)
σ2
+ (1 − ϕ) σk2 +
π + k ((ϕ − 1) (2 − θ) − 1)
ϕ
2
ϕ
2
(35)
tỉ lệ này phụ thuộc vào tỉ lệ lạm phát kì vọng π, khi ϕ = 1. Vì vậy, tiền tệ là
không trung tính trong trường hợp này. Khi γ = ϕ = 1, hàm tiện ích tuyến
tính theo dạng log và hoàn toàn bị phân tách bởi c, P và M . Trong trường
hợp này, ảo giác tiền tệ không ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng và tiền
tệ thì trung tính thậm chí khi có sự hiện diện của ảo giác tiền tệ
Chúng tôi sẽ thảo luận về đặc tính của cân bằng khi có ảo giác tiền tệ
(θ > 0)8 . Trong trường hợp này, tỉ lệ lạm phát kì vọng cấu thành η, và vì vậy
ảnh hưởng đến phân phối thực và tăng trưởng kinh tế. Tác động này phụ
thuộc vào tham số tránh rủi ro γ. Trong trường hợp đặc biệt, khi γ > 1, có
một sự tương quan âm giữa tăng trưởng và lạm phát. Theo trực giác, một sự
gia tăng trong tỉ lệ lạm phát làm cho đối tượng bị ảo giác tiền tệ tiêu dùng
nhiều hơn và tiết kiệm ít hơn như đã trình bày trong mệnh đề 1. Vì vậy, nó
làm giảm tăng trưởng kinh tế. Kết quả sẽ ngược lại khi γ < 1. Trong trường
hợp γ = 1, lạm phát không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả của
chúng tôi liên quan với các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng. Trong khi một số nhà nghiên cứu tìm ra bằng chứng
của tương quan âm(ví dụ, Barro, 1996; Chari et al., 1995), những nghiên cứu
thực nghiệm khác chỉ ra rằng mối quan hệ này là không bền vững (ví dụ,
Bullard and Keating 1995; Sarel 1996; Bruno and Easterly 1998; Dotsey and
Sarte 2000; Fischer et al. 2002; Khan and Ssnhadji 2001). Kết quả của chúng
tôi đưa ra nguyên nhân căn bản của sự không bền vững này.
Trong trường hợp đặc biệt với σk = 0, từ phương trình (35) ta suy ra
được tỉ lệ tăng trưởng kinh tế:
g = A−
g =A−
ρ − (1 − γ) A θ (γ − 1)
−
π
γ
γ
(36)
So sánh phương trình (35) và (36), chúng tôi có thể thấy, khi không có sự
không chắc chắn, tác động của ảo giác tiền tệ chỉ làm biến dạng nhận thức
của đối tượng nghiên cứu về tăng trưởng tài sản thực. Khi có sự hiện diện
của sự không chắc chắn σk > 0, ảo giác tiền tệ có thêm tác động làm biến
8
Lưu ý khi γ = ϕ trong phương trình 2, hàm tiện ích thêm khả năng phân tách tiền
mặt và tiêu thụ dưới ảnh hưởng của ảo giác tiền tệ. Phân tích của chúng tôi bao hàm cả
trường hợp đặc biệt này.
19
dạng nhận thức của đối tượng nghiên cứu về độ rủi ro của tài sản thực của
anh ta. Kết quả là, mức độ dao động của sản lượng cũng có tác động đến
tăng trưởng kinh tế và tác động này phụ thuộc vào mức độ ảo giác tiền tệ
và tham số tránh rủi ro.
1.4
Định lượng tác động của ảo giác tiền tệ
Như đã đề cập bởi Akerlof (2002): "dưới các giả định hành vi có thể nhận
thấy được, đóng góp chính của kinh tế học hành vi vĩ mô là minh họa cho
chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến sản lượng thực, giống như lí thuyết kinh
tế Keynesian đã khẳng định từ lâu. Tâm lí học nhận thức vẽ ra hình ảnh
cho thấy người đưa ra quyết định giống như một nhà khoa học về trực
giác tổng hợp các thông tin và đưa ra lựa chọn dựa vào khung thần kinh
đơn giản của anh ta". Các nhà tổng hợp tân cổ điển thường chỉ trích rằng
hành động phi lí trí gây hao tổn cho người đưa ra quyết định, vì vậy chúng
không hợp lí. Chúng tôi sẽ minh họa rằng ảo giác tiền tệ không chỉ bình
thường mà còn có thể nhận thấy được: tổn thất phúc lợi do quyết định đưa
ra dưới ảnh hưởng của ảo giác tiền tệ là thực sự nhỏ, nhưng tác động của nó
đến tăng trưởng kinh tế là khá lớn.
1.4.1
Tổn thất phúc lợi
Theo Lucas Jr (2001), chúng tôi định nghĩa tổn thất phúc lợi ∆(θ, π) của
ảo giác tiền tệ là sự đền bù thu nhập cần thiết để cân bằng đối tượng trong
trường hợp giữa θ =0 và θ > 0 khi tỉ lệ làm phát kì vọng là π. Một cách
chính thức, xem xét một đối tượng nghiên cứu không bị ảo giác tiền tệ với
hàm tiện ích tiêu chuẩn U 0 (c, M, P ) được cho bởi phương trình (2) trong mô
hình MIU, khi θ = 0. Nếu anh ta tuân theo những quy tắc quyết định được
suy ra từ cân bằng với trường hợp ảo giác tiền tệ trong mệnh đề 1 và 2, khi
đó giá trị tiện ích của anh ta được cho bởi
∞
ˆ
−ρt 0
V (k0 ) = E
e U (ct , Mt , Pt ) dt
(37)
0
với k0 là tài sản nắm giữ ban đầu,ct = ηkt và Mt /Pt = kt (1 − φ∗ )/φ∗ được
cho bởi mệnh đề 2, vớiθ > 0. Hàm tiện ích gián tiếp được suy ra từ kế hoạch
cân bằng tiêu dùng không có ảo giác tiền tệ được cho bởi
20