Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Môn dư luận xã hội các bước hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.27 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay, dư luận xã hội luôn là một vấn đề chiếm vị trí quan
trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nó đã xuất hiện từ lâu
trong lịch sử, hình thành, tồn tại và phát triển cùng với quá trình vần động, phát
triển của bản thân xã hội loài người. Dư luận xã hội có sự tác động đối với lĩnh
vực pháp luật, nhưng đồng thời pháp luật cũng có sự tác động trở lại với dư
luận xã hội. Nhất là trong tình hình hiện nay, tính dân chủ, bình đẳng của con
người ngày càng được nâng cao và coi trọng, nên các vấn đề dư luận xã hội
cũng ngày càng trở nên phức tạp. Việc nghiên cứu về vấn đề này đã trở nên hết
sức cần thiết để có thể hiểu và hoàn thiện thêm về nó. Vì vậy, tôi đã chọn đề
tài: “Các bước hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận
xã hội.”
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, tiểu luận gồm 3 chương chính:
Chương 1: Khái niệm dư luận xã hội
Chương 2: Các bước hình thành dư luận xã hội
Chương 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội

1


Chương 1
KHÁI NIỆM DƯ LUẬN XÃ HỘI
1.1. Khái niệm dư luận xã hội
Trên các sách, báo, tạp chí có khá nhiều định nghĩa về dư luận xã hội
được nêu ra, nhưng chung quy lại, ta có thể định nghĩa như sau:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh
giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang
tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều
người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
1.2. Phân biệt dư luận xã hội với tin đồn
1.2.1. Khái niệm về tin đồn


Tin đồn là những thông tin từ những nguồn thông tin không chính thức,
thường là những thông tin thất thiệt, không đúng sự thật và rất khó kiểm
chứng, được dựng nên, hoặc nguỵ tạo nên bởi những mục đích hay dụng ý nào
đó. Giữa tin đồn và dư luận xã hội có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
- Một là, nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ người khác (tôi
nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của dư luận xã hội lại xuất
phát từ chính bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì...).
- Hai là, tin đồn loang càng xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng
được thêm thắt. Ngược lại, lúc ban đầu dư luận xã hội thường rất phân tán,
nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi, tranh luận, tính thống nhất của dư luận xã
hội thường tăng lên.

2


- Ba là, tin đồn thường có tính "thất thiệt" (mặc dù có những tin đồn về cơ bản
là sự thật). Dư luận xã hội phản ánh trung thực về những suy nghĩ, tình cảm
của những chủ thể.
Tuy nhiên, giữa dư luận xã hội và tin đồn không có sự ngăn cách tuyệt
đối. Tin đồn thường có nguyên nhân là do công chúng, nhân dân thiếu thông
tin với tính tò mò, đưa chuyện của một bộ phận công chúng, tin đồn thường
xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin, dựa vào kinh nghiệm của
bản thân, dựa vào những yếu tố chủ quan mà phán đoán, nảy sinh những thông
tin, những câu chuyện thường là hoang đường. Nhưng tin đồn cũng ẩn chứa
những suy nghĩa và tình cảm của công chúng.
Tin đồn là sự khẳng định chung của một nhóm người về một vấn đề nào
đó của xã hội có thể có thực hoặc không có thực, nhưng không có dữ liệu để
kiểm chứng.
Tin đồn là phương thức giao tiếp bằng ngôn ngữ diễn ra hàng ngày trong
ời sống, trong đó các thông tin được truyền từ người này sang người khác. Do

mức độ thu nhận thông tin, do cá tính và cách nhìn nhận vấn đề của các cá
nhân là khác nhau dẫn đến các đối tượng tiếp nhận nội dung thông tin theo
cách hiểu của mình, và do vậy thông tin thường bị biến dạng, méo mó.
Theo các nhà tâm lý học, các cá nhân trong khi truyền đạt thông tin cho
người khác thường hay lồng vào đó ý kiến hay sắp xếp thông tin theo thói
quen, sở thích của mình. Và để tăng tính " thuết phục"của thông tin mình đưa
ra họ sẽ đưa vào đó những tình tiết phụ để thông tin đó trở nên hợp lý và hấp
dẫn hơn. Song ở tin đồn mới chỉ là sự phát ngôn thông tin bình thường chưa có
hoặc ít có sự phán xét, đánh giá của chủ thể đối với vấn đề, hiện tượng xã hội.
Ví dụ:Trong năm 1942 tin đồn đã trở thành vấn đề cấp bách mang tầm quốc
3


gia.Cuộc thị uy nguy hiểm của nó được mọi người cảm nhận thấy sau cú sốc
đầu tiên từ vụ Chân Châu Cảng. Đó là các tin về hạm đội của Hoa Kỳ-ND bị
"xoá sổ", rằng Washington không giám nói thật về phạm vi của sự thiệt hại và
rằng Hawai đã bị người Nhật chiếm. Những câu chuyện bịa đặt trở nên phổ
biến và làm hoang mang tinh thần ghê gớm. Sự kiện đau buồn này đã mang
vào cuộc sống những điều xa lạ và không được chào đón, làm xáo trộn cuộc
sống của hàng triệu người. Đến ngày 23/2/1942, tổng thống Rouzơven đã phải
đọc một bài diễn văn phát thanh trong đó toàn bộ nội dung giành trọn để bác
bỏ tin đồn này. Như vậy, tin đồn là sự kết hợp giữa "tin"-một chất liệu hỗn hợp,
nhập nhằng mang tính nước đôi với nhu cầu liên kết các cảm xúc mang tính
tâm lý xã hội một cách hợp lý. Và sơ dĩ nó tồn tại được trong cuộc sống vì nó
phải đáng tin cậy ở một mức độ nhất định, nó có vẻ giống như thật và đang
được nhiều người mong đợi. Đặc biệt trong tổ chức hầu hết các thông tin được
truyền qua tin đồn là chính xác ước tính khoảng 75%.
Tốc độ lây lan của tin đồn phụ thuộc vào tính hấp dẫn, tầm quan trọng
của vấn đề đối với cá nhân hoặc mức độ mơ hồ của nó đối với cá nhân. Sự mơ
hồ này có thể là do việc tiếp nhận những thông tin mâu thuẫn nhau từ các

nguồn khác nhau mà ta không biết nguồn nào đáng tin hơn nguồn nào. Và cũng
có thể là kết quả của sự thất bại trong truyền thông hoặc của những vấn đề
thiếu thông tin xác thực. Điều này thường thấy phổ biến ở những quốc gia bị
chiến tranh tàn phá hoặc ở những người sống biệt lập với xã hội, những người
có ít thông tin đáng tin cậy.
Các tin đồn dù trong điều kiện bình thường hay diều kiện chiến tranh
đều có tính chất mang ít nhiều những thông tin bịa đặt thể hiện sự thù địch
chống lại nhóm này hay nhóm khác.

4


Sở dĩ tin đồn lan truyền bởi vì nó thực hiện 2 chức năng sinh đôi, đó là
giải thích và giải toả sự căng thẳng tinh thần mà mỗi các nhân cảm thấy. Bởi
các nhà nghiên cứu cho rằng, việc qui trách nhiệm cho người khác bằng lời
không phải chỉ là cách giải thích cho nỗi đau buồn của mỗi người mà còn đồng
thời là cách thức giải toả về tâm lý. Chúng ta đều biết rằng sự căng thẳng tinh
thần của một người được giải toả sau khi người đó tiến hành sự tra tấn bằng
ngôn ngữ đối với đối tượng.Việc liệu nạn nhân của sự tra tấn bằng ngôn từ đó
có lỗi hay không chỉ là vấn đề nhỏ. Việc mắng mỏ ai đó thẳng vào mặt hoặc
sau lưng có đặc tính kỳ lạ là nó làm giảm tạm thời sự thù địch đối với nạn nhân
hay một điều ấn tượng hơn là nó làm giảm sự thù hận đối với mọi con người và
sự vật.
Một câu hỏi đặt ra đó là sự bóp méo và phóng đại kì lạ đã xảy ra như thế
nào trong đầu con người và đã dẫn đến những tổn hại gì đói với nhận thức,
lương tâm của công chúng?
Vì rất khó khăn để lần theo chi tiết của quá trình tin đồn lan truyền trong
cuộc sống hàng ngày, các nhà khoa học Mỹ- Gordon Allport và Leo Postmanđã làm những cuộc nghiên cứu thực nghiệm về tin đồn trong phòng thí nghiệm.
Các tác giả cũng thừa nhận có 5 điểm thí nghiệm không đạt khi tái tạo
lại một cách cẩn trọng những điều kiện lan toả của tin đồn trong cuộc sống

hàng ngày:
- Sự ảnh hưởng của cử toạ là đáng kể, nó có khuynh hướng tạo ra sự cẩn trọng
và rút ngắn hơn bản tường thuật.Khi không có cử toạ người tham gia thí
nghiệm đưa ra số lượng chi tiết gấp 2 lần so với khi có cử toạ.

5


- Ảnh hưởng của lời chỉ dẫn khiến người tham gia thí nghiệm chính xác hoá tối
đa và tạo ra sự cẩn trọng. Trong sự lan toả tin đồn bình thường, không có người
thí nghiệm để xem liệu chuyện phiếm lặp lại đúng không.
- Không có cơ hội cho người được nghiên cứu đặt câu hỏi lại cho người truyền
thông tin. Bình thường sự lan toả tin đồn, người nghe có thể bàn tán với người
đưa tin và nếu muốn anh ta có thể kiểm tra chéo lại.
- Khoảng cách thời gian giữa nghe và nói lại trong tình huống thí nghiệm là rất
ít. Còn trong quá trình lan toả tin đồn bình thường nó là rất lớn.
- Điều quan trọng nhất, điều kiện của các động cơ hoàn toàn khác nhau. Trong
thí nghịêm, người được nghiên cứu cố gắng mô tả chính xác.Sự sợ hãi, căm
ghét, mong muốn của anh ta dường như không được khuấy động lên trong điều
kiện thí nghiệm. Sự tham dự của anh ta trong việc truyền đạt tin đồn ở thí
nghiệm không mang tính cá nhân và cũg không có động cơ sâu sắc.
Trong diều kiện trên, điều kiện 3 có thể được kỳ vọng sẽ làm tăng độ
chính xác của bản tường trình trong tình huống thí nghiệm và sẽ sinh ra ít sự
bóp méo và phóng đạ hơn trong sự lan toả tin đồn của đời sống thực.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã cho thấy: tin đồn là một quá trình bóp
méo phức tạp mà trong đó có thể nêu rõ ba khuynh hướng liên kết với nhau, đó
là sự rút bớt chi tiết, sự nhấn mạnh và sự sắp xếp lại.
1.2.2. Cơ chế hình thành tin đồn
1.2.2.1. Sự rút bớt chi tiết
Khi tin đồn lan đi nó có xu hướng ngắn hơn, xúc tích hơn,dễ nắm bắt, dễ

kể lại hơn. Và do đó trong những lần thuật lại kế tiếp càng ít từ được dùng và

6


càng ít chi tiết được đề cập đến. Thí nghiệm chỉ ra số chi tiết được ghi nhớ
giảm mạnh mẽ nhất vào giai đoạn đầu của quá trình thuật lại. Sau đó số chi tiết
ghi nhớ sẽ tiếp tục giảm nhưng chậm hơn trong suốt cuộc thí nghiệm. Dựa trên
11 thí nghiệm, các tác giả chỉ ra rằng có khoảng 70% số chi tiết bị loại ra sau 5
đến 6 lần thuật lại.
Trong những lần truyền tin về sau lượng thông tin ngày càng ít và đến
một mức độ nào đó thì số lượng thông tin giữ không đổi, nó được nhiều người
sau học thuộc như một con vẹt và cứ thế nhắc đi nhắc lại. Tuy nhiên cần khẳng
định rằng sự rút gọn trong tin đồn chưa bao giờ tiến tới điểm xoá sạch tin đồn.
Bởi trên thực tế mỗi khi tin đồn được truyền đi trong một nhóm người thì dù là
tin đồn huyền thoại hay tin đồn bình thường chúng cũng sẽ biến đổi theo
hướng ngắn hơn và xúc tích hơn.
1.2.2.2. Sự nhấn mạnh
Sự nhấn mạnh là sự cảm nhận, lưu giữ và như là số chi tiết được trần
thuật lại có lựa chọn từ một ngữ cảnh rộng lớn. Sự nhấn mạnh chắc chắn xảy ra
nghịch đảo với quá trình rút bớt chi tiết. Hay nói là sự tăng thêm một số chi tiết
chiếm vị trí trung tâm trong ý nghĩa của những lời đồn, điều này còn phụ thuộc
vào nhiều nhân tố.
Các cách thức nhấn mạnh trong tin đồn:
- Việc lưu giữ lại những yếu tố kỳ quặc, những thông tin gây chú ý xuất hiện
lúc ban đầu trong chuỗi truyền miệng.
- Sự thay đổi về con số theo hướng gia tăng, chẳng hạn tăng số lượng người, số
thiệt hại... trong tin đồn.

7



nhóm xã hội, làm cho tâm lý của con người, nhóm xã hội trở lại vị trí thăng
bằng. Bị oan ức mà nói ra được người ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm.
1.4. Đặc điểm của dư luận xã hội
Chủ thể của dư luận xã hội không phải là các cá nhân mà là toàn thể xã
hội, là quần chúng nhân dân, các tổ chức của xã hội. vì thế, lập trường giai xấp
được xem là cơ sở để xác định chủ thể của dư luận xã hội. Bản thân dư luận xã
hội phản ánh rõ nét vị thế xã hội trong mối tương tác giữa các cá nhân, với các
nhóm xã hội xuất phát từ lợi ích và tương quan xã hội giữa người này với
người khác.
Thông thường, khi nghiên cứu về dư luận xã hội, chúng ta thấy nổi lên
các đặc điểm sau:
- Dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ mang tính chất
phán xét, đánh giá của nhiều người trước thực tế xã hội nhất định.
- Sự phán xét, đánh giá đó chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những vấn đề mang
tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung của nhóm xã hội, cộng đồng xã hội.
- Vấn đề mang tính thời sự đó phải thu hút được sự quan tâm, chú ý của nhiều
người, của đa số các thành viên trong xã hội.
- Dư luận xã hội phản ánh một cách tổng hợp ý thức xã hội nhưng dễ thay đổi.
Nó luôn gắn liền với quyền lợi cá nhân và các nhóm xã hội.

14


Chương 2
CÁC BƯỚC HÌNH THÀNH DƯ LUẬN XÃ HỘI
Các sự kiện, các hiện tượng xã hội được dư luận xã hội phản ánh phải
diễn ra theo một quá trình khá phức tạp. Trong điều kiện bình thường, quá trình
hình thành dư luận xã hội có thể chia thành các bước( các giai đoạn) sau:

2.1. Giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân
Các cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trực
tiếp chứng kiến hoặc nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra
trong xã hội. Họ tìm kiếm, hoặc thu thập thêm thông tin, trao đổi với nhau về
nó, từ đó nảy sinh những suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính
chất của các sự việc, sự kiện. Nhưng lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến
bước đầu đó là thuộc về mỗi người, thuộc lĩnh vực ý thức cá nhân.
Ví dụ như: trên báo chí hoặc các thông tin ại chúng đưa tin: một học giả
Trung Quốc mới đây đã lên tiếng hối thúc chính phủ ở Bắc Kinh nhanh chóng
dùng vũ lực để thực hiện điều gọi là “chiếm lại” những hòn đảo thuộc quần
đảo Tây Sa, mà Việt Nam gọi là Trường Sa, từ tay các nước nhỏ hơn trong
vùng Đông Nam Á. Trong khi đó, các nhà quan sát tình hình Trung Quốc đã đề
cập tới việc Bắc Kinh âm thầm gia tăng ảnh hưởng ở các quốc gia Trung Á
thuộc Liên Sô cũ và gợi ý rằng Trung Quốc có thể đang từ bỏ sách lược bành
trướng về hướng đông để theo đuổi chính sách Tây Tiến được Trung Tướng
Lưu Á Châu của Học viện Quốc phòng Trung Quốc mạnh mẽ cổ xướng trong
nhiều năm qua. Thông qua thông tin này, mỗi cá nhân tự tìm hiểu thêm mộ số
sự kiện liên quan, và hình thành suy nghĩ cá nhân về việc Trung Quốc định
chiếm lại đảo Trường Sa của Việt Nam. Cũng có cá nhân cho rằng, quần đảo

15


này thuộc chủ quyền sở hữu của Việt Nam, thuộc đại bộ phận lãnh thổ của
nước ta, và Trung Quốc không có quyền chiếm hữu, cũng như đòi lại nó, vì
chưa bao giờ nó là của Trung Quốc. Trên bản đồ thế giới, Trường Sa là của
Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là nhận thức ban đầu của cá nhân người Việt.
2.2. Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
Các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong nhóm
xã hội. Cơ sở cho quá trình thảo luận trong nhóm xã hội này là lợi ích chung

của cả nhóm và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang chi phối các khuôn
mẫu tư duy và khuôn mẫu hành vi của các thành viên trong nhóm. Thông qua
quá trình trao đổi, bàn luận các suy nghĩ, các ý kiến xung quanh đối tượng của
dư luận mà ý kiến đã được trao đổi chuyển dần từ lĩnh vực ý thức cá nhân sang
lĩnh vực ý thức xã hội.
Ví dụ như: về việc tranh chấp ở biển Đông, đã có nhiều ý kiến cá nhân
tranh luận, bàn bạc về vấn đề này thông qua các website, báo chí, truyền thông.
Và dần dần, nó trở thành vấn đề nổi cộm được cả xã hội quan tâm, và chú ý
đến. Đa số mọi người đều cho rằng: Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam, vì
nó thuộc chủ quyền lãnh thổ của người Việt Nam, và điều đó được ghi nhận
trên bản đồ thế giới. Vấn đề biển đảo ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích
của công dân Việt Nam. Nó thể hiện lòng yêu nước, tự tôn dân tộc.
2.3. Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng, không phù hợp
hoặc những thông tin nhiễu về đối được sẽ bị lược bỏ. Các nhóm trao đổi,
tranh luận với nhau về những nội dung quan trọng, đưa ra các loại ý kiến khác
nhau và thống nhất lại xung quanh các quan điểm cơ bản, cùng tìm đến những
điểm chung trong quan điểm và ý kiến. Từ đó mà hình thành cách phán xét,
16


đánh giá chung, thỏa mãn được ý chí chung của địa đa số các thành viên trong
cộng đồng người. Cơ sở cho quá trình tranh luận này vẫn là lợi ích chung và hệ
thống các giá trị, chuẩn mực xã hội chung cùng được các nhóm xã hội chia sẻ
và thừa nhận.
Ví dụ: nhà nước Việt Nam là nhà cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
chỉ có một chính đảng uy nhất đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. đã có thời
kì, có nhiều ý kiến tranh luận về con đường của Việt Nam sau này, nhưng đa số
đều thống nhất con đường xã hội chủ nghĩa là duy nhất. Một số bộ phận phản
động Việt quốc, Việt cách đã và đang tìm cách chống phá, thêm thắt một số dư

luận không tốt để chống phá cách mạng và con đường chủ nghĩa xã hội của ta.
Tuy nhiên, những thông tin không chính xác, phản động đã bị nhà nước xóa
bỏ, khắc phục.Dư luận xã hội chỉ có một quan điểm tán thành về chế độ chính
trị.
2.4. Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để
đấy, chẳng có vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện
tượng vô nghĩa.Trên thực tế, vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét,
đánh giá chung, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống
nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp về hoạt động thực tiễn của họ
trước thực tế cuộc sông nhất định.
Vẫn tiếp tục nói về tranh chấp biển đảo giữa Việt Nam- Trung Quốc,
Cuộc tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cần phải giải quyết càng
sớm càng tốt. Giải pháp hiện thời, thực tiễn nhất là đem ra khối ASEAN hoặc
Liên hợp quốc để giải quyết. Ngoài ra, việc cần làm ngay là thức tỉnh ý thức
dân tộc về biển và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa
17


bằng cách thông tin, giáo dục rộng rãi cho dân chúng như đã xây dựng ý thức
dân tộc giành độc lập, thống nhất đất nước trước kia. Hiện nay, trên các
website, công dân yêu nước đã và đang lập các khẩu hiệu phản đối Trung Quốc
như:” Trường Sa- Hoàng Sa là của Việt Nam”, đồng thời cư dân trên mạng Việt
Nam cũng tạo ra cờ Việt phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc. đi từ ý
kiến thảo luận, bàn bạc, người Việt đã có những hành động cụ thể để thể hiện ý
kiến của cộng đồng, và vì lợi ích của chính dân tộc mình.
Như vậy, dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội.
Không có sự trao đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau
thì không thể có ý kiến phán xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người
chia sẻ, tán thành và ủng hộ. Tất nhiên, sự phân tích khách quan về mối tương

quan giữa ý kiến của tập thể, của cộng đồng cần phải được đặt vào cơ cấu xã
hội hiện hành, phải xem xét đến các yếu tố trình độ kinh tế, chính trị, tinh thần,
trình độ văn hóa, tính tổ chức...của tập thể cộng đồng ấy.

18


Chương 3
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH DƯ LUẬN XÃ HỘI

Nghiên cứu về dư luận xã hội, cũng nhằm phát hiện ra những yếu tố
chính tác động đến sự hình thành nên dư luận xã hội. Có như vậy, mới có thể
định hướng hoặc điều chỉnh nhằm phục vụ lợi ích chung. Sự hình thành dư
luận xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau, cả về chủ quan và
khách quan về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ nhận thức, tâm lí xã
hội...đây là những yếu tố chính tác động đến dư luận xã hội.
3.1. Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội
đang diễn ra trong xã hội
Thực tế xã hội luôn diễn ra đa dạng, phong phú và phức tạp với nhiều sự
việc, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội khác nhau. Dư luận xã hội là hiện
tượng tinh thần phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó trước hết phụ thuộc
vào quy mô, cường độ, tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội mà
nó phản ánh; đồng thời phụ thuộc và ý nghĩa của các sự việc, hiện tượng đó đối
với các nhu cầu, lợi ích về vật chất, tinh thần của cộng đồng người mang dư
luận. Khuynh hướng chung trong các ý kiến đánh giá và thái độ của công
chúng là sự bày tỏ tán thành, ủng hộ đối với các sự việc, sự kiện phù hợp với
các nhu cầu, lợi ích của mình và lên tiếng phê phán hay phản đối những sự
việc, sự kiện đi ngược lại, xâm hại tới lợi ích của họ. Trong thực tế xã hội, có
những sự việc sự kiện xảy ra ban đầu chỉ ảnh hưởng tới lợi ích của nhóm xã

hội nhất định, nhưng sự phát triển tiếp theo đã cho thấy sự liên quan của chúng
19


tới lợi ích của các nhóm xã hội khác. Trong bối cảnh đó, các nhóm xã hội sẽ
bước vào cuộc trao đổi ý kiến, thảo luận tại các thời điểm khác nhau. Bên cạnh
đó, những sự kiện, hiện tượng có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến đại đa số
người dân như dịch bệnh, thiên tai, đồng tiền mất giá... sẽ tạo ra các luồng dư
luận xã hội nhanh chóng chỉ trong tời gian ngắn. Như vậy, muốn nghiên cứu,
tìm hiểu nguồn gốc phát sinh dư luận xã hội thì phải xuất phát từ chính bản
thân các sự việc, hiện tượng xảy ra trong thực tế xã hội với quy mô, cường độ
và tính chất của chúng.
Ví dụ như: Theo thông tin từ Cục Y tế dự phòng, tính đến nay cả nước
đã có hơn 18.000 ca mắc bệnh tay chân miệng, trong đó có 59 ca tử vong.Hiện
nay, dịch bệnh tay chân miệng không chỉ bùng phát ở trẻ nhỏ, mà đã xuất hiện
trường hợp người lớn bị nhiễm bệnh này.Với tính chất nguy hiểm, nghiêm
trọng, những dư luận, ý kiến bàn bạc về dịch bênh này đã lan truyền di nhanh.
Do tính chất cấp bách của sự kiện này, nó đã tạo ra một luồng dư luận lớn
trong xã hội, tìm cách nào đó để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, cũng như
thảo luận các biện pháp phòng chống căn bệnh này. Chính tính nóng sốt, sự
cấp thiết và nghiêm trọng của dịch bệnh này, đã tạo ra dư luận xã hội nhanh
chóng.
3.2. Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực
tế xã hội của con người
Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào hệ tư tưởng, trình độ học
vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của các cá nhân, các nhóm
xã hội trong xã hội. Nói cách khác là mức độ chuẩn bị của cộng đồng người để
tiếp nhận các sự việc, sự kiện, hiện tượng cần thiết. Nếu thông tin không đầy
đủ thì dẫn đến khả năng tranh luận kéo dài, không hình thành dư luận xã hội.


20


Hệ tư tưởng, trình độ học vấn của con người cũng ảnh hưởng quan trọng tới
khuynh hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng sai của các ý kiến, các quan
điểm phán xét, đánh giá đối với sự việc, sự kiện. Chẳng hạn, ở những nhóm xã
hội có trình độ học vấn cao, các cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận nguồn thông
tin, phân tích một cách khoa học về nội dung, bản chất, nguồn gốc, nguyên
nhân của các sự việc, sự kiện... từ đó mà đưa ra các phán xét, đánh giá phù hợp
về sự việc, góp phần hình thành những dư luận xã hội tích cực, có lợi ích cho
cộng đồng, cho dân tộc hay quốc gia. Ngược lại, ở những nhóm xã hội có trình
độ học vấn thấp, người ta có thể dễ dàng tin tưởng vào những điều nhảm nhí,
những tin tức thất thiệt, vô tình tham gia vào việc làm lan truyền các những tin
đồn nhảm, gây ra hậu quả xấu cho các cá nhân, các nhóm xã hội.
Ví dụ: khi nói về chế độ chính trị ở Việt Nam, một số bộ phận phản quốc
phản cách đã tuyên truyền về việc ở Việt Nam chỉ có một chính Đảng lãnh đạo.
Điều đó sẽ tạo ra sự độc quyền, chuyên chế, không mang tính dân chủ. Nhưng
bộ phận trí thức, có học đều nhận rõ ra mục đích chống phá của bọn phản cách
mạng. Những dư luận chúng tạo ra chỉ làm ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc và
đi sai lệch định hướng của Đảng và nhà nước. chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam do một chính Đảng duy nhất lãnh đạo- Đảng cộng sản Việt Nam- là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, có sự thống nhất chặt chẽ giữa các cơ quan,
chuyên ngành và ý chí, nguyện vọng của dân. Nhưng một số ít công dân ít học
đã tin vào dư luận do bọn phản cách mạng tạo ra và gây ảnh hưởng xấu cho xã
hội, lan truyền những dư luận sai lệch cho xã hội, và chính bản thân họ. Như
vậy, trình độ học vấn có ảnh hưởng lớn đến dư luận xã hội. nó quyết định tính
chất tốt, xấu, lợi hại cho xã hội.

21



3.3. Thông tin đại chúng
Hoạt động của hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm
báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm in, mạng máy tính... có tác động,
ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành dư luận xã hội. điều đó thể hiện trên các
phương diện sau:
- Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp thời
và đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội: việc đáp ứng
nhu cầu và sở thích thông tin của công chúng được coi là những tiền đề cơ bản
cho sự phát triển của hệ thống truyền thông đại chúng. Trên phương diện này,
hệ thống truyền thông đại chúng ở đất nước ta đã có những bước tiến nổi bật
trong những năm đổi mới. các chương trình phát thanh, truyền hình, xuất bản
phẩm trở nên đa dạng, phong phú hơn, cập nhật hơn với các thông tin về đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, chính trị của đất nước; sự phản ánh của các
thông tin cũng chân thực và khách quan hơn.
- Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai : ngày
nay, trình độ dân trí của người dân được nâng cao. Các tầng lớp nhân dân cũng
ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào đời sống chính trị xã hội của đất nước.
Trong bối cảnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng có trách nhiệm truyền
tải thông tin về các ý kiến phán xét, đánh giá, thái độ của công chúng đối với
các sự kiện, hiện tượng, diễn ra trong đời sống xã hội. bằng cách này, công
chúng sẽ có được cơ hội tham gia ngày càng tích cực và có trách nhiệm hơn
vào quá trình chuẩn bị, thực hiện và giám sát và đánh giá các chủ trương, chính
sách của đảng và Nhà nước cũng như các hoạt động cụ thể, thường xuyên của
các tổ chức chính quyền.

22


- Các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát triển của

dư luận xã hội: hệ thống truyền thông đại chúng phải dành phần thích đáng cho
việc đăng tải các thông tin được kiểm chứng và mang tính định hướng xây
dựng. Đặc biệt, khi các sự việc, sự kiện diễn ra có tầm quan trọng và liên quan
đến lợi ích của đất nước, của dân tộc, đụng chạm đến các giá trị chuẩn mực của
xã hội cơ bản, khi đó định hướng thông tin phải phản ánh được quan điểm của
Đàng và Nhà nước, ý kiến chính thức của cơ quan chức năng và phản ánh được
sự phán xét, đánh giá chung của xã hội.
Ví dụ: về vụ án cướp tiệm vàng ở Bắc Giang do tội phạm Lê Văn Luyện
gây ra đã gây xôn xao dư luận trong xã hội. các trang web, báo, tạp chí, cũng
như thông in truyền thông đã đăng tải đầy đủ về vụ án này. Biết bao ý kiến
phản hồi về việc xét án, định tội danh cho Lê Văn Luyện. Với vài trò cung cấp
thông tin nhanh nhạy, chính xác, các phương tiện thông tin đại chúng còn là
nơi cư dân bàn luận công khai xung quanh vụ án của Lê Văn Luyện. Nhờ các ý
kiến đóng góp, phản hồi, mà tòa án nhận biết được yêu cầu nguyện vọng cũng
như suy nghĩ của người dân về vụ án này. Vụ án tạo được sự quan tâm đặc biệt
của mọi tầng lớp nhân dân. Và trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
dăng tải đầy đủ những định hướng, cách giải quyết của tòa án và sự phát triển
của dư luận xã hội.
3.4. Những nhân tố thuộc về tâm lí xã hội
Trạng thái tâm lí xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen,
nếp sống, ý chí, tâm trạng hay tình cảm của nhóm xã hội, cộng đồng người đã
được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động, sinh
hoạt hàng ngày hoặc do tác động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ảnh
hưởng của nhân tố này có nhiều mặt đôi khi khó nhận biết. tùy từng thời điểm

23


nhất định, tâm trạng của con người có thể được thể hiện ở các trạng thái khác
nhau, thậm chí đối lập nhau như hưng phấn hoặc ức chế, tích cực hoặc tiêu

cực, lạc quan hoặc bi quan, yêu đời hoặc chán nản, hy vọng hoặc thất vọng...
Khi con người đang ở trong tâm trạng phấn chấn, hồ hởi thì nội dung phán xét,
đánh giá về sự kiện, hiện tượng xã hội sẽ có những khía cạnh khác với khi
đang ở trong tâm trạng bi quan, chán nản. Thường khi phấn chấn, lạc quan thì
thấy nhiều thuận lợi hơn, ít thấy khó khăn và ngược lại. những nếp nghĩ bảo
thủ, di sản của quá khứ cũng có thể ảnh hưởng tới sự hình thành dư luận xã hội
nếu không có sự định hướng đúng đắn.
3.5. Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị- xã hội
Mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội, khả năng và sự tham gia thực tế
của người dân vào các sinh hoạt chính trị- xã hội của đất nước có ảnh hưởng
rất quan trọng tới sự hình thành dư luận xã hội. trong điều kiện xã hội có dân
chủ rộng rãi, có thông tin đa dạng, phong phú thì mọi người dân sẵn sàng thẳng
thắn, cởi mở, bộc lộ các ý kiến, quan điểm của mình, tham gia bàn bạc các vấn
đề chung, do vậy, dư luận xã hội có điều kiện hình thành thuận lợi. ngược lại,
trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, thậm chí bị cắt xén,
xuyên tạc thì dư luận xã hội thường hình thành khó khăn, chậm chạp. Dưới các
chế độ độc tài, phát xít, mọi quyền dân chủ bị tiêu diệt, dư luận xã hội càng
khó hình thành và phát huy tác dụng, khi nó thường biểu hiện dưới dạng hình
thức biểu tượng, hò vè, tiếu lâm, châm biếm.
Ví dụ: trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, dưới chế độ MĩDiệm, người dân Việt Nam không có tự do dân chủ, cũng như không được
phép tham gia, bàn bạc, hay thảo luận những vấn đề mang tính chính trị cũng
như trong đời sống văn hóa. Người dân bị gò bó, ép buộc trong khuôn khổ

24


pháp luật không có tự do dân chủ nên việc hình thành dư luận rất khó khăn,
thường người dân chỉ tạo ra những câu hò vè, châm biếm về chế độ Mĩ- Diệm.
Nhưng khi đất nước thống nhất, người dân được tự do bàn bạc, thảo luận, được
trực tiếp đi bỏ phiếu bầu ra cơ quan lãnh đạo đất nước thuộc các cấp ngành từ

trung ương đến dịa phương, được trực tiếp bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, yêu
cầu, nêu ra các ý kiến về chế độ chính trị về văn hóa và các nhu cầu thiết yếu
khác. Lúc này, xã hội có nhiều dư luận khách quan hơn.
3.6. Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang
hiện hành trong xã hội
Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang
hiện hành trong xã hội trong chừng mực nhất định tác động tới sự hình thành
dư luận xã hội. về cơ bản, các phong tục tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã
hội hiện hành, tạo ra những khuôn mẫu tư duy, khuôn mẫu hành động làm cơ
sở cho việc phán xét, đánh giá, khác nhau về cùng vấn đề. Điều này thể hiện rõ
nét qua sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ đối với những biểu hiện của lối
sống hiện đại như cách ăn mặc, các sản phẩm ca nhạc và phim ảnh, cách sinh
hoạt, vui chơi, giải trí.
Ví dụ: trong xã hội thực dân nửa phong kiến, khi mà ý thức hệ tưởng
phong kiến vẫn còn tồn tại sâu đậm trong nếp sống của con người, cách ăn mặc
theo lối Âu hóa trở nên kệch cỡm, lố bịch với các trang phục như “ỡm ờ, ngay
thơ, trong trắng...” hay các khẩu hiểu trên vai của các cảnh sát giao thông như
“ typn”( có nghĩa là: tôi yêu phụ nữ) tạo ra nhiều phê phán, chỉ trích gay gắt. hệ
tư tưởng phong kiến đã tạo ra chuẩn mực đạo đức trong xã hội như ăn mặc kín
đáo, lịch sự như áo tứ thân, yếm dào, con gái theo đạo tam tòng, tứ đức, làm
trai phải” tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhưng trong xã hội hiện đại,

25


con người lại quan niệm về cách ăn mặc có phần mới mẻ hơn, theo cách ăn
mặc Âu hóa, tuy nhiên sự thay đổi này vẫn dựa trên hệ tư tưởng, chuẩn mực
phong kiến. Nếu có sự phá cách lộ liễu, hay mát mẻ quá, ngay lập tức cá nhân
sẽ bị xã hội lên tiếng phê phán.


26


KẾT LUẬN

Như vậy, thông qua tính chất cơ bản và những tác dụng của dư luận xã
hội, ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của nó đối với các lĩnh vực nói chung và
việc xây dựng, hoàn thiện các mối quan hệ khác nói riêng. Việc nghiên cứu,
tìm hiểu thêm về dư luận xã hội có ý nghĩa rất lớn đối với cả về mặt vật chất và
tinh thần của con người. Dư luận xã hội càng phát triển đồng nghĩa với việc
tính dân chủ càng được nâng cao, con người có thể thoải mái bày tỏ những
quan điểm, nguyện vọng của mình. Vì vậy việc cần thiết là phải hoàn thiện
ngày càng tốt hơn hệ thống dư luận xã hội, để nâng cao lợi ích của nó đối với
xã hội ngày nay.

27



×