PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT TRÌ
TRƯỜNG TIỂU HỌC CHÍNH NGHĨA
****************
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1
trong giờ tập đọc
Người thực hiện: Đỗ Thị Ngọc Hoa
Chức vụ: Giáo viên
MỤC LỤC
Nội dung
I- Đặt vấn đề
II- Giải quyết vấn đề
1- Cơ sở lý luận
2- Thực trạng của vấn đề
3- Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề
4- Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III- Kết luận và kiến nghị
1- Kết luận
2- Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Mục lục
Trang
1
2
2
3
6
14
24
24
25
26
I- Đặt vấn đề
Dạy học có một ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi
đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên là trẻ phải học đọc, sau đó phải
đọc để học. Đọc giúp học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để cùng giao tiếp
và học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có thể tự học và tinh thần học tập cả
đời.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em
thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các
lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn
Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng vô cùng quan trọng bởi từ chỗ các em
còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản
là việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải
hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu
đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu
trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm
thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một
trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là
lý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản
được đọc.
Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách
dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông
được văn bản mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra là làm
thế nào để giúp các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc
đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản
văn xuôi. Những băn khoăn này chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện
pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy tập đọc cho học sinh lớp 1”
1
II- Giải quyết vấn đề:
1- Cơ sở lý luận của vấn đề
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển
ngôn ngữ cho học sinh. Nó là công cụ để giúp học sinh có khả năng học tốt
các môn khác. Phân môn tập đọc có vị trí quan trọng. Dạy tốt phân môn này
đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Kỹ năng đọc nhanh, chính
xác, rõ ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ đó học sinh có những hiểu biết văn
học ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là
quá trình có liên quan mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh
được những tri thức văn hoá của dân tộc và cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo
đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát huy tính sáng tạo, khả năng tư duy
cho các em.
Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành
và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh.
Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ
đáp ứng yêu cầu này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó
là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn
kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh
(đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều
mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được
hình thành trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được
rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ
năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là
tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản.
Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và
diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở
2
cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà
đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình
thành thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác
thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả
năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy
đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ
đầy đủ và phát triển.
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giầu kiến
thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển
ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ
cho các em.
Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn học vần
sang tập đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần, cả
phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm
vần đã học (nhất là các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ, đọc
cụm từ và câu: tập ngắt nghỉ (hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ thông
thường, hiểu được ý diễn đạt đã đọc (độ dài câu khoảng 10 tiếng). Bên cạnh
nhiệm vụ ôn vần cũ, học vần mới học sinh còn được phát triển vốn từ, tập
nói câu đơn giản.
2- Thực trạng của vấn đề
Qua nhiều năm giảng dạy ở các trường tiểu học trong thành phố Việt
Trì và qua trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực
trạng dạy học như sau:
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên
ở các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn
ở các lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan
3
trọng như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc
quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo
viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian
của 2 phần này như nhau. Được dự các tiết tập đọc của trường nói chung và
của lớp 1 nói riêng tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát
âm cho học sinh song do thời gian bị hạn cho nên việc sửa lỗi chỉ được thực
hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh
luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra
những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay nhầm lẫn.
Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện
đọc theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu
hỏi để học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…) và
phương pháp đóng vai (đối với văn kể chuyện)
Qua tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ tập
đọc được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội
dung bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
* Luyện đọc tiếng, từ
4
Giáo viên kẻ chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu → cá nhân học sinh
đọc
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc
mẫu sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe
và nhận xét bạn.
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thành……đoạn…... sau đó cho học sinh
đọc nối tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc → các em khác nhận xét
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố: Ghép từ thành câu
Tiết 2
4. §äc vµ tr¶ lêi c©u hái vÒ bµi ®äc
a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK
+ Cá nhân học sinh đọc từng câu, đoạn trong bài và giáo viên nêu câu
hỏi ứng với nội dung của từng câu, đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc
- Giáo viên đọc mẫu lần 2
- Học sinh đọc (cá nhân → đồng thanh)
c. Luyện nói
5
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những
chủ đề mà bài đọc yêu cầu.
5. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một
số kết luận sau:
- Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
- Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ
chính của dạy đọc.
- Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em
tự phát hiện ra cách đọc. Giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học
sinh sửa phát âm sai do học sinh nói ngọng hoặc do tiếng địa phương.
- Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú
ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian,
làm giảm tiến độ của tiết dạy.
c. Việc học tập của học sinh
Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi
nhẹ môn tập đọc vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy
nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng
chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai
do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn
hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện
(còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1
nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên.
3- Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là
nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu
6
cầu dạy đọc ở tiểu học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những
ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng
dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói
riêng và ở tiểu học nói chung đó là:
3.1. Đọc mẫu:
- Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng
đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi
chảy và diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm
lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc
giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh
thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián
đoạn.
- Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 → 3 bài đầu) giáo
viên chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở
giai đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để
tạo cho các em có thói quen làm việc với sách.
3.2. Hướng dẫn đọc
a, Luyện đọc tiếng, từ
Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi
luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong
phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm
lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc đó cần
lựa chọn thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn
hoặc phát âm sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp
tôi vẫn thực hiện điều này.
Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
7
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã tìm
thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm,
nụ hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở
dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy vần còn một
số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. Cụ thể
như:
Từ
Xanh thẫm
Nụ hoa
Cánh xoè ra duyên dáng
Ngan ngát
Toả khắp vườn, khắp nhà
Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự
Học sinh đọc nhầm
Xăn thấm
Lụ hoa
Cánh xèo ra duyên dáng
Ngan ngác
Toả khắc vườn, khắc nhà
nêu những từ mà các em cảm
thấy khó đọc trong khi phát âm.
Thí dụ: Bài “Chú công”
SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh”
nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc
đó là: “màu sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “mầu sắc”,
“xoè tròn” với “xèo tròn”
Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích
tiếng để giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần
tập trung gọi những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này đọc
được đúng thì việc gọi một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là một việc
làm không thể thiếu bởi vì các êm yếu sẽ bắt chước các bạn để đọc và như
vậy các em sẽ có ý thức tự sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ
ngữ này. Cần tăng cường cho các em nhận xét nhau đọc, đúng hay sai, nếu
sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học sinh không làm được
8
việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết
phải có khen chê kịp thời.
- Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết tăng
Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần
để giúp các em phát âm tốt hơn.
Thí dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu
+ Bài tập 1: Điền l hay n
….o…..ắng
,
…o…ê
,
….í….ẽ
,
….áo…ức
+ Bài tập 2: Điền r, d, gi
… ộn….ã
,
…..ập ….ờn
,
tháng…..iêng
+ Bài tập 3: Điền s, x
…ản …uất
,
…anh….anh
…ung phong
,
,
…o….ánh
….ừng…ững
+ Bài tập 4: Điền vần ăc, ắt hay ăp
m….. trời
,
m….. áo
kh……… nơi
,
đôi m……
,
th……. nến
,
c…… nhà
+ Bài tập 5: Điền vần anh hay ăn
ch..… len
,
c…… đẹp
m…. khoẻ
,
bức tr…….
.v..v và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền
xong giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các em đọc. Nếu các em đọc sai giáo
viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt,
hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc tròn bài đọc tốt hơn.
b. Đọc đúng: dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại
một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện
được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để
9
truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần
thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một
công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp
câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến
nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong bài có
những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai
đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi
hướng dẫn
Thí dụ: Bài “Tặng Cháu”
Vở này / ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là
Mong cháu / ra công mà học tập
Mai sau / cháu giúp nước non nhà
Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết
bài. Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc
không bị quên.
Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi đã để học sinh
nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài
thơ của lớp 1 thường là ngắn nên công việc này cũng không chiếm quá nhiều
thời gian trong tiết dạy). Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhận ngay và
cho các em đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh nói sai giáo viên sửa lại
cho học sinh.
Thí dụ 1: Bài “Mẹ và cô”
Học sinh thường ngắt nhịp như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới ôm / cổ cô
Buổi chiều / bé / chào cô
10
Rồi sào / vào lòng mẹ
Mặt trời / mọc / rồi lặn
Trên đôi chân / lon ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Tôi đã sửa lại những câu học sinh sai và nêu cho các em thấy tại sao
ngắt nhịp như vậy lại là sai.
Thí dụ: Câu “chạy tới ôm cổ cô” ngắt nhịp như trên là sai vì “ôm cổ
cô” là một cụm từ liền nhau, nếu ngắt giọng ở sau chữ “cổ” thì cụm từ đó sẽ
bị tách ra và nghĩa của nó sẽ không rõ ràng. Hay câu “Buổi chiều bé chào
cô” cũng tương tự tôi đã sửa cách đọc bài thơ trên như sau:
Buổi sáng / bé chào mẹ
Chạy tới / ôm cổ cô
Buồi chiều / bé chào cô
Rồi / sà vào lòng mẹ
Mặt trời mọc / rồi lặn
Trên đôi chân lo ton
Hai chân trời / của con
Là mẹ / và cô giáo
Thí dụ 2: Bài “Kể cho bé nghe”
Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen
nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối dòng
1 đọc vắt luôn sang dòng 2, cuối dùng 3 đọc vắt luôn sang dòng 4. Cứ như
thế cho đến hết bài.
Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ tập đọc ở trên lớp thì trong
các tiết tăng cường Tiếng Việt tôi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc bài
11
thơ ngắn để giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là những
câu ứng dụng hay bài ứng dụng đã có ở phần học vần.
Thí dụ:
“Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Hay
“Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra”
c. Đọc đúng: dạng văn xuôi
Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết ngắt,
nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho
đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi
trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít ở dấu phẩy,
nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh
ngắt hơi cho phù hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó
hoặc do chính giáo viên đưa ra. Sau đó yêu cầu học sinh xác định cách ngắt
giọng, gọi học sinh nhận xét đúng sai. Đối với học sinh lớp 1 giáo viên cũng
chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu
thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn nếu sai thì sửa cho các em và
giải thích để các em thấy rõ hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn
dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng
trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt
giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào các tiếng, từ, dấu câu.
Thí dụ: Bài “Trường em”
12
Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là:
“Ở trường / có cô giáo hiền như mẹ / có nhiều bè bạn thân thiết như anh
em /”
Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên (vì
đây là bài đầu tiên trong chương trình tập đọc nên tôi hướng dẫn luôn cách
đọc).
Thí dụ 2: Bài “Đầm sen”
Học sinh đã phát hiện ra câu dài trong bài là ngắt giọng như sau:
“Suốt mùa sen / sáng sáng lại có những người ngồi trên thuyền nan /
rẽ lá / hái hoa”
Tôi đã bổ sung thêm cách nghỉ hơi cho các em như sau:
“Suốt mùa sen , / sáng sáng / lại có những người ngồi trên thuyền nan
/ rẽ lá / hái hoa //”
Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “sáng sáng” để nhấn mạnh thêm về thời
gian mà con người đi thăm đầm sen.
Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh
cách lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời)
Thí dụ 3: Bài “Vì bây giờ mẹ mới về”
Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con.
Những câu hỏi của mẹ:
Con làm sao thế ? Đứt khi nào thế ? (đọc lên giọng cuối câu)
Những câu trả lời của cậu bé.
Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ ! Vì bây giờ mẹ mới về (đọc xuống giọng ở cuối
câu)
Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên
phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc. Việc
luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được
13
trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản
được học mà không phải tình trạng học vẹt.
Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện
đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá
nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn
giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp.
- Luyện đọc diễn cảm sẽ được thể hiện trong tiết 2, trong phạm vi đề
tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề đọc đúng. Vì vậy mà cách hướng dẫn đọc
diễn cảm sẽ không được nêu lên trong đề tài.
d. Luyện đọc củng cố và nâng cao
Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời
gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học
sinh luyện đọc cá nhân – giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em đó
được tham gia đọc – giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Trong quá
trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em.
Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai.
Đối với bài thơ cần cho các em đọc nhiều. Một tiết học tập đọc chỉ có 35 –
40 phút vì vậy để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học, học sinh phải đọc
trước văn bản ở nhà. Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo, phải đưa ra các
tình huống có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay.
Muốn vậy giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp
dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong giờ học, giáo viên
chỉ là người hướng dẫn, tổ chức để học sinh tự tìm ra kiến thức.
4- Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Để khẳng định về một số biện pháp tôi đã đưa ra nhằm góp phần nâng cao
chất lượng rèn đọc cho học sinh lớp 1 tôi đã tiến hành dạy 2 tiết Tập Đọc
thực nghiệm.
14
Dưới đây là nội dung hai giáo án đó
Môn: Tập đọc
Tiết số: 1
Tên bài dạy:
Tuần: 4
Mẹ và cô
I – Mục tiêu :
Giúp học sinh:
+ Đọc đúng, phát âm đúng các tiếng có phụ âm đầu l, s, ch, tr
+ Biết nghỉ hơi đúng trong mỗi dòng thơ
+ ôn vần uôi, uơi
+ Hiểu nghĩa từ lon ton, chân trời
II - Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên : Tranh vẽ như SGK.
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:
T.gian
Hoạt động của thầy
dự kiến
Hoạt động của trò
A. Bài cũ
Đọc bài: Mưu chú Sẻ và trả lời câu hỏi
5’
- 2 học sinh đọc và trả lời
+ Khi bị Mèo chộp được Sẻ đã nói gì với câu hỏi (mỗi em trả lời
mèo?
một câu). Lớp nhận xét
+ Sẻ đã làm gì khi Mèo đặt nó xuống đất?
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài:
Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền
Mẹ và cô là những người chăm sóc dạy dỗ
chúng ta nên người. Bài tập đọc “Mẹ và
15
T.gian
Hoạt động của thầy
dự kiến
Hoạt động của trò
Cô” hôm nay sẽ cho chúng ta thấy được
tình cảm của em bé đối với mẹ và cô →
Ghi bảng tên đầu bài
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
Học sinh theo dõi bài đọc
- Giọng đọc dịu dàng tình cảm
ở bảng
b. Hướng dẫn học sinh đọc
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm những từ Cá nhân học sinh tìm từ
(tiếng) có chứa l, s, ch có trong bài → (tiếng) và đọc theo yêu
5’
Giáo viên ghi lên bảng những từ đó:
+ Buổi sáng, chào mẹ, chạy tới, buổi
chiều, sà vào lòng mẹ
- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần
lượt từng từ một cho đến hết và kết hợp
phân tích những tiếng mà học sinh dễ lẫn
khi đọc và viết: buổi, chạy, lặn.
Lưu ý: Tập trung gọi những em còn đọc
yếu
Trong khi học sinh đọc, giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ
Lon ton: dáng đi nhanh nhẹn của em bé
* Luyện đọc câu:
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi bài
viết ở SGK và cho biết xem bài thơ có
mấy dòng thơ?
- Giáo viên gọi 1 nhóm đọc nối tiếp nhau
từng dòng cho đến hết hài
- Giáo viên hướng dẫn cách ngắt giọng ở
16
cầu của giáo viên
T.gian
dự kiến
Hoạt động của thầy
từng dòng thơ
Buổi sáng / bé chào mẹ //
7’
Hoạt động của trò
Cá nhân học sinh đọc nối
Chạy tới / ôm cổ cô //
tiếp từng dòng cho đến
Buổi chiều / bé chào cô //
hết bài. Khi bạn đọc
Rồi / sà vào lòng mẹ //
những học sinh khác
Mặt trời mọc / rồi lặn //
nhận xét bạn đọc đúng
Trên đôi chân / lon ton //
hay chưa
Hai chân trời / của con //
Là mẹ / và cô giáo //
* Luyện đọc đoạn:
Cá nhân (nhóm) học sinh
- Chia bàn làm 2 đoạn, mỗi khổ thơ là 1 đọc nối tiếp đoạn
5’
đoạn
- Tổ chức cho học sinh đọc theo nhóm
hoặc cá nhân, đọc nối tiếp
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân (nhóm) học sinh
Tổ chức cho học sinh đọc theo cá nhân đọc toàn bài
(nhóm) → cuối cùng cho cả lớp đọc đồng → Cả lớp đồng thanh
toàn bài
thanh toàn bài
3’
Nghỉ giữa giờ
3. Ôn vần: uôi, ươi
- Yêu cầu học sinh đọc bài tập 1, 2, 3 và
giải từng bài
+ Bài 1: Tìm tiếng trong bài có vần uôi
Cá nhân học sinh tìm
từng bài
+ Bài 2: Tìm tiéng ngoài bài có vần uôi, Cá nhân học sinh tìm và
ươi
ghép trên bộ chữ
+ Bài 3: Nói câu chứa tiếng có vần uôi Cá nhân học sinh nói
17
T.gian
Hoạt động của thầy
dự kiến
Hoạt động của trò
hoặc ươi
câu, các bạn khác nhận
xét
Giáo viên sửa chữa cho học sinh nếu các
3’
em nói sai
4. Củng cố: đọc lại bài “Mẹ và Cô”
Thi đọc giữa các tổ
Môn: Tập đọc
Tiết số: 1
Lớp 1
Tuần: 31
Tên bài dạy: Sau cơn mưa
I – Mục tiêu :
Giúp học sinh:
+ Đọc trơn cả bài “Sau cơn mưa”
+ Luyện đọc các từ ngữ “mưa rào, đoá râm bụt, xanh bóng nhởn
nhơ, sáng tựa, quay quanh, giội rửa”
+ ôn vần ây, uây
II - Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên : Tranh hoa râm bụt và tranh vẽ như SGK
- Học sinh : Sách giáo khoa
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:
T.gian
Hoạt động của thầy
dự kiến
5’ A. Bài cũ : Bài Luỹ tre
Hoạt động của trò
+ Đọc khổ thơ 1 của bài và trả lời câu hỏi: - Mỗi khổ thơ một học sinh
Khổ thơ này tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích đọc và trả lời câu hỏi
hình ảnh nào của luỹ tre vào buổi sớm?
+ Đọc khổ thơ 2 của bài và trả lời câu hỏi:
18
T.gian
Hoạt động của thầy
dự kiến
Hoạt động của trò
Khổ thơ tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích
hình ảnh nào trong khổ thơ này?
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài :
Giáo viên dùng lời:
Mùa hè thường có các trận
2’
mưa rất to
nhưng mau tạnh, gọi là mưa rào. Hôm nay
các em sẽ học một bài văn tả cảnh vật sau
một cơn mưa rào → Giáo viên ghi bảng tên
đầu bài.
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
Học sinh theo dõi bài đọc ở
- Giọng chậm, đều, tươi vui
b. Hướng dẫn học sinh đọc
* Luyện đọc từ ngữ
bảng
Giáo viên gọi 1 học sinh giỏi đọc to những từ
ngữ mà SGK yêu cầu luyện đọc → cô ghi
bảng các từ đó: mưa rào, đoá râm bụt, xanh
bóng nhởn nhơ, sáng rực, mặt trời quây
quanh, vườn
- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần lượt Cá nhân học sinh đọc lần
5’
từng từ một cho đến hết và kết hợp phân tích lượt từng từ và cho đến hết
những tiếng mà học sinh dễ lẫn khi đọc và kết hợp phân tích tiếng theo
viết: rào, đoá, xanh, quây, quanh
yêu cầu của giáo viên
- Lưu ý: Tập trung gọi những em đọc còn yếu
- Trong khi học sinh đọc giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ:
+ Đoá râm bụt: Sử dụng tranh hoa râm bụt
19
T.gian
dự kiến
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
cho học sinh quan sát
+ Nhởn nhơ: Chỉ hoạt động chậm không tập
trung
* Luyện đọc câu:
- Học sinh theo dõi và trả
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi SGK và lời bài đọc có 5 câu
cho biết xem bài đọc này có mấy câu ?
- Giáo viên gọi 1 nhóm 5 em đọc nối tiếp - 1 nhóm 5 học sinh đọc nối
nhau từng câu một cho đến hết bài. Sau đó tiếp
5’ -
hỏi học sinh trong lớp xem trong bài này có - Cá nhân học sinh tìm câu
7’
câu nào dài mà khi đọc các em cần phải ngắt dài và đọc to trước lớp. Các
nghỉ hơi cho đúng và gọi các em đọc theo bạn nhận xét
cách của mình.
- Tập trung luyện đọc 2 câu sau:
- Nhiều em luyện đọc câu
+ Mấy đám mây bông trôi nhởn nhơ / sáng sau khi đã sửa theo hướng
rực lên trong ánh mặt trời.
dẫn của giáo viên.
+ Mẹ gà mừng rỡ / “tục tục” / dắt bầy con - Hình thức đọc: cá nhân
quây quanh vũng nước đọng trong vườn
nhóm, lớp. Khi bạn đọc, học
sinh khác nghe và nhận xét
xem bạn đọc đúng hay sai
- Giáo viên giới thiệu câu: “Mẹ gà…” cần - 2 nhóm đọc nối tiếp
ngắt giọng ở sau tiếng “rỡ” và tiếng “tục” để
nhấn giọng cho tiếng gà mẹ gọi đàn con.
- Sau khi đã tập trung luyện đọc các câu dài
xong, giáo viên lại cho học sinh đọc nối tiếp
6’
từng câu cho đến hết bài
* Luyện đọc đoạn
- 2 nhóm mỗi nhóm 2 em
Chia bài làm 2 đoạn:
đọc nối tiếp
20
T.gian
Hoạt động của thầy
dự kiến
Hoạt động của trò
- Đoạn 1: từ đầu ….. mặt trời
- Đoạn 2: còn lại
- Gọi học sinh đọc nối tiếp đoạn theo nhóm
* Luyện đọc toàn bài
- Học sinh đọc theo, cá
Gọi học sinh đọc
nhân, nhóm. Cuối cùng cả
lớp đồng thanh đọc
Hát múa tập thể
Nghỉ giữa giờ
3’
3. Ôn vần: ây, uây
- Yêu cầu học sinh đọc to yêu cầu của từng
bài tập của SGK và giải từng bài
10’
+ Bài 1: Tìm tiếng trong bài có chứa vần - Cá nhân học sinh tìm từ ở
"ây”
SGK và trả lời
+ Bài 2: Tìm tiếng ngoài bài có chứa vần - Học sinh tìm và ghép trên
“ây, uây”
bộ chữ
Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh
4. Củng cố : Ghép từ thành câu
- Thi ghép theo nhóm đôi
Giáo viên đưa ra các thẻ từ không theo thứ
tự:
Sau cơn mưa mọi vật đều sáng và tươi
Yêu cầu học sinh ghép thành câu
21
KIỂM TRA KẾT QUẢ thùc nghiÖm
1- Kết quả truớc khi dạy thực nghiệm
Lớp
1A
1B
Số học sinh đọc đúng,
Số học sinh đọc không
lưu loát (%)
90%
89%
đúng (%)
10%
11%
2 - Kết quả sau khi dạy thực nghiệm
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm với 2 giáo án trên ở lớp 1A và
1B tôi tiến hành kiểm tra miệng (gọi học sinh đọc cả bài), kết quả thu được
như sau:
Lớp
1A
1B
Số học sinh đọc đúng,
Số học sinh đọc không
lưu loát (%)
97%
98%
đúng (%)
3%
2%
Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng
một số biện pháp ở chương 3 vào việc hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng
thực sự nâng cao hiệu quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng
tạo và tạo được sự hứng thú say mê của học sinh.
III. Kết luận và kiến nghị
1- Kết luận
22
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn tập đọc
mà nội dung trọng tâm là truyền kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Tôi
thấy rằng đây là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động
của học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn
toàn chủ động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục
đích của quá trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát
triển sinh lý của học sinh lớp 1.
Để giờ dạy tập đọc đạt kết quả cao giáo viên cần áp dụng linh hoạt các
biện pháp trong phần luyện đọc đúng. Tuỳ từng bài giáo viên chọn các biện
pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất trong giờ tập đọc. Muốn vậy
người giáo viên phải làm được những công việc sau:
•
Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán
được tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp
thích hợp để giải quyết tình huống đó.
•
Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo
viên luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo
viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh.
•
Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải có trình
độ nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi
mới phương pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là
lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, đức tính chịu khó kiên trì, với
đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của
mỗi giáo viên.
Trên đây là những ý kiến nhó của bản thân tôi nhằm giúp giáo viên
tham khảo khi rèn đọc đúng cho học sinh. Mong thầy cô và các đồng nghiệp
góp ý và bổ sung để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc ở tiểu học.
2- Kiến nghị
23