Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

CHÍNH SÁCH TIỀN tệ của NGÂN HÀNG NHÀ nước VIỆT NAM từ CUỐI năm 2007 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.58 KB, 7 trang )

Ngô Hà Trang

MỘT SỐ NÉT CHÍNH TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ CUỐI NĂM 2007
ĐẾN THÁNG 10/2017.
A. Mở đầu:
Từ cuối năm 2007 đến nay, tình hình kinh tế nước ta có những điểm nhấn
quan trọng, đó tình trạng lạm phát cuối năm 2007 kéo dài tới nửa đầu năm 2008, và
sau đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã tác động lớn đến
các hoạt động kinh tế trong nước.
Nội dung:
1. Sơ lượt về chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay.
Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể
trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ
bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ
là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi
lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất
chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.
1.1. Thay đổi lãi suất chiết khấu:
Cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân
hàng vay, thông qua đó điều chỉnh lượng tiền cơ sở.
1.2. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Các cơ quan hữu trách về tiền tệ thường quy định các ngân hàng phải gửi một
phần tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về
tiền tệ có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó.
Công cụ mang tính chất hành chính này ngày nay ít được sử dụng ở các nền
kinh tế thị trường phát triển.
1.3. Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở:


1


Ngô Hà Trang

Cơ quan hữu trách tiền tệ khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá
khác của nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá
đó sẽ làm giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, cơ quan hữu trách tiền tệ có thể điều chỉnh
được lượng cung tiền.
*)Với tình hình thực tế từ cuối năm 2007 đến nay, ta có thể chia tình hình kinh
tế nước ta thành 2 giai đoạn chính với 2 chính sách tiền tệ chính khác nhau của
ngân hàng nhà nước Việt Nam.
2. Giai đoạn từ cuối 2007 đến nửa đầu năm 2008:
2.1. Tình hình:
Một thời gian dài lạm phát được giữ ở mức một con số thì đến năm 2004 lạm
phát lại bùng nổ ở mức cao (9,5%) và đến những tháng cuối của năm 2007, lạm phát
đã tăng lên 2 con số và đạt mức 12,6% vào tháng 12/2007. Những tháng tiếp theo
của năm 2008, lạm phát tiếp tục tăng cao và đã vượt xa chỉ tiêu của Chính phủ đặt ra
cho cả năm 2008 là: GDP tăng từ 6,7 – 7% và giữ CPI thấp hơn mức này. Mức tăng
cao của lạm phát đã dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các mặt hàng, sự mất giá của
các khoản tiền tiết kiệm, không khuyến khích đầu tư, dù vậy, xu hướng tăng của lạm
phát 3 tháng đầu năm 2008 không có dấu hiệu dừng.
2.2. Một số chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn này:
*)Chỉ đạo các tổ chức tín dụng: kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có
rủi ro cao thông qua việc:
- Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay,
chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được vượt quá
20% vốn điều lệ của Tổ chức tín dụng.
- Yêu cầu các Tổ chức tín dụng khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư

nợ cho vay bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay.
- Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của Tổ chức tín dụng theo
hướng chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết phải sử
dụng vốn ngoại tệ.
*)Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt
buộc, thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại

2


Ngô Hà Trang

và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị trường theo mục đích đặt
ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể:
- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn và các Tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn).
- Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành
20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các Tổ chức tín dụng có quy mô vốn huy
động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương).
- 6 tháng đầu năm 2008, Ngân hàng nhà nước đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực
hiện nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền.
Giải thích:
Với biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng
lãi suất cơ bản, tăng chiết khấu, Ngân hàng nhà nước đã rút về một lượng lớn tiền
mặt khỏi lưu thông và từ đó giảm bớt áp lực của sự tăng lạm phát. Việc rút bớt một
lượng tiền mặt khỏi lưu thông được thực hiện thông qua việc siết chặt các khoản vay
không hiệu quả để tập trung tăng trưởng tín dụng cho sản xuất, xuất khẩu, cho lĩnh

vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn, cho hộ chính sách và đặc biệt là đối với
các dự án dang dở có hiệu quả phải đầu tư nhanh để phát huy hiệu quả.
3. Giai đoạn cuối năm 2008 -2011:
3.1. Tình hình:
Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ tác động vào kinh tế Việt
Nam theo nhiều kênh khác nhau. Kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa năm 2009 còn
rất nhiều khó khăn: tốc độ tăng lạm phát ở những tháng cuối năm 2008 có giảm
(mức lạm phát 11 tháng đầu năm 2008 là 20,71%, ước cả năm là 20%), song nguyên
nhân gây ra lạm phát và một số yếu tố đẩy lạm phát tăng vẫn còn, hoạt động sản
xuất, kinh doanh có dấu hiệu suy giảm… Một số chính sách tiền tệ của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam trong giai đoạn này:
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ
Các biện pháp cụ thể đã được triển khai:

3


Ngô Hà Trang

- Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất và các công cụ khác
để tiếp tục hỗ trợ các Ngân hàng Thương mại có khả năng đảm bảo thanh khoản ở
mức cao. Ngày 20/10/2008, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai thực hiện một số biện
pháp:
+ Điều chỉnh giảm dần các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ
14%/năm xuống 13%/năm hiện nay là 8,5%/năm,); và tiếp tục giảm các mức lãi suất
trên trong tháng 12/2008 ở mức hợp lý.
+ Tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức
tín dụng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm;
+ Thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu Ngân hàng nhà nước dưới
hình thức bắt buộc phát hành kể từ ngày 17/3/2008 theo nhu cầu rút trước hạn của

các Tổ chức tín dụng.
- Ban hành Chỉ thị số 05/2008/CT-Ngân hàng nhà nước ngày 9/10/2008 về
một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của Tổ chức tín
dụng
- Đối với việc quản lý dự trữ ngoại hối: chủ động thực hiện các biện pháp
theo hướng ưu tiên cho đảm bảo an toàn và thanh khoản ở mức cao, thứ đến là sinh
lời, bằng việc điều khiển các khoản đầu tư tiền gửi tại các ngân hàng sang Ngân
hàng trung ương các nước phát triển.
3.2. Giải thích:
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế có nguy cơ tăng
trưởng chậm lại thì Ngân hàng Nhà nước đã nới lỏng tiền tệ một cách quyết liệt:
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất dự trữ bắt buộc, giảm hệ thống lãi suất
nhằm cung tiền mạnh mẽ hơn cho nền kinh tế để kích thích tăng trưởng.
4. Giai đoạn 2011-2015
4.1. Tình hình
Bước sang năm 2011, tình hình kinh tế vĩ mô tuy đã cải thiện, nhưng tiếp tục diễn
biến phức tạp, lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và bất động sản suy giảm
mạnh. Hệ thống ngân hàng phải đối mặt với những rủi ro ngày càng gia tăng, nổi bật
là rủi ro tín dụng.

4


Ngô Hà Trang

Chính sách
Giảm mặt bằng lãi suất, tập trung cho vay lĩnh vực ưu tiên.
Ngân hàng nhà nước ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN yêu cầu các credit
organization ấn định lãi suất huy động bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi
hình thức không được vượt quá 14%/năm và đưa ra các chế tài xử lý đối với cá nhân

là người quản lý, điều hành của Tổ chức tín dụng và Tổ chức tín dụng vi phạm quy
định về lãi suất.
Từ năm 2012, điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, kết hợp với điều hành
cung ứng tiền để điều tiết thanh khoản, tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng giảm
lãi suất; tiến hành dỡ bỏ trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng vào tháng 62012 và lãi suất tiền gửi kỳ hạn trên 6 tháng từ tháng 6-2013... Các mức trần lãi suất
huy động và cho vay cũng được điều chỉnh giảm phù hợp với điều kiện vĩ mô, mục
tiêu chính sách tiền tệ.
Tính đến cuối năm 2015, Ngân hàng nhà nước đã giảm 9 lần các mức lãi suất điều
hành với tổng mức giảm khoảng 8,5%/năm; quy định trần lãi suất cho vay bằng
VND đối với các lĩnh vực ưu tiên thấp hơn khoảng 2-3%/năm so với lãi suất cho vay
thông thường và điều chỉnh giảm từ mức 15% xuống còn 7%/năm;…
Kết quả
Với mức độ và tần suất điều chỉnh giảm lãi suất như trên, mặt bằng lãi suất huy
động và cho vay đã giảm đáng kể, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí
vay vốn. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế giảm nhanh, tỷ giá được duy
trì ổn định, dự trữ ngoại hối Nhà nước đã được cải thiện đáng kể.
Giải thích
Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở bám sát diễn biến
kinh tế vĩ mô, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh
tế khác nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đồng thời bảo đảm an toàn hệ thống các Tổ chức tín
dụng. Ngân hàng nhà nước đã sử dụng kết hợp hài hòa các công cụ chính sách
tiền tệ nhằm khuyến khích dòng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh
tế.
5. Giai đoạn 2015-10/2017
5.1. Tình hình

5



Ngô Hà Trang

Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT)
và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2016, CSTT tiếp tục được
điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa
và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ.
5.2. Chính sách
Điều hành linh hoạt công cụ lãi suất: các lãi suất điều hành (lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu) được duy trì ở mức ổn định để hỗ trợ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt
động ngân hàng. mặt bằng lãi suất huy động vẫn được giữ ổn định ở mức 6,5% cho
kỳ hạn 1 năm và 7,2% cho kỳ hạn trên 1 năm vào năm 2016. Thống đốc NHNN Lê
Minh Hưng ghi dấu ấn khi quyết định giảm lãi suất điều hành từ ngày 10/7/2017.
Mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-6,5%/năm
đối với ngắn hạn, các NHTM nhà nước áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn
phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,311%/năm đối với trung và dài hạn,…
Về tín dụng: nhiều giải pháp tín dụng đã được triển khai trong nhằm hỗ trợ thị
trường như:
Một là, trần tăng trưởng tín dụng được kiểm soát nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt
theo TCTD. Năm 2016, trần tăng trưởng tín dụng 18 - 20% (có phân bổ theo từng
nhóm TCTD) nhưng trên thực tế, tăng trưởng tín dụng đã được điều chỉnh linh hoạt
cho các TCTD có điều kiện mở rộng tín dụng và đảm bảo hoạt động an toàn6.
Hai là, nhằm chống đô la hóa trong nền kinh tế, quan hệ mua - bán ngoại tệ tiếp tục
được thực hiện thay cho quan hệ huy động - cho vay ngoại tệ nhưng có sự điều
chỉnh linh hoạt theo thời điểm.
Ba là, nâng cao chất lượng quản trị ngân hàng, giảm rủi ro tín dụng và hạn chế tăng
trưởng tín dụng nóng thông qua việc ban hành Thông tư số 06/2016/TT-NHNN nâng
hệ số rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản từ 150% lên 200% từ

thời điểm 01/01/2017,…

6


Ngô Hà Trang

Bốn là, nhằm thúc đẩy quá trình xử lý nợ xấu, trong năm 2016, NHNN đã ban hành
nhiều văn bản, quyết định, thông tư liên quan đến việc hình thành thị trường mua
bán nợ xấu.
Điều hành ổn định tỷ giá, thị trường ngoại tệ và tăng quỹ dự trữ ngoại tệ
Về tỷ giá hối đoái, chính sách điều hành tỷ giá được điều hành theo hướng linh hoạt
nhằm đáp ứng những yêu cầu từ bối cảnh thương mại và đầu tư quốc tế, tăng cường
ký kết các hiệp định thương mại tự do. Theo cơ chế tỷ giá mới, tỷ giá trung tâm
được NHNN công bố hàng ngày, vào trước phiên giao dịch, dựa trên cơ sở tham
chiếu 3 yếu tố:
Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng;
Diễn biến của đồng USD và một số đồng ngoại tệ trên thị trường quốc tế;
Các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và chính
sách kinh tế vĩ mô.

I. Kết luận:
Nhờ các chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, thông qua điều hành lãi
suất tiền gửi, lãi suất dự trữ bắt buộc, tỷ lệ chiết khấu kịp thời đã giúp ngân hàng
vượt qua được thời kỳ sóng gió đó. Chính sách tất nhiên chưa thể nói là chính xác
nhưng việc điều hành đã đúng quy luật của kinh tế thị trường, đó là thành công.
Tóm tắt lại, trong tình hình kinh tế bị lạm phát, ngân hàng nhà nước sẽ biện
pháp thắt chặt chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản,
tăng chiết khấu, Ngân hàng nhà nước đã rút về một lượng lớn tiền mặt khỏi lưu
thông và từ đó giảm bớt áp lực của sự tăng lạm phát. Và trong tình hình kinh tế bị

khủng hoảng, Ngân hàng nhà nước đã nới lỏng tiền tệ: giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
giảm lãi suất dự trữ bắt buộc, giảm hệ thống lãi suất nhằm cung tiền mạnh mẽ hơn
cho nền kinh tế để kích thích tăng trưởng. Đây là hai nét chính trong việc điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ cuối năm 2007 đến nay.

7



×