Tải bản đầy đủ (.doc) (181 trang)

Liên kết vùng vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ giai đoạn từ nay đến 2020, tầm nhìn 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 181 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

NGÔ VĂN PHONG

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ...................................................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới....................................................... 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................... 13
1.3. Những vấn đề chưa được các công trình đã công bố nghiên cứu giải quyết và
những vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu giải quyết .................. 20
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT
VÙNG................................................................................................................................
.. 21
2.1. Vùng và liên kết vùng ........................................................................ 21
2.2. Cơ sở lý thuyết của liên kết vùng....................................................... 33
2.3. Các nguyên tắc liên kết vùng ............................................................. 37
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết vùng............................................ 38
2.5. Một số tiêu chí đánh giá ..................................................................... 41
2.6. Kinh nghiệm quốc tế về liên kết vùng và bài học cho Việt Nam............. 44
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ GIAI ĐOẠN 2006
- 2015 ................................................................................................... 55


3.1. Điều kiện kinh tế, xã hội của Vùng KTTĐ Bắc Bộ ........................... 55
3.2. Thể chế, chính sách liên kết vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ ......... 60
3.3. Thực trạng liên kết Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ....................... 62
Chƣơng 4. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY LIÊN KẾT VÙNG KTTĐ BẮC BỘ GIAI
ĐOẠN ĐẾN 2020, TẦM NHÌN ĐẾN 2030 .................................................................... 107
4.1. Bối cảnh ........................................................................................... 107
4.2. Quan điểm phát triển liên kết vùng KTTĐ Bắc Bộ ......................... 112
4.3. Định hướng liên kết vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ đến 2030 .............. 113
4.4. Một số giải pháp thúc đẩy liên kết vùng KTTĐ Bắc Bộ ................. 116
KẾT LUẬN.......................................................................................................................
128
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ ............................................................... 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 132
PHỤ LỤC : .......................................................................................................................
137

ii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB
Ngân hàng phát triển châu Á
AEC
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM
Diễn đàn hợp tác Á – Âu

BHYT
Bảo hiểm y tế
CNTT
Công nghệ thông tin CSKCB
Cơ sở khám chữa bệnh CTR
Chất
thải rắn
đ.
Đồng
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
EU
Liên minh châu Âu
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm nội địa
GMS
Vùng sông Mê-Công mở rộng
GTVT
Giao thông vận tải KCN
Khu công nghiệp KKT
Khu
kinh tế
KTTĐ
Kinh tế trọng điểm MTĐT
Môi trường đô thị NHTM
Ngân hàng

Thương mại
ODA
Viện trợ phát triển chính thức OECD
Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế PPP
Hợp
tác Công – Tư
QL.
Quốc lộ
TP.
Thành phố
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn URENCO
Công ty môi trường đô thị USD
Đô-la
Mỹ
WB
Ngân hàng Thế giới
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới

iii
iiii


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Bảng 1: Các loại liên kết chính ....................................................................... 30
Bảng 2: Tỷ lệ lao động qua đào tạo cả nước và các vùng KTTĐ (%) ............ 59
Bảng 3: Tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng xã hội của Vùng
KTTĐ Bắc Bộ ................................................................................................. 69
Bảng 4. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng xã hội

bình quân đầu người của Vùng KTTĐ Bắc bộ năm 2014 .............................. 69
Bảng 5: Thứ tự các mặt hàng xuất khẩu chính năm 2013............................... 71
Bảng 6: Một số thông tin về KKT vùng KTTĐ Bắc Bộ ................................. 80
Bảng 7: Hạch toán hiệu quả kinh tế của một số cây cùng một thời điểm....... 82
Bảng 8. Cơ cấu lao động tại các Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ ............... 92
Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của các tỉnh trong vùng ......................................... 93
Bảng 10: Tỷ lệ hộ nghèo của các tỉnh trong vùng (%) ................................... 94
Bảng 11: Một số kết quả liên kết Vùng KTTĐ Bắc Bộ.................................. 98

iv


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ TRONG LUẬN ÁN
Hình 1: Sơ đồ chuỗi giá trị chung ................................................................... 37
Hình 2: Mô hình bộ máy tổ chức liên kết vùng ở CHLB Đức ....................... 44
2
Hình 3: Mật độ dân số các vùng KTTĐ (người/km ) năm 2012 .................... 58
Hình 4: Tỷ lệ lao động đang làm việc so dân số và lực lượng lao động của các
vùng KTTĐ trên cả nước năm 2011 ............................................................... 59
Hình 5. Sơ đồ bộ máy điều phối VKTTĐ ....................................................... 61
Hình 6: Mô hình trao đổi giữa các vùng nghiên cứu ...................................... 65
Hình 7: Cơ cấu GDP theo ngành vùng KTTĐ Bắc Bộ năm 2000 và 2010 .... 70
Hình 8: Cơ cấu GDP ngành công nghiệp năm 2008 và 2014 ........................ 70
Hình 9: Cơ cấu các ngành công nghiệp chủ yếu của Vùng KTTĐ Bắc Bộ năm
2014 ................................................................................................................. 71
Hình 10: Số lượng và diện tích các KCN của vùng KTTĐ Bắc Bộ thời kỳ
2001-2010........................................................................................................ 76
Hình 11: Tình hình thu hút đầu tư vào các KCN Vùng KTTĐ Bắc Bộ ......... 77
Hình 12: Hiện trạng phân bố các KCN trong vùng KTTĐ Bắc Bộ................ 80
Hình 13: Mô hình liên kết mới vùng KTTĐ Bắc Bộ .................................... 117

Hình 14: Tam giác phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ....................................... 119

v


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng lãnh thổ là một phân hệ trong hệ thống các vùng của mỗi quốc gia. Trong
số các lý thuyết về phát triển vùng, phân vùng và hoạt động của các vùng lãnh thổ là
một nội dung quan trọng đã được các nhà khoa học trên thế giới về kinh tế và xã hội
tập trung nghiên cứu. Đó là một đòi hỏi khách quan từ thực tiễn nghiên cứu cách thức
tổ chức phát triển KT-XH các vùng lãnh thổ. Liên kết vùng lãnh thổ cũng đã được
nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học, tuy nhiên còn nhiều ý kiến khác nhau
về vấn đề này nên việc triển khai liên kết vùng còn dàn trải, lúng túng.
Trải qua quá trình phát triển với sự thay đổi về cơ chế quản lý của nhà nước cho
phù hợp với xu thế phát triển chung từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp,
Việt Nam cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về phát triển các vùng, miền, lãnh thổ...
được áp dụng trên thực tiễn. Từ quan điểm phát triển đồng đều giữa các vùng miền
theo khẩu hiệu như: “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”, “đưa nông thôn theo kịp thành
thị”... rồi đến quan điểm tập trung, ưu tiên nguồn lực phát triển các vùng trọng điểm, như
đã xác định trong Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2001 - 2010 là: xây dựng các vùng
kinh tế trọng điểm (KTTĐ) với tốc độ tăng trưởng nhanh nhằm mục tiêu“đóng góp lớn
vào tăng trưởng của cả nước” và “lôi
1
kéo, hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển” . Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 một lần nữa khẳng định: “Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có cơ
chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, phát huy lợi thế của

từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm,
tạo động lực và tác động lan tỏa đến các vùng khác; đồng thời, tạo điều kiện phát triển
nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn...”. Để các vùng KTTĐ có thể phát huy sức
mạnh tổng thể, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp vùng thì trước hết phải xây dựng
được không gian kinh tế vùng. Từ đó phân bố lại sản
xuất theo hướng chuyên môn hóa hoặc hình thành các vùng sản xuất lớn, tập
1

Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ IX

2


trung… và liên kết vùng sẽ trở thành nhân tố mới góp phần vào tăng trưởng kinh tế vùng.
Tuy nhiên, liên kết vùng ở Việt Nam chưa đạt được như kỳ vọng. Theo Hoàng Ngọc
Phong, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại “63 vùng kinh tế”, tương ứng với 63 tỉnh, thành.
Vì thế, không gian kinh tế vùng bị chia cắt và thu hẹp, nhiều cụm ngành kinh tế (cluster) và
sản phẩm thế mạnh mà các tỉnh có lợi thế không được “liên kết” với nhau, hoặc lợi thế so
sánh của từng tỉnh không được phát huy, mà còn cạnh tranh cục bộ lẫn nhau, dẫn đến
chuỗi giá trị ngành hàng bị cắt khúc; đầu tư trùng lắp, tnh gia tăng giá trị thấp, suất đầu
tư cao do không tận dụng được “lợi thế dùng chung” trên cơ sở phân công trong nội bộ
vùng và liên vùng.
Do đó, nghiên cứu liên kết vùng KTTĐ Bắc Bộ là cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và
thực tiễn. Vùng KTTĐ Bắc Bộ là một trong bốn vùng KTTĐ, là trung tâm chính trị, kinh tế
và văn hóa của Việt Nam. Trong đó, Hà Nội là Thủ đô của cả nước; Hải Phòng có hải
cảng quốc tế quan trọng của Vùng KTTĐ Bắc Bộ cũng như của các tỉnh phía Bắc Việt Nam
và của tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Trong Vùng KTTĐ Bắc Bộ, cảng quốc tế ở Hải
Phòng có lượng hàng hóa chuyển tải lớn theo dòng thương mại Trung Quốc với thế giới
thông qua trục Côn Minh – Hà Nội
– Hải Phòng. Quảng Ninh có khu cửa khẩu Móng Cái với vai trò kết nối khu vực ASEAN –

Trung Quốc và là địa phương có nhiều tiềm năng về du lịch. Với những vị trí và lợi thế rất
“đắc địa và đặc thù” của tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng
– Quảng Ninh, vùng KTTĐ Bắc Bộ được kỳ vọng trở thành “cực tăng trưởng” của Việt Nam,
có vai trò thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Tuy nhiên, sau mười lăm năm hình
thành và phát triển, vùng KTTĐ Bắc Bộ vẫn chưa có bộ máy vận hành liên kết vùng,
chưa thực sự liên kết để tạo ra sức bật lớn trong phát triển kinh tế cho các tỉnh, thành
phố trong vùng.
Đến nay, liên kết Vùng KTTĐ Bắc Bộ (bao gồm cả liên kết nội vùng và liên vùng) vẫn
còn rất hạn chế với nhiều tồn tại, bất cập cả về cơ chế, chính sách lẫn thực thi trong thực
tế. Trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các tỉnh trong vùng KTTĐ Bắc Bộ
sẽ chịu tác động rất lớn từ các yếu tố bên ngoài. Xu hướng cấu trúc lại nền kinh tế trước
sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đe dọa trực tiếp đến


sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của vùng KTTĐ Bắc Bộ và của quốc gia.
Thực tiễn quá trình phát triển Vùng KTTĐ Bắc Bộ cũng như yêu cầu về liên kết vùng
để tạo ra sức mạnh tổng hợp, đủ sức đối phó với những vấn đề như phát triển bền vững,
cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với các mục tiêu bảo vệ môi trường và ổn
định xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, WTO, tiểu vùng
sông Mê Kông mở rộng… phát triển Vùng KTTĐ Bắc Bộ cũng cần tính đến các yếu tố hợp
tác và cạnh tranh với các vùng của khu vực, đặc biệt là các vùng, các tam giác phát triển
thuộc tiểu vùng sông Mê kông mở rộng (GMS). Những vấn đề hợp tác và phát triển vùng
cần phải được xem xét và tính đến trong quy hoạch tổng thể phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ
hiện nay.
Đề tài này tập trung nghiên cứu liên kết vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn từ năm
2006 đến năm 2016 để làm sáng tỏ từ lý luận đến thực tiễn liên kết vùng Vùng KTTĐ
Bắc Bộ, từ đó tìm ra những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của Vùng KTTĐ Bắc Bộ từ nay
đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát

Luận án làm rõ cơ sở lý luận về liên kết vùng, thực trạng, hạn chế, tồn tại trong liên
kết Vùng KTTĐ Bắc Bộ từ 2006 đến 2016. Từ đó, đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết
vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn 2030.
Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về liên kết vùng.
- Làm rõ thực trạng, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân hạn chế trong liên kết Vùng
KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2006 – 2016.
- Đề xuất được một số quan điểm, giải pháp tăng cường liên kết Vùng KTTĐ Bắc Bộ
giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn 2030.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là liên kết Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ


- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung
Trên thực tế, liên kết vùng là một chủ đề có nội dung nghiên cứu rất rộng lớn và
phức tạp. Trong thời gian và điều kiện hạn chế, luận án tập trung nghiên cứu liên kết nội
vùng, trong khi nội dung liên kết ngoài vùng (liên vùng) của Vùng KTTĐ Bắc Bộ cũng được
đề cập nhưng ở mức độ nhất định. Liên kết vùng bao gồm liên kết trên các phương diện
kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu chính của luận án là liên kết
kinh tế; những vấn đề về liên kết xã hội và môi trường sẽ được nghiên cứu ở phạm vi hẹp,
tập trung vào một số vấn đề chính, nổi cộm của vùng.
Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng liên kết nội vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ giai
đoạn 2006 – 2015. Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy liên kết vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ
đến 2020.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Cách tiếp cận chủ yếu của luận án
- Tiếp cận hệ thống: Luận án đặt liên kết Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong mối

quan hệ liên vùng với bên ngoài (trong nước và ngoài nước), không tiến hành nghiên cứu
riêng biệt từng vấn đề của vùng mà xem xét, đặt vùng trong mối quan hệ phát triển tổng
thể kinh tế, xã hội, môi trường và trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế.
- Tiếp cận liên ngành: Liên kết Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ chứa đựng những
nội dung, hình thức, các mối quan hệ kinh tế - xã hội đa dạng, đa chiều cạnh. Cách tiếp
cận chuyên ngành khó luận giải được những vấn đề phức tạp nêu trên. Vì vậy, luận án sử
dụng cách tiếp cận liên ngành: kinh tế học, xã hội học, địa lý... nhằm khắc phục được
những hạn chế nêu trên.
Luận án kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
- Thu thập và phân tch, tổng quan các tài liệu thứ cấp: Phương pháp phân tch dữ
liệu thứ cấp liên quan tới việc sử dụng những dữ liệu sẵn có (thông tin dạng số và thông
tin dạng văn bản) được thu thập từ các tài liệu nghiên cứu đã được thực


hiện trước đây liên quan tới luận án. Tài liệu thứ cấp gồm: các tài liệu về tnh hình kinh tế,
xã hội, nghèo đói, lao động việc làm của các tỉnh thuộc Vùng KTTĐBB, chính sách, luật
pháp liên quan, tnh hình phát triển các khu công nghiệp, các doanh nghiệp, trang trại.v.v...
Nguồn tài liệu thứ cấp được thu thập tại các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, Tổng Cục Thống kê, các Sở, Ban, ngành của các tỉnh
Vùng KTTĐBB.
- Điều tra thực địa: Nghiên cứu sinh đã tiến hành nghiên cứu thực địa tại các địa
phương trong Vùng KTTĐ Bắc Bộ (Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên,
Quảng Ninh, Vĩnh Phúc) để thu thập thông tin về tnh hình phát triển kinh tế và về thực
trạng liên kết vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ. Tiến hành điều tra, nghiên cứu xã hội học, phỏng
vấn sâu cán bộ lãnh đạo chính quyền các cấp, các sở, ban, ngành, các chủ doanh nghiệp,
chủ trang trại, nông dân Vùng KTTĐ Bắc Bộ về quan điểm, chính sách, giải pháp thúc đẩy
liên kết kinh tế vùng.
- Phương pháp phân tích thống kê, phân tích được sử dụng để đánh giá điểm yếu,
mạnh, cơ hội và thách thức nhằm lựa chọn các mô hình liên kết phù hợp với điều kiện
mới. (Chú ý: Nội dung luận án không đề cập việc nghiên cứu mô hình liên kết nên không đề

cập tới mô hình).
- Phương pháp chuyên gia và nghiên cứu tình huống: Phương pháp này được sử
dụng để tham vấn và kiểm nghiệm các luận chứng, phân tch, đánh giá thông qua các
chuyên gia đầu ngành nghiên cứu về vùng, phát triển bền vững. Luận án đã được các
chuyên gia thảo luận, góp ý kiến, đánh giá để có những hướng đi đúng, sát với thực tế.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
 Về mặt lý luận
Hiện nay, liên kết vùng đã trở thành nhu cầu khách quan, đóng vai trò quan trọng
trong chiến lược phát triển không chỉ ở các nước phát triển mà cả những nước đang phát
triển. Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về liên kết vùng, tuy vậy vẫn còn nhiều vấn đề
tranh luận cần làm rõ. Luận án đã góp phần luận giải vai trò của liên kết vùng đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam; vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng thể chế,
chính sách liên kết vùng.


Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu về các khu kinh tế, vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm cũng đã có nhiều
nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ
về thực trạng liên kết của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Luận án đã cho thấy thực
trạng liên kết vùng Vùng KTTĐ Bắc Bộ; những nhân tố tác động đến liên kết Vùng KTTĐ
Bắc Bộ; chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân hạn chế liên kết vùng. Qua đó, luận án
đã góp phần làm rõ những vấn đề thực tiễn về liên kết vùng ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về liên kết vùng, làm
sáng tỏ nội hàm liên kết nội vùng và ngoại vùng, phân biệt liên kết vùng với các hình
thức liên kết khác cũng như những cơ sở đánh giá mức độ liên kết vùng. Những vấn đề lý
luận cơ bản về liên kết vùng được hệ thống hóa trong luận án đã góp phần vào nghiên
cứu và xây dựng chính sách liên kết phát triển vùng ở nhiều nước trên thế giới. Những lý
luận này có thể vận dụng vào nghiên cứu và đề xuất chính sách phát triển vùng ở nước ta
trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án gồm phần mở đầu và 4 Chương chính:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về liên kết vùng
Chương 3: Thực trạng liên kết Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn
2006 - 2015
Chương 4: Giải pháp thúc đẩy liên kết Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn
2017 - 2020, tầm nhìn đến 2030


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
M. Porter trong hai cuốn “Lợi thế cạnh tranh” (năm 1985) và “Lợi thế cạnh tranh
quốc gia” (năm 1950) đã chỉ ra việc tận dụng vào khả năng sáng tạo và sự năng động của
quốc gia mới là nhân tố quan trọng nâng cao khả năng cạnh tranh của một quốc gia.
Camagni (2002) cũng cho rằng, một vùng được cho là có lợi thế tuyệt đối khi vùng sở hữu
các tài sản công nghệ, xã hội, thể chế, hạ tầng ưu việt hơn các vùng khác. Những nguồn
lực này sẽ là nguồn lực xác lập cấu túc kinh tế, phân bố lại lại các hoạt động kinh tế cho
cả vùng, quốc gia và quốc tế. EC (1999) cũng nêu ý tưởng về khả năng cạnh tranh của
vùng là: mặc dù trên thực tế có những doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao và sức cạnh
tranh yếu ở mọi vùng những có những đặc điểm chung trong vùng (địa phương) ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp ở đó. Những nguồn lực
này chi phối các doanh nghiệp và ảnh hưởng tới hiệu quả, khả năng đổi mới, sự linh hoạt
và năng động của các doanh nghiệp đó. Những tư tưởng nêu trên đã chứng tỏ sự đúng
đắn trên thực tế. Các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, hoặc gần đây là Đubai … đã vương lên và phát triển thần kỳ trong nhiều thập kỷ vừa qua dù không có lợi thế
tuyệt đối về tài nguyên, đất đai…
Về liên kết cụm ngành, M. Porter cho rằng “cụm ngành là một nhóm các công ty
liên quan và các thể chế hỗ trợ trong một lĩnh vực cụ thể, quy tụ trong một khu vực địa lý,

được kết nối với nhau dựa vào những khía cạnh tương đồng và bổ sung” (Xem: Giới thiệu
lý thuyết cụm ngành, tr. 2).
“Tăng trưởng theo không gian” bằng các chính sách của chính phủ nhằm phát
triển kinh tế trải rộng, đồng đều trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước, trước đây các nước
như Liên Xô (cũ), Cộng hòa Ả Rập, Ấn Độ, Braxin, Inđônêxia, Mêhicô, Nigiêria, Nam Phi,
Việt Nam… triển khai. N.N. Baransky (nhà địa lý kinh tế thuộc Liên Xô cũ) cho rằng, phân
công lao động theo lãnh thổ là hình thức không gian


của phân công xã hội. Điều kiện tất yếu của phân công theo vùng là một vùng lao động sản
xuất sản phẩm cung cấp cho một vùng khác. Với những giả thiết đó, N.N. Baransky và các
nhà địa lý kinh tế khác đã nghiên cứu các mô hình trao đổi liên vùng. Các nước như Anh,
Canađa cũng đã áp dụng quan điểm này (từ thập kỷ 20 đến 80 của thế kỷ 20). Tuy
nhiên, kết quả mang lại không được như mong muốn. Sau đó, lý thuyết này được phát
triển dựa theo quan điểm mới là “Phát triển kinh tế cần phải tập trung (mất cân đối); còn
xã hội thì tiến đến hội tụ (phát triển đồng đều)”. Mô hình Heckscher - Ohlin (Tân cổ điển)
đã có sự điều chỉnh theo hướng, một vùng sẽ tập trung vào sản xuất loại hàng hóa mà nó
có nhiều nhân tố thuận lợi sẵn có nhất (factor endowment) bởi làm như vậy sẽ đưa chi phí
sản xuất rẻ hơn.
Được khởi đầu từ thế kỷ 19, Johann – Heinrich Von Thunen trong “lý thuyết phát
triển các vành đai công nghiệp” (1833) đã coi các thành phố, các cảng biển, các đầu mối
giao thông lớn là những nút, những trọng điểm của lãnh thổ. Đây là những “mắt xích” có
sức hút và sức lan tỏa ra các vùng xung quanh. Lý thuyết vị trí trung tâm (1933) của hai
nhà bác học người Đức là W. Christaller và A. Losch tiến xa hơn với quy luật phân bố
không gian, từ hệ thống không gian cơ sở để xác định các nút trọng điểm. Theo quan
niệm này, các thành phố là cực hút, là hạt nhân của sự phát triển, là đối tượng để chính
phủ đầu tư có trọng điểm.
Trong tác phẩm „Những nguyên lý kinh tế hoc” (1955), nhà kinh tế học người
Pháp Francois Peroux đã luận chứng về liên kết và lan tỏa dựa vào lý thuyết về “cực tăng
trưởng”. Quan điểm của Perroux là thiết lập các vùng có các ngành với các doanh nghiệp

lớn có sức hút mạnh, năng động nhất sẽ tạo nên “cực tăng trưởng” của vùng. Các cực
tăng trưởng này có sức lan tỏa, thu hút các dòng hàng hóa, nguyên liệu và lao động từ
các vùng khác. Nhờ đó tạo ra các mạng lưới buôn bán, các chuỗi sản xuất… Khái niệm cực
tăng trưởng của Perroux có hạn chế là chỉ đề cập đến không gian kinh tế có tính trừu
tượng chứ không phải là không gian địa lý cụ thể và đôi lúc hai loại không gian này không
đồng nhất.
Trong tác phẩm “Probblem of regional Economic planning” (1966), Jacques
Rauol Boudeville mở rộng khái niệm cực tăng trưởng bằng cách chia ra ba loại


không gian: đồng nhất, phân cực và hoạch định. Trong đó, vùng đồng nhất có đặc điểm là
bao gồm các bộ phận tương đối giống nhau; vùng phân cực là không gian không đồng
nhất, bao gồm một tập hợp các cực mang tnh kinh tế có nhiều quan hệ trao đổi (hàng
hóa và dịch vụ) hoặc liên kết với cực chi phối hơn các cực khác cùng loại. Boudeville đã cố
gắng nhấn mạnh yếu tố địa lý trong lý thuyết cực tăng trưởng bằng cách đưa ra các ranh
giới rõ ràng về mặt địa lý của các hiệu ứng phát triển tch cực (Capello, 2007). Từ đây, yếu
tố then chốt trong phát triển không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngành mà để có
sự phát triển kinh tế vùng phải có sự tập trung về mặt không gian của các hoạt động sản
xuất.
Trong tác phẩm “Regional development policy: A case study of Venezuela” (1966)
John Friedmann đã đưa ra khái niệm về liên kết không gian trong phát triển vùng là mô
hình trung tâm – ngoại vi. Friedmann chỉ rõ, vùng trung tâm là nơi tương đối dồi dào
vốn và là nơi phát sinh đổi mới, do đó là nơi sự phát triển diễn ra. Trong khi đó, các vùng
ngoại vi tương đối dư thừa lao động và sự phát triển của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào
vùng trung tâm, và phải phục vụ cho các nhu cầu của vùng trung tâm. Kiểu liên kết này
tạo ra các dòng lao động và tài nguyên chảy về vùng trung tâm. Đối với vùng ngoại vi, một
khi vùng trung tâm đã phát triển mạnh, sẽ nhận được các luồng thu nhập chảy về. Cuối
cùng, sự bất cân bằng về nhân tố sản xuất ban đầu sẽ được san bằng. Friedmann cho
rằng, tăng trưởng kinh tế sẽ đạt được thông qua sự xuất hiện của một hệ thống thứ bậc
các thành phố và thị trấn có trình độ phát triển cao và liên hệ chặt chẽ với nhau. Sự tăng

trưởng tỷ lệ thuận với quy mô tập trung. Hệ thống thứ bậc là phương tiện để kết nối ngoại
vi với trung tâm (hoặc hạt nhân). Friedman cũng sử dụng khái niệm vùng phân cực và cho
rằng ngoại vi của vùng phân cực bao gồm 4 loại: chuyển tiếp lên trên (upward
transitional), chuyển tiếp xuống dưới (downward transitional), ranh giới nguồn lực
(resource frontier) và khó khăn đặc biệt (special problem). Trong khi đó, Hansen (1981)
quan niệm về các hoạt động kinh tế vùng theo định hướng đô thị có hai yếu tố chính:
một hệ thống các thành phố được sắp xếp theo thứ bậc chức năng và các khu vực tương
ứng bị ảnh hưởng đô thị xung quanh mỗi thành phố trong hệ thống.


Theo quan điểm này, những hoạt động đổi mới dẫn tới sự phát triển lan tỏa từ trung tâm
cao đến trung tâm thấp hơn trong thứ bậc các đô thị và cũng từ trung tâm đô thị đến các
vùng ngoại vi trung gian.
Fujita và Mori (2005) cho rằng, có hai loại liên kết chủ yếu tạo ra xung lực trong
tương tác giữa các ngành. Loại thứ nhất là liên kết kinh tế (E-linkages), liên quan tới các
hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa và dịch vụ; loại thứ hai là liên kết kiến thức (Klinkages), bao gồm các hoạt động của con người trong sáng tạo và chuyển giao kiến thức,
từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa kiến thức (knowledge spillover effects). Ohlin (Mỹ) đã tập
trung nghiên cứu vấn đề quan hệ liên vùng và đưa ra lý thuyết về “trao đổi hàng hoá liên
vùng”. Nội dung cơ bản của lý thuyết này là “mọi vật đều tuỳ thuộc lẫn nhau”. Các vùng
khác nhau có nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người khác nhau. Do những
khác biệt về lịch sử phát triển kinh tế, nên các vùng cũng có những cơ sở sản xuất và thiết
bị sản xuất trên thực tế không giống nhau. Những khác biệt trên đây gây ra những chi
phí sản xuất khác nhau, cũng như nhu cầu khác nhau cho từng chủng loại hàng hoá, dịch
vụ cụ thể, dẫn đến giá cả cũng thay đổi. Tuy vậy, những chênh lệch ấy còn tạo ra những
khác biệt về vùng và chu chuyển hàng hoá và dịch vụ giữa các vùng. Trạng thái cân
bằng sẽ được thiết lập khi cùng tham gia trao đổi lẫn nhau trên một địa bàn. Từ những ý
tưởng của lý thuyết này, hiện nay người ta quan tâm đến các dòng luân chuyển, trao đổi
liên vùng về công nghệ, kiến thức khoa học, năng lực nghiên cứu, thông tin và năng lực
sản xuất kinh doanh. Fujita và Mori (2005) cũng chỉ ra hiệu ứng tương tự về vai trò của địa
lý tự nhiên trong việc quyết định địa lý kinh tế.

Trong tác phẩm “Stratey of Economic Development” (1958), Albert Hirshman
quan niệm “liên kết là quá trình làm thế nào một hoạt động này dẫn đến một hoạt động
khác” và giải thích thêm rằng,” liên kết tồn tại khi một hoạt động diễn ra lại kéo theo
các chủ thể khác bắt đầu một hoạt động mới”. Theo đó, liên kết vùng là một quá trình
liên kết ngược và xuôi các dòng chảy thị trường hàng hóa diễn ra trên một không gian
lãnh thổ nhất định. Hirschman đã dựa trên các mối quan hệ ngành và liên ngành đã phân
biệt hai loại: liên kết ngược (backward linkages,


upstream linkages) và liên kết xuôi (forward linkages, downstream linkages). Hirschman
cho rằng, các hiệu ứng liên kết ngược (backward linkage effects) nảy sinh từ nhu cầu
cung ứng đầu vào của một ngành nào đó mới được thiết lập; còn hiệu ứng liên kết xuôi
phát sinh từ việc sử dụng đầu ra của ngành đó như là đầu vào của các hoạt động kéo
theo. Nói cách khác, bất kỳ một ngành nào mới được thiết lập cũng kéo theo các hoạt
động sản xuất khác nhằm cung cấp đầu vào cho nó. Mọi ngành, trừ các ngành sản xuất ra
sản phẩm là hàng hóa, đều kéo theo các hoạt động khác sử dụng đầu ra của nó như đầu
vào của mình. Hiệu ứng liên kết được xem như các xung lực tạo ra các khoản đầu tư mới
thông qua sự vận động của các mối quan hệ đầu vào - đầu ra. Đây chính là điểm mấu
chốt trong lý thuyết phát triển kinh tế của Hirschman khi ông khuyến nghị cần tập trung
đầu tư vào những ngành có các mối liên kết mạnh, để thông qua sức lan tỏa của chúng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng không cân đối). Ngoài kiểu liên kết trong sản
xuất nêu trên, Hirschman cũng đề cập đến liên kết tiêu dùng nhưng cho rằng không
như liên kết trong sản xuất, liên kết tiêu dùng có thể mang lại hiệu ứng tiêu cực ví dụ
như sự suy tàn của các nghề thủ công khi thu nhập tăng lên, do có sự chuyển hướng trong
tiêu dùng. Trong công trình nghiên cứu sau này của mình, Hirschman cũng đề cập đến
kiểu liên kết theo kiểu mạng lưới xã hội khi cho rằng liên kết cũng là sự ràng buộc chặt chẽ
thành mạng lưới dày đặc các thương gia và cư dân thành thị (Hirschman, 1977). Khái niệm
về liên kết xuôi và ngược của Hirschman sau đó được mở rộng và sử dụng trên nhiều
giác độ khác nhau của các hoạt động kinh tế. Hazell và Roell (1983) trong công trình
nghiên cứu về liên kết giữa các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp cho rằng, liên

kết có thể diễn ra theo hai hướng: liên kết trong sản xuất và liên kết trong tiêu dùng, trong
mỗi loại đều tồn tại 2 hình thức liên kết xuôi và liên kết ngược. Trong một nghiên cứu
khác về liên kết giữa hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở Châu Phi, Haggblade et
al. (1989) đã đưa ra sự phân biệt giữa liên kết trên thị trường nhân tố sản xuất và liên kết
trên thị trường sản phẩm. Các liên kết về nhân tố sản xuất liên quan đến các dòng vốn và
lao động giữa hai khu vực; còn các liên kết trên thị trường sản phẩm bao gồm liên kết
ngược giữa


nông nghiệp và các ngành cung ứng đầu vào cho nông nghiệp, liên kết xuôi giữa hoạt
động nông nghiệp với các hoạt động phân phối và chế biến, và liên kết cầu tiêu dùng được
tạo ra như là kết quả của sự gia tăng thu nhập nông nghiệp. Bên cạnh đó ở một số nghiên
cứu về liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với các đối tác trong nước (UNCTAD,
2001; Giroud và Scot - Kennel, 2006; Scot - Kennel và Enderwick, 2005; Glass et al.,
2002; Saggi, 2002), các tác giả phân biệt hai loại liên kết: liên kết dọc (vertical linkages) và
liên kết ngang (horizontal linkages). Trong đó liên kết dọc là mối quan hệ trực tiếp giữa
doanh nghiệp nước ngoài với các nhà cung cấp địa phương (liên kết ngược) và với
người tiêu dùng đối với sản phẩm trung gian hoặc cuối cùng (liên kết xuôi). Liên kết dọc
dựa chủ yếu trên các quan hệ giao dịch nhưng cũng bao gồm cả các trợ giúp tự nguyện
hay chuyển giao nguồn lực và công nghệ cho các đối tác địa phương (Saggi, 2002).
Liên kết ngang liên quan đến các hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp nước ngoài và
trong nước dưới dạng các liên doanh và quan hệ mạng lưới giữa các doanh nghiệp
(Giroud và Scot-Kennel, 2006); hay liên kết ngang thể hiện ở đây vẫn có sự đánh đồng
giữa bản thân mối liên kết và hiệu ứng của nó trong tiêu dùng. Sự tương tác giữa doanh
nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp địa phương trong việc sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ
trong cùng một khâu sản xuất (UNCTAD, 2001). Các tác giả này cũng phân biệt giữa các
mối liên kết và hiệu ứng của chúng. Hiệu ứng quan trọng nhất được gọi là hiệu ứng lan
tỏa (spillovers), nảy sinh như tác động phụ từ hoạt động của các công ty nước ngoài trong
nền kinh tế (thông qua quá trình bắt chước, học tập, mô phỏng của các doanh nghiệp
trong nước đối với các kỹ năng quản lý, công nghệ, chiến lược kinh doanh của các doanh

nghiệp nước ngoài). Ở đây liên kết được xem như cơ chế trực tiếp để các hiệu ứng lan
tỏa diễn ra. Những mối liên kết này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chính
quyền địa phương liên kết để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho liên kết của các ngành, các
doanh nghiệp.
Bên cạnh những mô hình liên kết được nêu trên cũng còn một số mô hình lý thuyết
khác, song tựu chung lại có thể thấy tồn tại hai mô hình phát triển không gian khác nhau
liên quan đến việc xây dựng mô hình phát triển kinh tế liên vùng. Trong


phạm vi đề tài này, lý thuyết trao đổi hàng hóa của Heckscher – Ohlin và lý thuyết về
cạnh tranh quốc gia của M. Porter được kết hợp sử dụng để phân tch, đánh giá liên kết
vùng Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc bộ.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về vùng và liên kết vùng đã trở thành chủ đề được
các nhà khoa học trong nước tập trung nghiên cứu. Trong tài liệu “Việt Nam - lãnh thổ và
các vùng địa lí" (1998), "Tổ chức lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm"
(1992-1994), "Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam" (1994-1996) của Lê Bá
Thảo là những công trình liên quan đến tổ chức lãnh thổ và các vấn đề môi trường. Lê Bá
Thảo đã đưa ra hệ thống quan niệm về vùng và phân vùng. Phối hợp với các giáo sư tại
trường Đại học Sư phạm, Đại học Kinh tế quốc dân (trước đây là trường Đại học Kinh tế
tài chính) Lê Bá Thảo đã nghiên cứu các mối quan hệ các vùng, giúp Chính phủ phân chia
một số Khu tự trị, nhằm khai thác tốt hơn khả năng ở các vùng, các khu này trong mối
quan hệ chung của hệ thống vùng cả nước.
Đến những năm 1960-1970 nhóm nghiên cứu trong các Trường Đại học Sư phạm
(Khoa Địa lý), trường Đại học Kinh tế quốc dân, và sử dụng các mô hình toán trong nghiên
cứu quan hệ các lĩnh vực cụ thể trong các vùng tại Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp

2

đã tiến hành nghiên cứu các chuyên đề về liên vùng, liên ngành. Kết quả của việc nghiên

cứu đã được thể hiện trong việc phân chia theo sự phân công chuyên môn hoá các
vùng. Kết quả nghiê cứu đã đóng góp cho việc hoạch định các chính sách nhà nước một
cách cân đối và khai thác tốt thế mạnh của các vùng trong cả nước. Cụ thể vào cuối những
năm 60, để đáp ứng cho nhiệm vụ đào tạo, giảng dạy về vùng ở các trường đại học, đặc
biệt ở trường Đại học sư phạm Hà
Nội, giáo sư Trần Đình Gián dựa trên những lí luận về vùng năm 1921-1922 của khoa học
địa lý Xô Viết (Liên Xô cũ), vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III,, đã đề xuất phương án phân chia lãnh thổ nước ta thành hai vùng kinh tế

2 Đóng góp nhiều cho lĩnh vực này phải kể đến giáo sư Lê Bá Thảo, Trần Đình Gián, Đoàn
Đinh
Hoè, Nguyễn Xuân Ngọc; cố giáo sư Đặng Như Toàn, Nguyễn Văn Thiều, …


cơ bản theo thực thể phân chia ranh giới chính trị hồi đó (miền Bắc và miền Nam). Theo
đó, hệ thống vùng gồm 3 cấp (vùng kinh tế lớn, vùng kinh tế- hành chính tỉnh (hay liên
tỉnh), vùng kinh tế cơ sở huyện (hay liên huyện)). Ba cấp đó giống như một hệ thống
động lực, hoạt động vừa có phân cấp, vừa có phối hợp, liên kết với nhau nhằm xây dựng
một nền kinh tế - xã hội- văn hoá thống nhất và đa dạng, tiêu biểu mang đặc điểm Việt
Nam Về cấp vùng kinh tế lớn đươc chia thành 4 vùng (lúc đó gọi là các Á vùng): Tây Bắc,
Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung bộ. Mỗi vùng đó bao gồm các vùng kinh tế hành
chính tỉnh. Việc nghiên cứu và phân chia vùng để phục vụ cho kế hoạch hóa lãnh thổ diễn
ra chủ yếu trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam (từ Vĩnh Linh trở ra) với đặc trưng chính về
kinh tế là nông lâm ngư nghiệp. Do đó, dáng dấp của nó chủ yếu là liên quan với nhau
theo các vùng nông- lâm-ngư nghiệp trong cả nước. Vào thời điểm này, Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước phối hợp với Bộ Nông nghiệp nghiên cứu phân vùng nông nghiệp miền Bắc, chia
miền Bắc thành 4 vùng nông nghiệp lớn: Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng,
Khu Bốn cũ (từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh).
Những năm 1970-1985 với sự giúp đỡ và hợp tác với các chuyên gia Liên Xô
nhiều công trình về kinh tế vùng lãnh thổ, cũng như mối liên hệ liên vùng được nghiên

cứu tại các trường, các Viện trong cả nước. Viện Chiến lược phát triển (Khi đó là Viện
Phân vùng Kinh tế TW) đã triển khai nghiên cứu một số mô hình liên kết các vùng, chẳng
hạn: Ngô Doãn Vịnh nghiên cứu sâu về các vấn đề quan hệ liên vùng, đưa ra mô hình ứng
dụng, hướng dẫn trong nghiên cứu tổ chức không gian vùng lãnh thổ; Nguyễn Hiền
nghiên cứu mối quan hệ liên ngành và liên kết các thể tổng hợp sản xuất lãnh thổ; Nguyễn
Văn Thiều, Lê Văn Nắp, Phan Xuân Chi nghiên cứu về mối quan hệ liên vùng trong phát
triển vùng cây lương thực trong mô hình toán cân đối. Kết quả việc nghiên cứu đã được
sử dụng trong việc phân các vùng kinh tế theo từng giai đoạn. Vào những năm 1976-1980
Chính phủ đã phê duyệt 7 vùng phát triển nông, lâm nghiệp, hình thành các vùng chuyên
môn hoá tập trung và liên quan với nhau trong hệ thống nền kinh tế quốc dân.
Từ cuối những năm 80 đầu những năm 90, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển


dần từ nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban kế
hoạch Nhà nước (nay là Bộ kế hoạch và Đầu tư) đã chủ trì nghiên cứu qui hoạch phát
triển kinh tế-xã hội các vùng lớn cho thời kỳ 1996-2010, theo đó hình thành nên 8
vùng kinh tế và 3 vùng KTTĐ để xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội
các vùng đến năm 2010.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về phân vùng kinh tế và mô hình liên vùng Viện
Chiến lược phát triển đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành phương pháp qui hoạch
vùng, kể cả vùng kinh tế trọng điểm và phương pháp qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
tỉnh/thành phố; chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước
xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm
2010. Hoàng Ngọc Phong nhấn mạnh, trong nghiên cứu về quy hoạch phát triển (gồm quy
hoạch không gian, quy hoạch tổng thể) đều phải tnh đến các liên kết vùng dựa trên
các lợi thế phát triển và phân công lao động. Dựa trên bố trí không gian liên kết nội vùng
và liên vùng để thúc đẩy các chuỗi giá trị hàng hóa, xây dựng hạ tầng sản xuất, bố trí các
trọng điểm kinh tế. Những không gian kinh tế được thiết lập dựa trên sự tăng năng lực
phát triển của từng vùng, từng địa phương cụ thể. Hệ lý thuyết địa kinh tế - xã hội cho

thấy phân bố không gian phát triển vùng dựa trên các không gian kinh tế và nguồn lực
phát triển của mỗi địa phương và mỗi vùng. Ngoài ra, các tác giả như: Phạm Xuân Hậu,
Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức… đã tập trung nghiên cứu để
phân nhóm các tỉnh/thành phố theo trình độ phát triển. Các nghiên cứu này chủ yếu giúp
cho việc hoạch định chính sách phát triển vùng, chưa đề cập nhiều tới tới liên kết vùng
và giải pháp để các vùng liên kết bền vững.
Nghiên cứu về liên kết vùng gần đây cũng được chú trọng. Nguyễn Văn Huân
trong “Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn” cho rằng, liên kết phát triển nội vùng và liên
vùng dựa trên cơ sở phân công lao động với các lợi thế so sánh khác nhau là tiền đề nâng
cao hiệu quả đầu tư phát triển vùng nói chung và đầu tư công nói riêng. Liên kết phát
triển kinh tế là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường


với các chuỗi ngành hàng được bố trí trên một không gian lãnh thổ nhất định, tạo nên
các cực tăng trưởng. Khi các chủ thể kinh tế cũng như các địa phương được thực thi
các quyền hành trong khung khổ thể chế phân quyền, phi tập trung hóa với các lợi ích cụ
thể sẽ là tiền đề để thúc đẩy mạnh mữ hơn các liên kết đầu tư phát triển trên không
gian vùng.
Trần Hữu Hiệp trong “Liên kết vùng – Giải pháp phát triển tam nông” cho rằng,
yếu tố không gian lãnh thổ và địa – kinh tế là tiêu chí quan trọng để phân vùng. Theo
đó, vùng kinh tế (economic region) được coi là một thực thể khách quan, sự tồn tại
của nó là do yêu cầu phát triển KT-XH của mỗi quốc gia trong những giai đoạn nhất định
quyết định hoặc dựa trên những lợi ích.
“Liên kết kinh tế miền trung và Tây nguyên: Từ lý luận đến thực tiễn” (Tạp chí Khoa
học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng (2009) của Trương Bá Thanh. Nguyễn Đức Kiên trong
“Phát triển mô hình kinh tế vùng – từ góc nhìn tái cơ cấu nền kinh tế” cho rằng, một đặc
điểm của vùng kinh tế là sự phân công theo trình độ giữa các vùng có các sản phẩm giống
nhau với trình độ gần như nhau và được thực hiện đối với một sản phẩm hay trình độ sản
xuất. Ví dụ đối với ngành may mặc, sản phẩm áo sơ mi do nhiều công ty cung cấp đối với
trình độ kỹ thuật gần như nhau nhưng khác nhau về mẫu mã, quy cách và giá cả có sự xê

dịch không nhiều. Điều này thể hiện tnh đa dạng của cạnh tranh và thị hiếu của người
tiêu dùng. Đây còn được gọi là sự phân công theo sự khác biệt của sản phẩm. Do sự phát
triển công nghiệp ở các địa phương không đồng đều, các ngành công nghiệp coi trọng
khác nhau, trình độ và tnh hình phát triển còn có sự khác biệt nên sự phân công giữa các
vùng về công nghiệp ngày càng quan trọng. Các vùng phải lấy sản phẩm trọng điểm của
mình đổi lấy những sản phẩm của ngành không có ưu thế để hình thành thị trường nội địa
và tiến tới quốc tế. Do đó, các vùng kinh tế chủ yếu được hình thành dựa trên phân công
sản xuất theo chiều dọc và thường diễn ra theo hai cách. Cách thứ nhất, hình thành vùng
nguyên liệu thô, sản phẩm sơ chế và có vùng cung cấp thành phẩm đã chế biến tinh. Khi
nền kinh tế càng phát triển thì sự phân công càng tỷ mỷ, sản phẩm càng phức tạp với
trình độ ngày càng cao thì số lần gia công càng


lớn. Quá trình sản xuất hai lợi sơ cấp và thành phẩm tạo ra mối liên hệ theo chiều dọc,
gắn kết cả hai vùng kinh tế với nhau. Cách thứ hai, là sự phân công giữa các công đoạn có
mức độ kỹ thuật cao với công đoạn có yêu cầu trung bình và thấp cùng một sản phẩm.
Cách này có thể nhận thấy ở sản phẩm ô tô, xe máy, máy bay, máy tnh...
Nghiên cứu về cơ chế liên kết vùng và tổ chức điều phối vùng được một số tác
giả như: Hoàng Ngọc Phong, Vũ Thành Tự Anh, Lê Thế Giới, Đinh Sơn Hùng, Trần Hữu
Hiệp, Nguyễn Văn Huân, Nguyễn Tiến Lực, … đề cập. Khi nghiên cứu về vai trò thúc đẩy
đổi mới cơ cấu kinh tế vùng ven biển của các vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam, tác giả Nguyễn
Văn Huân (2004) đã nhấn mạnh đến những yếu tố tạo sức cạnh tranh của các vùng bằng
việc tnh toán các chỉ số cạnh tranh của các vùng kinh tế trọng điểm chưa dựa trên các
yếu tố của lợi thế so sánh vùng và nhân tố tác động chính sách qua mô hình phân tích
PEEST (Political/Legal, Economy, Environment, Social and Technology) còn hạn chế. Và đi
đến khuyến nghị cần có các cơ chế chính sách hợp lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ tài nguyên trong các vùng KTTĐ cũng như trên
toàn bộ vùng ven biển. Nguyễn Tiến Lực (2001) đã phân tích tầm quan trọng của các cực
tăng trưởng và khẳng định rằng để phát triển bền vững Vùng KTTĐ trong cả nước đòi hỏi
phải giải quyết nhiều vấn đề, từ cơ chế chính sách đầu tư, cơ chế chính sách liên kết

vùng,... đến chỉ đạo tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách đó. Vấn đề quan trọng hàng
đầu là có một cơ chế chính sách đồng bộ của Chính phủ cho các vùng KTTĐ không chỉ trên
lĩnh vực phát triển kinh tế mà còn cơ chế chính sách có tnh hướng dẫn về phát triển xã
hội, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường... Các trọng điểm
phát triển sẽ đóng góp đáng kể vào tiến trình phát triển của đất nước trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước nếu Chính phủ sớm có các cơ chế chính
sách phát triển bền vững các vùng KTTĐ trong cả nước. Đặc biệt, tác giả Đinh Sơn Hùng
(2011) đã đề cập tới mô hình xây dựng cơ chế liên kết kinh tế tổng quát – mô hình được
nhiều nước trên thế giới áp dụng (như Đức, Phần Lan, ..). Tuy nhiên, khi đề xuất mô hình
liên kết cho Việt Nam, tác giả


Đinh Sơn Hùng lại đề xuất mô hình tương đối giống với mô hình do nhóm tác giả của Viện
Nghiên cứu phát triển đề xuất và đang được áp dụng hiện nay. Mô hình này được áp
dụng đã 10 năm nhưng mang lại ít hiệu quả bởi mô hình mang tính chất mệnh lệnh
hành chính từ trên xuống (Top – down). Do đó, mô hình không tạo ra sự bình đẳng giữa
địa phương trong liên kết vùng, chưa phát huy được tnh chủ động của người dân và
chính quyền địa phương; chưa làm rõ lợi ích của người dân trong liên kết vùng; chưa có
cơ chế thu hút tài chính để có thể thực hiện những công việc của vùng. Một cách tổng
quát hơn, Hoàng Ngọc Phong (2016) đã đưa ra mo hình điều phối liên kết vùng lấy phát
triển các cụm liên kết ngành làm trung tâm tại các vùng kinh tế trọng điểm, từ đó đưa ra
các cơ chế và quy chế liên kết phát triển nội vùng và liên vùng.
Về kinh nghiệm quốc tế, nhóm tác giả Nguyễn Xuân Cường (2010) có các báo
cáo về hợp tác Vùng Chu Giang mở rộng (Trung Quốc), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương (2011) đã khảo sát liên kết vùng ở Cộng hòa Liên bang Đức
… Đây là những gợi ý quan trọng về thực tiễn giúp cho các nhà hoạch định chính sách của
Việt Nam có điều kiện so sánh, cân nhắc trong chính sách phát triển liên kết vùng của
Việt Nam. Những gọi ý này cùng với kinh nghiệm liên kết vùng Hensinki (Phần Lan) sẽ
được sử dụng trong đề tài nhằm bổ sung kinh nghiệm thực tiễn cho liên kết vùng Vùng
KTTĐ Bắc Bộ nói riêng, cho liên kết vùng ở Việt Nam nói chung.

Đối với Vùng KTTĐ Bắc Bộ, nhóm tác giả Lê Bá Thảo, Ngô Doãn Vịnh, Lê Văn Nắp,
Vũ Thành Hưởng… đã có những nghiên cứu về tiềm năng, thế mạnh và mối quan hệ giữa
Vùng KTTĐ Bắc Bộ với các vùng xung quanh. Ngoài ra, tác giả Lê Văn Nắp (2009) đã áp
dụng mô hình liên vùng để chỉ ra tiềm năng, thế mạnh của Vùng KTTĐ Bắc Bộ với các tiểu
vùng còn lại của Vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Nghiên cứu này nhấn mạnh tới các dòng
trao đổi hàng hóa giữa Vùng KTTĐ Bắc Bộ với các tiểu vùng còn lại của Vùng Đồng Bằng
Sông Hồng nhưng chưa tập trung xem xét các mối liên kết nội vùng của Vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Nhiều khuyến nghị của tác giả Lê Văn Nắp đã được Chính phủ tiếp thu để thành lập cơ
quan điều phối các


vùng KTTĐ Bắc bộ. Tuy nhiên, đây là một cơ quan kiêm nhiệm, không có cơ sở pháp lý,
không có tài chính, nhân sự chuyên trách… nên rất hạn chế trong việc điều phối các hoạt
động của vùng. Hệ quả là Vùng KTTĐ Bắc Bộ liên kết lỏng lẻo, chưa có sản phẩm đặc trưng
của vùng. Hoạt động chính của liên kết vùng chỉ là các cuộc họp bàn thảo nhiều vấn đề sau
đó lại không triển khai … Vì vậy, cần phải tập trung nghiên cứu để làm rõ mô hình, các mối
liên kết nội vùng và cơ chế liên kết phù hợp với hoàn cảnh của Vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ như: “Phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ Việt Nam theo hướng bền vững” của Tô Hiến Thà, “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” của Trần Thị Tuyết
Lan (2014) … đã tập trung nghiên cứu tnh hình phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào vùng KTTĐ Bắc Bộ. Hoàng Mạnh Hùng (2014) nghiên cứu phát
triển liên kết kinh tế giữa nông nghiệp Thủ đô Hà Nội với nông nghiệp các tỉnh phụ cận.
Công trình đã chỉ ra việc cần gắn kết giữanhwngx người có vốn, có công nghệ ở Hà Nội với
những người sản xuất nông sản ở các tỉnh phụ cận với mục đích người sản xuất có thêm
nguồn lực, đặc biệt có thị trường tiêu thụ ổn định.
Như vậy, thực tế cho thấy vấn đề về cách phân vùng lãnh thổ - kinh tế và liên kết
vùng, đặc biệt là liên kết kinh tế đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam và kết quả của nó có giá trị đóng góp vào chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, thực tế liên kết vùng ở Việt Nam

đến nay chưa đưa lại kết quả như mong muốn và việc liên kết giữa các địa phương vẫn
chỉ là hình thức, thể hiện cụ thể ở hai đặc trưng chính: Thứ nhất, mô hình liên kết vùng
được áp dụng đại trà trên toàn quốc; Thứ hai, các công việc cụ thể của liên kết vùng
thường chỉ là các cuộc họp, các vấn đề hợp tác, liên kết chỉ được bàn thảo mà ít được
triển khai thành kết quả cụ thể. Như vậy, đâu là nguyên nhân của tnh trạng này và liệu
có giải pháp nào khắc phục được hay không? Trong trường hợp liên kết vùng không
đem lại hiệu quả thiết thực thì việc dừng các mô hình liên kết vùng không hiệu quả cũng
có thể tránh lãnh phí cho đất


×