ĐẶT VẤN ĐỀ
ơ
Theo xu hướng phát triển của xã hội, kiến thức về rừng của con người ngày
càng sâu sắc hơn, quan điểm và mục tiêu sử dụng rừng ngày một đúng đắn và
toàn diện, các biện pháp sử dụng rừng cũng dần được hoàn thiện. Tuy nhiên,
những đổi mới và tiến bộ chưa kịp thời và chưa đủ ngăn chặn nạn suy thoái
rừng, gây ra những nguyên nhân mang tính xã hội, dẫn đến tình trạng phá vỡ cân
bằng sinh thái, gây tổn hại môi trường sống.
Ở nước ta, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong giai đoạn vừa qua
diện tích rừng đã giảm đáng kể, với tốc độ khoảng trên dưới 100.000 ha/năm. Tỷ
lệ che phủ của rừng giảm từ 43% vào năm 1943 xuống còn 27,1% vào năm 1980
và 26,2% vào năm 1985 (Bộ Lâm nghiệp, 1991). Nhờ các chương trình trồng
rừng (chương trình 327 giai đoạn 1992-1998 và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
giai đoạn 1998-2010), tính đến năm 2005, cả nước có trên 12,6 triệu ha rừng
(trong đó: rừng tự nhiên có gần 10,3 triệu ha, rừng trồng hơn 2,3 triệu ha), nâng
độ che phủ rừng đạt 37% (nguồn - Cục Kiểm lâm). Tính đến năm 2012, độ che
phủ của rừng Việt nam đã đạt gần 40%. Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên hiện
có đa phần là rừng nghèo, rừng kém chất lượng, cấu trúc rừng ở nhiều nơi đã bị
phá vỡ, khả năng phòng hộ cũng như cung cấp lâm sản rất hạn chế.
Diện tích rừng bị mất làm cho chất lượng rừng bị suy giảm cả về tổ thành
các loài cây quý hiếm có giá trị cũng như tổng trữ lượng gỗ của rừng. Ngoài ra,
nạn mất rừng diễn ra liên tục trong nhiều thập kỷ qua đã làm cho nhiều khu rừng
lớn bị chia cắt thành từng mảnh rừng nhỏ hoặc bị khai thác quá mức làm mất
cấu trúc rừng, hoặc cấu trúc của rừng đã biến đổi theo chiều hướng xấu.
Như vậy, để kinh doanh rừng có hiệu quả thì một trong những công việc
không thể thiếu là nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tài nguyên rừng làm cơ sở để đề
xuất các biện pháp tác động phục hồi rừng. Mặc dù vậy, cho đến nay những
nghiên cứu về hiện trạng tài nguyên rừng vẫn chưa thể bao quát cho mọi khu
1
rừng, chưa thể làm nổi bật những điển hình và đặc thù của mọi loại hình rừng ở
từng khu vực cụ thể.
Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng phong phú với diện
tích 484246 ha rừng. Mường lát là một huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh Thanh
hóa có hệ sinh thái rừng đa dạng và phong phú. Rừng ở đây rất quan trọng trong
bảo vệ đất, giữ nước, phòng hộ đầu nguồn và bảo vệ môi trường sinh thái. xã
Tén Tằn huyện Mường Lát là một huyện miền núi, có nhiều dân tộc chung sống.
Nhận thức cửa người dân về môi trường sinh thái của rừng còn nhiều hạn chế.
Vì vậy, tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, mức độ đa dạng sinh học của rừng
suy giảm phần nào ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ và hiểu quả kinh tế của
rừng. Xuất phát từ thực tiễn đó tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm cấu
trúc rừng tự nhiên tại xã Tén Tằn, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa” làm
cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động vào rừng.
2
PHẦN 1.TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1 Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.1.1.1. Quan điểm về cấu trúc rừng
Hiện nay, nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc rừng đã được đưa ra.
Theo quan điểm các nhà lâm sinh, cấu trúc rừng (forest structure) là sự sắp xếp
tổ chức nội bộ của các thành phần trong hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có
đặc tính sinh thái khác nhau có thể chung sống hài hòa và đạt tới sự ổn định tương
đối trong một giai đoạn phát triển nhất định của tự nhiên. Còn trên quan điểm sản
lượng, Husch,B.(1982), cấu trúc là sự phân bố kích thước của loài và cá thể trên
diện tích rừng.
Như vậy, có thể thấy cấu trúc lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình
chọn lọc tự nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với
thực vật và giữa thực vật với hoàn cảnh sống. Do đó, cấu trúc phản ánh mối
quan hệ giữa sinh vật với nhau và giữa sinh vật với môi trường, ở đây là mối
quan hệ giữa cây rừng với cây rừng và giữa cây rừng với hoàn cảnh sống. Trên
quan điểm sinh thái thì cấu trúc chính là hình thức bên ngoài phản ánh nội dung
bên trong của hệ sinh thái. Trên quan điểm sản lượng thì cấu trúc rừng phản ánh
sức sản xuất của rừng theo điều kiện lập địa.
Trong nghiên cứu cấu trúc người ta chia thành ba dạng cấu trúc: Cấu trúc
sinh thái (tổ thành, dạng sống, tầng phiến), cấu trúc hình thái (tầng thứ, mật độ,
mạng hình phân bố cây), cấu trúc thời gian (tuổi). Nhìn chung, các nghiên cứu
về cấu trúc rừng đều có chung một hướng là xây dựng cơ sở có tính khoa học và
lý luận phục vụ công tác kinh doanh rừng hiệu quả, đáp ứng mục tiêu ngày càng
đa dạng. Những nghiên cứu này bước đầu chủ yếu là định tính, sau chuyển sang
định lượng.
Khi chuyển đổi từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng cấu
trúc rừng, nhiều tác giả đã sử dụng các công thức và hàm toán học để mô hình
hóa cấu trúc rừng, xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc của rừng.
3
Điều đó có ý nghĩa là các quy luật cấu trúc lâm phần ngày càng được mô
tả nhiều hơn bằng các mô hình toán học, để từ đó thông qua việc tác động các
giải pháp kỹ thuật lâm sinh dẫn dắt rừng đi tới một mô hình có lợi nhất cho từng
đối tượng và hoàn cảnh cụ thể.
1.1.1.2. Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D1.3)
Đây là quy luật cơ bản nhất của kết cấu lâm phần. Hầu hết các tác giả đều
sử dụng hàm toán học để mô phỏng cho quy luật phân bố này. Có thể điểm qua
một số công trình tiêu biểu như sau:
Meyer (1934), sử dụng phương trình toán học có dạng đường cong giảm
liên tục để mô tả phân bố số cây theo cỡ đường kính, về sau gọi là phương trình
Meyer hay hàm Meyer.
Naslund (1936-1937) đã xác lập luật phân bố Chiarlier kiểu A để nắn phân
bố số cây theo cỡ kính của các lâm phần rừng thuần loài đều tuổi (dẫn theo
Phạm Ngọc Giao, 1995).
Balley (1973) đã sử dụng hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc đường
kính loài thông theo mô hình của Schumacher và Coile (dẫn theo Bùi Văn Chúc,
1995). Còn Loestchau (1973) đã dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực
nghiệm (dẫn theo Trần Cẩm Tú, 1999).
Diatchenko, Z.N sử dụng phân bố Gamma để biểu thị phân bố số cây theo
cỡ đường kính lâm phần Thông ôn đới. Loetsch (1973), đã dùng hàm Beta còn
J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992), đã dùng hàm Weibull để mô phỏng phân
bố N/D khi nghiên cứu rừng nhiệt đới tại Marsanhoo – Brazin.
Ngoài ra, một số tác giả sử dụng các hàm Hyperbol, họ đường cong
Pearson, họ đường cong Poisson, hàm Charlier kiểu B… để mô phỏng qui luật
phân bố này.
1.1.1.3. Quy luật phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N-Hvn)
Quy luật phân bố số cây theo cỡ chiều cao dùng để biểu thị quy luật kết cấu
lâm phần theo chiều thẳng đứng. Phương pháp kinh điển được nhiều nhà khoa học
sử dụng là vẽ phẫu đồ đứng mà điển hình là công trình của Richards(1952)
4
1.1.2. Về tái sinh rừng
Lịch sử nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên trên thế giới đã trải qua hàng
trăm năm nhưng đối với rừng nhiệt đới mới chỉ đề cập đến từ những năm 1930
trở lại đây. Kết quả nghiên cứu được tóm tắt như sau:
Khi đề cập vấn đề điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách
lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với ô đo đếm điều tra tái
sinh có diện tích từ 1 đến 4 m2. Do diện tích ô điều tra nhỏ nên việc đo đếm gặp
nhiều thuận lợi nhưng số lượng ô phải đủ lớn và trải đều trên diện tích khu rừng
mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác giả đề nghị sử dụng phương pháp điều tra
dải hẹp với các ô đo đếm có diện tích biến động từ 10 đến 100m2. Phổ biến nhất là
bố trí hệ thống trong các diện tích nghiên cứu từ 0,25 đến 1ha (Povar nixbun, 1934;
Yurkevich, 1938). Phương pháp này trong điều kiện tái sinh sẽ khó xác định được
quy luật phân bố hình thái của lớp cây tái sinh trên mặt đất.
Trong phương thức rừng đều tuổi của Malaysia (MUS, 1945), nhiệm vụ đầu
tiên được ghi trong lịch trình là điều tra tái sinh theo ô vuông 1/1000 mẫu Anh (4
m2), để biết xem tái sinh có đủ hay không và sau đó mới tiến hành các tác động tiếp
theo.
Richards P.W (1952) đã nghiên cứu tái sinh trên các ô dạng bản và phân bố
tái sinh tự nhiên ở rừng mưa nhiệt đới. Kết quả cho thấy thế hệ cây tái sinh có tổ
thành giống hoặc khác biệt cây mẹ. Để giảm sai số trong khi thống kê, Barnard
(1955) đã đề nghị phương pháp “ Điều tra chẩn đoán’’ , theo đó kích thước ô đo
đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái
rừng khác nhau. Phương pháp này được áp dụng nhiều hơn vì nó thích hợp cho
từng đối tượng cụ thể.
Một số tác giả nghiên cứu tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới châu Á như Bara
(1954), Budowski (1956), có nhận định, dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ
lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, nên việc đề xuất các biện pháp lâm sinh để bảo
5
vệ lớp cây tái sinh này là cần thiết. Nhờ những nghiên cứu này nhiều biện pháp tác
động vào lớp cây tái sinh đã được xây dựng và đem lại hiệu quả đáng kể.
Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng
nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống). Hai đặc
điểm này không chỉ thấy ở rừng nguyên sinh mà còn thấy cả ở rừng thứ sinh - một
đối tượng rừng khá phổ biến ở nhiều nước nhiệt đới.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự nhiên,
nhân tố ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ,
cây bụi, thảm tươi được đề cập thường xuyên. Baur G.N., (1962) cho rằng, trong
rừng nhiệt đới sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn đối
với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng.
Ngoài ra, các tác giả nhận định, thảm cỏ và cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng
và phát triển của cây tái sinh. Mặc dù ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi
kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Đối với rừng nhiệt
đới, số lượng loài cây trên một đơn vị diện tích và mật độ tái sinh thường khá lớn.
Nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn,
còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp lại ít được quan tâm mặc dù chúng có vai trò
sinh thái quan trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên cần phải đề cập một
cách đầy đủ tất cả các loài cây xuất hiện trong lớp cây tái sinh để có những đánh
giá chính xác tình hình tái sinh rừng và có những biện pháp tác động phù hợp.
M.Loeschau (1977) đã đưa ra một số đề nghị để đánh giá một khu rừng có
tái sinh đạt yêu cầu hay không phải áp dụng phương pháp điều tra ngẫu nhiên,
trừ trường hợp đặc biệt có thể dựa vào những nhận xét tổng quát về mật độ tái
sinh như nơi có lượng cây tái sinh rất lớn.
Kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế giới
đã cung cấp các thông tin về phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự nhiên
ở một số vùng. Mặc dù vậy, thảm thực vật rừng nhiệt đới rất đa dạng và phức
tạp, đời sống của nó gắn liền với điều kiện tự nhiên ở từng vùng địa lý. Vì thế
cần tiếp tục nghiên cứu quy luật tái sinh tự nhiên của hệ sinh thái rừng ở các
6
vùng địa lý khác nhau, làm cơ sở cho việc phân tích và đề xuất các luận điểm
khoa học một cách chính xác.
1.1.3. Về phân loại rừng phục vụ kinh doanh
Phân loại rừng là công việc rất cần thiết trong kinh doanh rừng, nhất là rừng
tự nhiên nhiệt đới phức tạp. Phân loại rừng nhằm mục tiêu xác định các đơn vị
kinh doanh để đi tới hoạt động lâm nghiệp có hiệu quả. Phân loại rừng theo điều
kiện tự nhiên trên thế giới rất đa dạng với các trường phái khác nhau như:
- Trường phái Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu: G.F.Môrôdốp (1912)
với tác phẩm: “ Học thuyết về kiểu lâm phần ” đã đặt cơ sở khoa học cho việc
phân loại kiểu rừng và gắn liền nó với mục đích kinh doanh. Ông đi sâu vào bản
chất của rừng và tiến hành phân loại rừng dựa vào 5 nhân tố hình thành:
- Đặc tính sinh thái học của loài cây cao;
- Hoàn cảnh địa lý (khí hậu, thổ nhưỡng, ...);
- Quan hệ giữa các thực vật tạo nên quần lạc và quan hệ qua lại giữa chúng
với khu hệ động vật rừng;
- Nhân tố lịch sử, địa chất;
- Tác động của con người.
Xuất phát từ quan điểm của G.F.Môrôdốp coi rừng là thể thống nhất giữa
sinh vật rừng và hoàn cảnh, P.S. Pôgrepnhiac phân loại rừng tự nhiên ra 3 cấp:
1. Kiểu lập địa: là cấp phân loại lớn nhất, bao gồm mọi khu đất có điều
kiện thổ nhưỡng giống nhau, kể cả khu đất có rừng hay không có rừng.
2. Kiểu rừng: là tổng hợp những khu đất có điều kiện thổ nhưỡng và khí
hậu giống nhau.
3. Kiểu lâm phần: bao gồm những khoảnh rừng giống nhau cả về điều
kiện thổ nhưỡng, khí hậu và quần lạc thực vật rừng.
- Trường phái Bắc Âu: có hai trường phái
+ Trường phái sinh thái học:
Phân loại kiểu rừng căn cứ vào hai nhân tố: độ ẩm và độ phì. Độ ẩm chia
làm 5 cấp: rất khô, khô, hơi ẩm, ẩm, ướt; độ phì chia làm 4 cấp: xấu, tốt, giàu,
7
rất giàu. Sự kết hợp các chỉ tiêu độ ẩm, độ phì, cùng với các loài cây gỗ và thực
vật thảm tươi chỉ thị là cơ sở để phân loại kiểu rừng.
+ Trường phái Quần xã thực vật:
Phân loại kiểu rừng dựa vào đặc trưng chủ yếu là tổ thành thực vật và coi
quần hợp thực vật là đơn vị phân loại cơ bản.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu cấu trúc rừng
Trong vòng vài chục năm qua, nghiên cứu về cấu trúc rừng là một trong
những nội dung quan trọng nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật phù hợp.
Trần Ngũ Phương (1963) đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm
thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình
rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên được nghiên
cứu là tổ thành và thông qua đó một số quy luật phát triển của các hệ sinh thái rừng
được phát hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Thái Văn Trừng (1978) đã tiến hành phân chia thực vật rừng nhiệt đới thành
5 tầng: tầng vượt tán (A1), tầng ưu thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3), tầng cây
bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Việc áp dụng phương pháp vẽ "biểu đồ phẫu diện"
sau khi đã đo tính chính xác vị trí, chiều cao và đường kính thân cây, bề rộng và bề
dày tán lá của toàn bộ những cây gỗ (tầng A) trên một dải hẹp điển hình của khu
tiêu chuẩn theo Richards và Davis (1934) đã thể hiện khá rõ sự phân chia theo tầng
của thực vật trong hệ sinh thái rừng. Bên cạnh đó, tác giả này còn dựa vào 4 tiêu
chuẩn để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt Nam, đó là dạng sống ưu thế của
những thực vật trong tầng cây lập quần, độ tàn che nền đất đá của tầng ưu thế, hình
thái sinh thái lá và trạng mùa của tán lá. Như vậy, các nhân tố cấu trúc rừng được
vận dụng triệt để trong phân loại rừng theo quan điểm sinh thái phát sinh quần thể.
Nguyễn Văn Trương (1973, 1983, 1984) khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn
loài đã xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao
một cách cơ giới. Từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Vũ Đình
Phương (1987) đã nhận định, việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng thường xanh
8
là hoàn toàn hợp lý và cần thiết, nhưng chỉ trong trường hợp rừng có sự phân tầng
rõ rệt (khi đã phát triển ổn định) mới sử dụng phương pháp định lượng để xác định
giới hạn của các tầng cây. Bảo Huy (1993) và Đào Công Khanh (1996) đã tiến
hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn,
Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất một số biện pháp lâm sinh phục vụ khai thác và nuôi
dưỡng rừng. Nguyễn Anh Dũng (2000) đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm
cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng là IIA và IIIA1 ở lâm trường Sông Đà Hoà Bình.
Như vậy, cấu trúc rừng là một vấn đề có nội dung phong phú và đa dạng,
nên ở đây, chỉ những đặc trưng cấu trúc có liên quan đến đề tài mới được đề cập.
1.2.1.1. Cấu trúc tổ thành
Đây là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc sinh thái và hình thái
khác của rừng. Tổ thành rừng là chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá mức độ đa
dạng sinh học, tính ổn định, tính bền vững của hệ sinh thái rừng. Cấu trúc tổ
thành đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam đề cập trong công trình nghiên cứu
của mình.
Trần Ngũ Phương (1963) đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm
thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình
hình rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nhân tố cấu trúc đầu tiên được
nghiên cứu là tổ thành và thông qua đó một số quy luật phát triển của các hệ
sinh thái rừng được phát hiện và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Bảo Huy (1993) và Đào Công Khanh (1996) khi nghiên cứu tổ thành loài
cây đối với rừng tự nhiên ở Đắk Lăk và Hương Sơn – Hà Tĩnh đều xác định tỷ lệ
tổ thành của các nhóm loài cây mục đích, nhóm loài cây hỗ trợ và nhóm loài cây
phi mục đích cụ thể, đề từ đó đề xuất biện pháp khai thác thích hợp cho từng đối
tượng theo hướng điều chỉnh tổ thành hợp lý.
Lê Sáu (1996) và Trần Cẩm Tú khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở
Kon Hà Nừng – Gia Lai và Hương Sơn – Hà Tĩnh đều xác định danh mục các
loài cây cụ thể theo cấp tổ thành và các tác giả đều kết luận sự phân bố của một
9
số loài cây theo cấp tổ thành tuân theo hàm phân bố giảm. Cấp tổ thành càng cao
số loài càng giảm.
Ngô Minh Mẫn (2005) khi nghiên cứu cấu trúc rừng tại Vườn Quốc gia
Cát Tiên đã kết luận, phân bố của số lượng loài cây theo cấp tổ thành của trạng
thái IIIA1, IIIA2 tuân theo phân bố khoảng cách.
1.2.1.2. Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D1.3)
Ở nước ta, vài ba thập kỷ trở lại đây, nghiên cứu qui luật phân bố số cây
theo cỡ kính mới được các nhà lâm sinh học quan tâm.
Đồng Sỹ Hiền (1974) dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để nắn
phân bố thực nghiệm số cây theo đường kính làm cơ sở cho việc lập biểu thể
tích và độ thon cây đứng rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam.
Nguyễn Văn Trương (1983) đã thử nghiệm dùng các hàm mũ, Logarit, phân
bố Poisson và phân bố Pearson để biểu thị cấu trúc số cây theo cấp kính của rừng
tự nhiên hỗn loài, kết quả chỉ có riêng phân bố Pearson không đem lại hiệu quả cao.
Nguyễn Hải Tuất (1986( đã sử dụng hàm phân bố giảm, phân bố khoảng
cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh và vận dụng quá trình Poisson vào
nghiên cứu cấu trúc quần thể.
Bảo Huy (1993) thử nghiệm 5 dạng phân bố lý thuyết là Poisson, Khoảng
cách, Hình học, Meyer và Weibull để mô phỏng cấu trúc rừng Bằng Lăng ở Tây
Nguyên.
Trần Văn Con (1991) Lê Minh Trung (1991) đã thử nghiệm một số phân
bố xác suất mô tả phân bố N-D 1.3 đều cho nhận xét là phân bố Weibull thích hợp
nhất cho rừng tự nhiên ở Đắc Lắc.
Lê Sáu (1996) sử dụng hàm Weibull mô phỏng phân bố đường kính và
chiều cao cho rừng tự nhiên ở Kon Hà Nừng, Tây Nguyên.
Trần Cẩm Tú (1999) sử dụng hàm Weibull và hàm Khoảng cách để mô
phỏng quy luật phân bố N-D1.3 cho tổng thể đã khẳng định: cả hai hàm đều mô
phỏng tốt quy luật phân bố N-D 1.3, tuy nhiên với việc xuất hiện phổ biến đỉnh
đường cong ở cỡ kính 12cm thì hàm khoảng cách đã thể hiện tính phù hợp hơn.
10
Nhìn chung, khi xây dựng mô hình cấu trúc N-D 1.3, với đối tượng là rừng
trồng thuần loài đều tuổi, các tác giả thường sử dụng hàm Weibull, còn đối
tượng là rừng tự nhiên hỗn giao khác tuổi thì sử dụng phân bố khoảng cách,
phân bố giảm là phù hợp hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng hàm này hay hàm khác
cần căn cứ vào dãy tần số phân bố thực nghiệm, nói cách khác phải dựa vào qui
luật vận động vốn có của rừng.
1.2.1.3. Quy luật phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N-Hvn)
Các nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) cho thấy, phân bố số cây theo
cỡ chiều cao ở các lâm phần rừng tự nhiên hay trong từng loài cây thường có
nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu tầng phức tạp của rừng chặt chọn.
Gần đây, một số tác giả như Bảo Huy (1993) , Đào Công Khanh (1996) đã
nghiên cứu phân bố N-Hvn để tìm tầng tích tụ tán cây. Các tác giả đều đi đến
nhận xét chung là phân bố N-Hvn có dạng một đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình răng
cưa và mô tả thích hợp bằng hàm Weibull.
Lê Sáu (1996) cũng đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng phân bố quy
luật phân bố N-Hvn ở rừng tự nhiên Kon Hà Nừng – Tây Nguyên và cho thấy nó
rất phù hợp để mô phỏng phân bố thực nghiệm.
Trần Cẩm Tú (1999) khi nghiên cứu quy luật phân bố N-H vn đã sử dụng
phương pháp vẽ phẫu diện đồ đứng của rừng kết hợp với việc sử dụng hàm
Weibull để nắn phân bố N-Hvn, kết quả cho thấy hàm Weibull mô phỏng rất tốt
cho quy luật cấu trúc N-Hvn ở đây.
Nguyễn Thành Mến (2005) sử dụng các hàm Weibull, Meyer và phân bố
Khoảng cách để mô phỏng quy luật phân bố N-Hvn ở các khu rừng tự nhiên lá
rộng thường xanh sau khai thác ở Phú Yên, kết quả cho thấy hàm Meyer và phân
bố Khoảng cách tỏ ra không phù hợp, riêng hàm Weibull với độ mềm dẻo hơn
đã mô phỏng tốt cho quy luật phân bố N-Hvn.
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Ở nước ta, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống
về tái sinh rừng, đặc biệt là tái sinh tự nhiên. Một số kết quả nghiên cứu về tái sinh
11
thường được đề cập trong các công trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các
báo cáo khoa học và một phần công bố trên các tạp chí.
Khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai thác rừng, Phùng Ngọc Lan
(1964) đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở lâm trường Hữu Lũng,
Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm, bọ xít là nhân tố gây ảnh hưởng đáng kể
đến tỷ lệ nảy mầm.
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch rừng
đã điều tra tình hình tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ
sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn (1969).
Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu (1962-1964) bằng
phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái sinh, dựa vào mật độ cây tái
sinh, Vũ Đình Huề (1969) đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt,
tốt, trung bình, xấu và rất xấu với mật độ tái sinh tương ứng là trên 12.000 c/ha,
8.000-12.000 c/ha, 4.000-8.000 c/ha; 2.000-4.000 c/ha và dưới 2.000 c/ha. Nhìn
chung nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số lượng mà chưa đề cập đến chất
lượng cây tái sinh.
Cũng từ kết quả điều tra trên, Vũ Đình Huề (1984) đã tổng kết và rút ra nhận
xét, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của
rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng nguyên sinh, tổ thành loài cây tái sinh tương tự như
tầng cây gỗ; dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ mềm kém giá trị và
hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số cây không
đồng đều trên mặt đất rừng. Những nhận xét trên sẽ được đề tài vận dụng trong
việc đánh giá mật độ tái sinh rừng và so sánh tổ thành tầng cây tái sinh với tổ thành
tầng cây cao tại các QXTV nghiên cứu để có thể nhận biết chiều hướng phát triển
của rừng trong tương lai.
Khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng (1978) đã
nhấn mạnh tới ý nghĩa của điều kiện ngoại cảnh đến các giai đoạn phát triển của
cây tái sinh. Theo tác giả, ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá
trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh lẫn rừng thứ sinh.
12
Nguyễn Hồng Quân (1984) đã nghiên cứu kết hợp chặt chẽ khai thác với
tái sinh nuôi dưỡng rừng. Tác giả cho rằng để đáp ứng yêu cầu khai thác bảo
đảm tái sinh và nuôi dưỡng rừng, đối với rừng không đồng tuổi cần thực hiện cả
4 nội dung chủ yếu là: thu hoạch cây thành thục, chặt tái sinh, chặt nuôi dưỡng
và chuẩn hoá cấu trúc rừng về trạng thái mong muốn.
Nguyễn Duy Chuyên (1985) [2] đã nghiên cứu quy luật phân bố cây tái
sinh tự nhiên rừng lá rộng thường xanh hỗn loài vùng Quỳ Châu, Nghệ An. Tác
giả nghiên cứu phân bố tái sinh theo chiều cao, tổ thành cây tái sinh, số lượng
cây tái sinh. Trên cơ sở phân tích toán học về phân bố cây tái sinh cho toàn lâm
phần, tác giả cho rằng loại rừng trung bình (IIIA2) cây tái sinh tự nhiên có dạng
phân bố Poisson, ở các loại rừng khác cây tái sinh có phân bố cụm.
Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở rừng thứ sinh Hương Sơn, Hà Tĩnh đã được
Phạm Đình Tam (1987) làm sáng tỏ. Theo tác giả, số lượng cây tái sinh xuất hiện
khá nhiều dưới các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn, cây tái sinh càng nhiều
và hơn hẳn những nơi kín tán. Từ đó tác giả đề xuất phương thức khai thác chọn,
tái sinh tự nhiên cho đối tượng rừng khu vực này. Đây là một trong những đặc điểm
tái sinh phổ biến ở rừng nhiệt đới, nhưng đối với rừng núi đá vôi với nền đất đá
xương xẩu, liệu tại những chỗ trống trong rừng, hiện tượng tái sinh này có gì khác
biệt.
Vũ Tiến Hinh (1991) nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của rừng tự
nhiên ở Hữu Lũng – Lạng Sơn và vùng Ba Chẽ - Quảng Ninh đã nhận xét: hệ số
tổ thành tính theo phần trăm số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên hệ
chặt chẽ. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ
thành tầng tái sinh cũng vậy. Do khó nhận biết tên cây của tầng tái sinh, nên có
thể sử dụng quan hệ giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và tầng cây cao để xác định
hệ số tổ thành tầng tái sinh. Từ đó, nếu biết mật độ chung của những cây tái sinh
có triển vọng của lâm phần, sẽ xác định được số lượng tái sinh của từng loài.
Trong điều chế rừng có thể sử dụng kết quả này để sơ bộ xem xét những loài cây
13
mục đích nào chưa đủ số lượng tái sinh cần phải tra dặm hạt và những loài nào
chỉ cần thông qua biện pháp xúc tiến tái sinh là đủ.
Đinh Quang Diệp (1993) nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở rừng Khộp
vùng Easup - Đắc Lắc kết luận: Độ tàn che, thảm mục, độ dày tầng thảm mục,
điều kiện lập địa,… là những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng cây
con tái sinh dưới tán rừng. Qua nghiên cứu tác giả cho thấy, tái sinh trong khu
vực có dạng phân bố cụm.
Trần Xuân Thiệp (1996) tiếp tục nghiên cứu vai trò của tái sinh và phục
hồi rừng tự nhiên ở các vùng thuộc miền Bắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy: ở
vùng Tây Bắc, dù vùng thấp hay vùng cao tái sinh tự nhiên khá tốt về số lượng
cây: từ 500-8.000 cây/ha. Rừng Tây Bắc thể hiện rõ các mặt ảnh hưởng đến chất
lượng tái sinh: nghèo về trữ lượng, diễn thế ở nhiều vùng xuất hiện nhóm cây ưa
sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu, nhóm loài cây lá
kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ. Vùng trung tâm tác giả
cho biết sự nghèo kiệt nhanh chóng của rừng đưa đến số lượng và chất lượng tái
sinh tự nhiên thấp. Vùng Đông Bắc, số lượng cây tái sinh trong rừng tự nhiên
biến động bình quân từ 8.000 đến 12.000 cây/ha. So với các vùng khác, vùng
này khả năng tái sinh tự nhiên tốt.
Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta hiện nay, nhiều khu vực vẫn phải
trông cậy vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân tạo mới chỉ được triển khai trên
quy mô hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên cho từng
đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần thiết để từ đó có thể đề xuất những biện
pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp
1.2.3. Phân loại rừng phục vụ kinh doanh
Loeschau (1977) đã đưa ra hệ thống phân loại rừng theo trạng thái hiện tại
nhằm phục vụ cho công tác điều tra, điều chế rừng gỗ mỏ ở Quảng Ninh. Đến
năm 1966, công trình được chính tác giả bổ sung và mang tên: Phân chia kiểu
trạng thái và phương hướng kinh doanh rừng hỗn giao lá rộng thường xanh
nhiệt đới. Đây là hệ thống phân loại được sử dụng trong thời gian dài và phổ
14
biến ở nước ta. Việc mở rộng phạm vi sử dụng đã làm rõ những điểm không hợp
lý của hệ thống phân loại này.
Viện Điều tra Quy hoạch rừng đã dựa trên hệ thống phân loại của
Loeschau, cải tiến cho phù hợp hơn với đặc điểm rừng tự nhiên nước ta và cho
đến nay vẫn áp dụng hệ thống này vào việc phân loại trạng thái rừng hiện tại
phục vụ công tác quy hoạch, thiết kế kinh doanh rừng tự nhiên.
Thái Văn Trừng (1978) trên quan điểm sinh thái đã xây dựng hệ thống
phân loại thảm thực vật. Tác giả chia rừng tự nhiên Việt Nam thành 14 kiểu
thảm thực vật. Công trình này đặt nền móng cho việc phân chia rừng tự nhiên
của nước ta một cách tổng quát. Xuất phát từ tính đa dạng, phong phú của rừng
nhiệt đới, kết luận: không thể dùng quần hợp thực vật làm đơn vị phân loại cơ
bản như các tác giả đã sử dụng ở vùng ôn đới. Ông đề xuất dùng kiểu thảm thực
vật làm đơn vị phân loại cơ bản và lấy hình thái, cấu trúc quần thể làm tiêu
chuẩn phân loại. Những nhóm nhân tố sinh thái tham gia tác động trong quá
trình hình thành các kiểu thảm thực vật gọi là những nhóm nhân tố sinh thái phát
sinh. Thái Văn Trừng phân biệt thành 5 nhóm nhân tố: Địa lý - địa hình; Khí hậu
– thuỷ văn; Đá mẹ – thổ nhưỡng; Khu hệ thực vật; Sinh vật và con người. Đây là
cấp phân loại lớn, kiểu thảm thực vật chưa phải là cấp phân loại cơ bản nhỏ
nhất, để từ đó đề xuất biện pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho từng đối tượng.
Vũ Đình Huề (1984) đã tiến hành phân chia trạng thái rừng phục vụ công
tác kinh doanh rừng căn cứ vào trạng thái hiện tại (những trạng thái này thường
được phân chia theo hệ thống phân loại rừng của Loeschau).
Vũ Biệt Linh (1984) khi bàn về vấn đề phân chia rừng theo hệ thống phân
loại kinh doanh đã xác định cần phân chia rừng, đất rừng theo mục đích, nội
dung, phương thức biện pháp kinh doanh nhằm tổ chức và định hướng tác
nghiệp kinh doanh theo các đối tượng khác nhau để đạt được hiệu quả cần thiết.
Vũ Đình Phương (1987-1988) đã dựa vào các đặc trưng như: nhóm sinh
thái tự nhiên, giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo rừng
15
bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình, đặc điểm thổ nhưỡng để
phân chia rừng thành những lô khác nhau phục vụ điều chế rừng.
Bảo Huy (1993) đã xác định trạng thái rừng hiện tại của các lâm phần
Bằng lăng ở Tây nguyên theo hệ thống của Loeschau, đồng thời tác giả cũng xác
định các loại hình xã hợp thực vật với các ưu hợp khác nhau thông qua trị số IV
%.
Đào Công Khanh (1996) đã căn cứ vào tổ thành các loài cây mục đích để
phân loại rừng phục vụ cho việc xác định các biện pháp lâm sinh.
Lê Sáu (1996) khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc để đề xuất phương thức
khai thác chọn cho rừng kín thường xanh ở Kon Hà Nừng, đã phân loại trạng
thái các lâm phần dựa trên bảng phân loại Loeschau.
16
PHẦN 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
2.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1. 1. Vị trí địa lý
Tén Tằn là xã thuộc vùng cao, vùng sâu biên giới của huyện Mường Lát, cách
thị trấn Mường Lát 12 km về phía Tây và cách trung tâm thành phố Thanh Hoá
250 km,có ranh giới tiếp giáp như sau:
Phía Nam giáp xã Pù Nhi;
Phía Tây giáp nước CHDCND Lào;
Phía Đông giáp xã Tam Chung và Thị trấn Mường Lát;
Phía Bắc giáp nước CHDCND Lào và xã Tam Chung.
2.1.2. Địa hình, địa chất
Đặc thù địa hình của xã Tén Tằn là núi cao, liên kết với nhau tạo thành
những dãy núi liên hoàn, với các độ cao khác nhau tạo nên địa hình rất đa dạng
và phức tạp. Độ cao trung bình từ 650-700 m, độ dốc lớn, trung bình từ 25 o đến
35o, có nơi >35o. Có hình lòng chảo nghiêng theo hướng Đông Tây.
Về thuận lợi: Trung tâm của xã có tỉnh lộ 520 chạy qua, giáp vớí xã quang
chiểu và thị trấn Mường Lát. Bên cạnh đó có cửa khẩu Việt Lào (cửa khẩu Tén
Tằn) là nơi giao thương giữa hai nước Việt Lào. Với lợi thế về mặt vị trí địa lý là
điều kiện cho Tén Tằn phát triển kinh tế tổng hợp, là tụ điểm giao lưu hàng hoá
với các vùng miền trong và ngoài tỉnh
Về khó khăn: Địa hình phức tạp sản xuất nông nghiệp chủ yếu trên vùng
đất dốc, vùng nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của bão và gió tây nam khô
hanh, ảnh hưởng rất nhiều cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng và chuyển giao các tiến
bộ khoa học kỹ thuật cũng như việc triển khai chính sách của Đảng và Nhà nước
vào cuộc sống.
2.1.3. Khí hậu thời tiết
Tén Tằn nằm tiểu vùng I vùng núi Tây Bắc của tỉnh Thanh Hoá, nên khí
hậu thời tiết cũng mang đặc thù riêng, theo tài liệu khí tượng thuỷ văn của trạm
khí tượng thuỷ văn Thanh Hoá, khí hậu thời tiết vùng biểu hiện như sau:
- Nhiệt độ không khí:
17
+ Nhiệt độ bình quân năm 23 0 C , nhiệt độ cao tuyệt đối 39 0 C, nhiệt độ thấp
tuyệt đối 50 C , biên độ chênh lệch ngày đêm 7 - 100 C
Lượng mưa:
Thường thấp so với trung bình toàn tỉnh. lượng mưa trung bình năm 1.266 mm,
lượng mưa cao nhất 1.969 mm, lượng mưa thấp nhất 1.014 mm.
- Ẩm độ không khí:
+ Ẩm độ bình quân năm 84%, ẩm độ cao tuyệt đối 90%, ẩm độ thấp tuyệt đối
40%
- Chế độ gió: vùng chịu ảnh hưởng của hai loại gió chính là gió mùa Đông Bắc
và gió phơn Tây Nam. Gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện vào mùa đông, bình
quân mỗi năm có khoảng 30 đợt gió mùa Đông Bắc mang theo không khí lạnh,
khô làm nhiệt độ giảm xuống từ 5 - 10 0C so với nhiệt độ trung bình năm. Gió
phơn Tây Nam là một loại hình thời tiết đặc trưng cho mùa hè của vùng Bắc
Trung Bộ. Gió này thường xuất hiện vào đầu mùa hè. Gió phơn Tây Nam gây ra
khí hậu khô, nóng và hạn, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Với thời tiết nóng ẩm mưa nhiều, có mùa đông lạnh, đủ ánh sáng, tốc độ gió vừa
phải, ít chịu ảnh hưởng của gió bão... vùng khí hậu núi cao khá thuận lợi cho
việc phát triển trồng cây công nghiệp dài ngày: các loại cây ăn quả và phát triển
lâm nghiệp, đặc biệt là trồng luồng. Tuy nhiên vùng cũng chịu một số thiên tai
như lốc xoáy, lũ cuốn, nắng hạn kéo dài vào mùa hè và rét đậm vào mùa đông.
Nhìn chung khí hậu thời tiết phù hợp với điều kiện sinh trưởng và phát
triển của cây trồng và con gia súc. Xong cần lưu ý Tén Tằn thuộc vùng núi cao,
nên chịu ảnh hưởng các yếu tố khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là hạn hán, bão lụt,
gió nóng, mùa mưa thường có lũ quét, lũ ống và gió xoáy cần có giải pháp tích
cực phòng ngừa hiện tượng thiên tai này.
2.1.4. Thuỷ văn và nước
a) Nguồn nước mặt
Trong xã có sông Mã chảy qua và nhiều con suối nhỏ và hợp thủy như suối Sim,
Suối Bo, Suối Hỵa, Nghẹn
. Nguồn tài nguyên thiên nhiên về nước đã được
18
khai thác sử dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh bằng việc
xây dựng các hồ đập chứa nước. Đến nay đã đưa vào khai thác sử dụng 5 hồ
đập nước nhỏ ở các con suối và hợp thủy lấy nước tưới cho cây lúa nước và giữ
ẩm cho đất.
b) Nguồn nước ngầm:
Hiện chưa có tài liệu đánh giá cụ thể về nguồn nước ngầm ở Tén Tằn. Qua thăm
dò khảo sát thực tế và đặc điểm địa hình cho thấy có rất nhiều mạch nước ngầm
xuất lộ ở các chân núi, hiện tại đây là nguồn nước nhân dân đang sử dụng phục
vụ sinh hoạt và sản xuất.
2.2. Tài nguyên
2.2.1. Đất đai
Theo kết quả số liệu thống kê đất năm 2010 của huyện Mường Lát, Tén Tằn có
tổng diện tích tự nhiên là 12059.37 ha
* Nhóm đất nông nghiệp: Có diện tích là 8667.11 ha chiếm 71,87% so với tổng
diện tích tự nhiên
+ Đất sản xuất nông nghiệp: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn xã là
337.82 ha chiếm 3,9% tổng diện tích đất nông nghiệp.
- Đất trồng cây hàng năm 273.58 ha (Trong đó đất trồng lúa: 210.83 ha đất cây
hàng năm khác 56.75ha). Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 6,0 ha
Đất trồng cây lâu năm: 64.24 ha
+ Đất lâm nghiệp: Tổng diện tích 8320.37 ha chiếm 96,0% tổng diện tích đất
nông nghiệp (Trong đó rừng sản xuất 4134.16 ha ). Đất rừng phòng hộ là
4186.21 ha.
+ Đất nuôi trồng thuỷ sản: 8.92 ha chiếm 0.1% tổng diện tích đất nông
nghiệp.
* Nhóm đất phi nông nghiệp: Diện tích 207.6.ha chiếm 1,72% tổng diện tích tự
nhiên.
+ Đất ở: diện tích đất ở là 43.12 ha chiếm 20,77% tổng diện đất phi nông nghiệp
(Đất ở nông thôn 43,12 ha)
19
+ Đất chuyên dùng diện tích 51,15 ha
+ Đất nghĩa trang, nghĩa địa 8,04 ha.
+ Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 105.29 ha
* Đất chưa sử dụng: Diện tích 3184.66 ha chiếm 26,41% tổng diện tích tự
nhiên. Trong đó: Đất bằng chưa sử dụng: 27.47 ha. Đất đồi núi chưa sử dụng
3114.84 ha. Núi đá không có rừng cây 42.35 ha.
Nhìn chung hầu hết diện tích đất đã được khai thác sử dụng vào sản xuất nông,
lâm nghiệp và các mục đích khác. Tuy nhiên, việc sử dụng đất nông nghiệp còn
nhiều mặt hạn chế, chưa thể hiện hết được đất nào cây đó từ đó dẫn tới hiệu quả
kinh tế đất chưa cao. Thời gian tới cần chuyển đổi cơ cấu cây trồng kết hợp với
đầu tư chiều sâu để nâng cao hệ số sử dụng đất.
2.2.2. Rừng
Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn xã Tén Tằn chiếm diện tích rất lớn
là 8320,37 ha, chiếm 68,9% diện tích đất tự nhiên và chiếm 96,3% diện tích đất
nông nghiệp và được phân ra 2 loại rừng. Trong đó diện tích rừng sản xuất là
4134,16 ha chiếm 49,69% tổng diện tích đất lâm nghiệp, rừng phòng hộ
4186,21ha chiếm 50,31% tổng diện tích đất lâm nghiệp. trong đó; rừng nhà
nước quản lý .....rừng hợp tác xã quản lý........ rừng hộ gia đình quản lý.....
Đánh giá lợi thế phát triển dựa trên tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên của
xã. Điều kiện tự nhiên của xã cơ bản thuận lợi cho việc đẩy mạnh phát triển sản
xuất nông, lâm nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá. Vị trí địa lý
thuận lợi nằm trên tuyến giao thông huyết mạch của huyện nối nhiều vùng thuận
lợi tạo điều kiện cho phát triển giao lưu thương mại, trao đổi hàng hoá, văn hoá
trong và ngoài vùng có cửa khẩu quốc gia với nước bạn Lào. Đây cũng là động
lực cho việc phát triển sản xuất, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hình thức
nông sản hàng hóa; có điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản
xuất phi nông nghiệp, tăng cơ cấu kinh tế thương mại, dịch vụ. xã thuộc vùng
cao biên giới được Nhà nước quan tâm với nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội sẽ là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế
20
2.3.Nhân lực
- Tình hình dân số, lao động việc làm
Theo số liệu thống kê 2012, dân số xã Tén Tằn là 3818 người tương ứng
với 863 hộ gia đình .Trong đó, nam là 1.906 người chiếm 50,1%, nữ là 1.899
người chiếm 49,9%, có 3 dân tộc anh em sinh sống gồm: Dân tộc kinh 131
người, thái 3053 người, khơ mú 634 người;
Tổng số lao động trong tuổi đang làm việc năm 2012 là 2395 người (chiếm
62,7%) dân số
Trong đó:
+ Lao động nông lâm nghiệp, thuỷ sản 2183 người chiếm 91,1% tổng số lao
động
+ Lao động phi nông nghiệp là 212 người chiếm 8,9% tổng số lao động
- Đặc điểm dân cư
Dân cư phân bố không đồng đều theo đơn vị hành chính mà chủ yếu sống dọc
theo các con sông, suối và các con đường chính. Mật độ dân cư thưa 51
người/km2, phân bố ở 7 bản.
- Chất lượng nguồn lao động
Nguồn lao động tương đối dồi dào, tuy nhiên chất lượng và năng suất lao động
còn thấp, lao động phổ thông đơn thuần còn chiếm đại bộ phận. Lực lượng lao
động có chuyên môn và trình độ quản lý còn thiếu nhiều. Lao động qua đào tạo
có chuyên môn kỹ thuật còn quá thấp, lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao
Trong đó:
+ Trên ĐH, ĐH, CĐ:
54 người;
+ Trung cấp,sơ cấp
55 người;
+ Học nghề
102 người;
Hệ số sử dụng thời gian lao động đạt khoảng 70-75%, năng suất lao động
chưa cao. Tỷ lệ lao động có việc làm đạt 98%
21
PHẦN 3. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu
3.1.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên tại xã Tén Tằn, huyện
Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh tác động vào rừng.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân loại được các trạng thái rừng
- Nghiên cứu được một số đặc điểm cấu trúc tầng cây cao
- Nghiên cứu được một số đặc điểm cấu trúc tầng cây tái sinh
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rừng tự nhiên tại xã Tén Tằn, huyện
Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Phân loại trạng thái rừng
3.3.2. Cấu trúc tầng cây cao
+ Tổ thành tầng cây cao
+ Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N/D1.3).
+ Quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N/Hvn).
3.3.3. Cấu trúc tầng cây tái sinh
+ Tổ thành cây tái sinh.
+ Mật độ, chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh
3.3.4. Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động vào rừng
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được thu thập trên các ÔTC có diện tích 1000m 2 được lựa chọn
theo phương pháp điển hình, có tính đại diện cao cho khu vực nghiên cứu và cho
từng trạng thái rừng tự nhiên. Trên mỗi ÔTC đo đếm các chỉ tiêu sau:
* Điều tra tầng cây cao
22
Xác định tên loài:Xác định tên địa phương, tên thường gọi, các loài không
biết thì ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu SP1, SP2... và lấy mẫu để giám định.
Đo đường kính ngang ngực (D1.3): Đo bằng thước kẹp kính tại vị trí 1,3m
tất cả các cây có đường kính từ 6 cm trở lên.
Đo chiều cao vút ngọn (Hvn): đo chiều cao vút ngọn của tất cả các cây (có
đường kính từ 6 cm trở lên) bằng thước Blumeleiss.
Chất lượng cây được đánh giá theo 3 cấp A, B, C.
+ Cây tốt (A): Cây có tán lá phát triển đều, tròn, xanh biếc, thân tròn thẳng,
không bị khuyết tật, không bị sâu bệnh.
+ Cây trung bình (B): Cây sinh trưởng kém hơn cây tốt, không cong queo
sâu bệnh, cụt ngọn, ít khuyết tật.
+ Cây xấu (C): Cây có tán lá lệch, lá tập trung ở ngọn, sinh trưởng kém,
khuyết tật nhiều, bị sâu bệnh.
Kết quả điều tra tầng cây cao được ghi vào mẫu biểu 1.
Biểu 1: Biểu điều tra tầng cây cao
Người điều tra:
Ngày điều tra:
Khoảnh:
Lô:
Độ dốc:
Hướng dốc:
TT
D1.3(cm)
ĐT NB TB
Loài cây
Hvn(m)
Trạng thái:
OTC:
Phẩm chất
A
B
C
Ghi chú
1
2
...
* Điều tra cây tái sinh:
Trong mỗi OTC lập 5 ODB với S= 25m2 (5m × 5m) với 4 ô ở 4 góc và 1 ô
ở giữa. Trên tất cả các ODB đo tất cả các cây tái sinh, ghi phân biệt theo loài
cây, nguồn gốc tái sinh, chiều cao và chất lượng. Kết quả được ghi chép vào
mẫu biểu 2.
Biểu 2. Biểu điều tra cây tái sinh
Người điều tra:
Ngày điều tra:
23
Trạng thái:
Khoảnh:
Độ dốc:
TT
ODB
TT
cây
Lô:
Hướng dốc:
Loài
cây
H(m)
Chất lượng
Tốt
TB
Xấu
OTC:
Nguồn gốc
Hạt
Chồi
1
2
...
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Việc xử lý số liệu được thực hiện trên máy tính với sự trợ giúp của phần
mềm Excel 2007 và phần mềm SPSS 16.0.
3.4.2.1. Phân loại trạng thái rừng
Để phân loại trạng thái rừng, đề tài sử dụng phương pháp phân loại của
Loeschau (1960) được Viện Điều tra Quy hoạch rừng nghiên cứu và bổ sung.
2
3
Căn cứ vào tổng tiết diện ngang ( ∑ G = m / ha ), trữ lượng ( ∑ M = m / ha ), độ
tàn che (P) và một số thông tin điều tra ngoài thực địa, tiến hành phân chia trạng
thái cho từng ô đo đếm. Cụ thể tiêu chuẩn phân chia các trạng thái rừng như sau:
+ Kiểu trạng thái II: Rừng non phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai thác
trắng, kiểu rừng này là rừng cây gỗ có đường kính nhỏ, chủ yếu là những cây
tiên phong hoặc có tính chất tiên phong ưa sáng mọc nhanh, nó có thể chia thành
2 kiểu phụ:
Kiểu phụ IIA: Rừng phục hồi còn non và đặc trưng bởi lớp cây tiên phong
ưa sáng, mọc nhanh, thường đều tuổi và kết cấu một tầng, đường kính D < 10
cm, ∑G < 10 m2/ha, rừng có trữ lượng nhỏ. Thuộc đối tượng nuôi dưỡng.
Kiểu phụ IIB: Rừng cây tiên phong phục hồi phát triển đã lớn, đặc trưng tổ
thành gồm những cây tiên phong hoặc có tính chất tiên phong ưa sáng, mọc
nhanh, thành phần loài đã phức tạp, đã có sự phân hoá về tầng thứ và tuổi.
Đường kính cây cao phổ biến bình quân D > 10 cm, ∑G > 10 m2/ha. Thuộc đối
tượng nuôi dưỡng.
24
+ Kiểu trạng thái III: Trạng thái rừng đã qua khai thác chọn, là kiểu trạng
thái đã bị tác động của con người ở nhiều mức độ khác nhau, làm cho kết cấu
rừng có sự thay đổi. Tuỳ theo mức độ tác động, khả năng tái sinh và cung cấp
lâm sản mà có thể phân loại trạng thái rừng khác nhau:
Kiểu phụ IIIA: Rừng thứ sinh qua khai thác chọn kiệt, đang phục hồi, khả
năng khai thác bị hạn chế, cấu trúc rừng bị phá vỡ hoặc thay đổi cơ bản,trạng
thái này có thể chia thành một số dạng trạng thái:
Trạng thái IIIA1: Rừng mới qua khai thác chọn kiệt, cấu trúc rừng đã bị
phá vỡ hoàn toàn, tán rừng bị phá vỡ thành từng mảng lớn, tầng trên còn sót lại
một số cây cao nhưng phẩm chất xấu, nhiều dây leo bụi rậm, tre nứa xâm lấn.
Độ tàn che S < 0,3, ∑G < 10 m2/ha, ∑GD > 40 < 2 m2/ha, trữ lượng < 80 m3/ha.
Tuỳ thuộc vào mật độ tái sinh mà nó có thể chia nhỏ hơn nữa.
Trạng thái IIIA2: Rừng qua khai thác kiệt bắt đầu phục hồi, đặc trưng của
trạng thái này là đã hình thành tầng giữa vươn lên chiếm ưu thế với lớp cây đại
bộ phận có đường kính 20 – 30cm. Rừng có 2 tầng trở lên, tầng trên tán không
liên tục được hình thành chủ yếu từ những cây cũ còn lại, còn có những cây to
khoẻ vượt tán. Độ tàn che của rừng S = 0,3 – 0,5, ∑G = 10 – 15 m 2/ha, ∑GD > 40 <
2 m2/ha, trữ lượng từ 80 – 120 m3/ha. Cũng tuỳ vào mật độ tái sinh có thể chia
nhỏ hơn nữa.
Trạng thái IIIA3: Rừng đã có quá trình phục hồi tốt (rừng trung bình, rừng
có từ 2 tầng trở lên). Độ tàn che S = 0,5 - ,07, ∑G = 16 – 21 m 2/ha, ∑GD > 40 < 2
m2/ha, trữ lượng > 120 m3/ha.
Kiểu phụ IIIB: Rừng bị tác động với mức độ thấp, trữ lượng rừng còn cao,
cấu trúc rừng chưa bị phá vỡ, rừng còn giàu trữ lượng, có S > 0,7 , ∑G = 21 - 26
m2/ha, trữ lượng > 250 m3/ha.
+ Kiểu trạng thái IV: Rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh phục hồi, đã phát
triển đến giai đoạn ổn định, trữ lượng và sản lượng cao, có độ tàn che > 0,7, ∑G
> 26 m2/ha, ∑GD > 40 > 5 m2/ha.
Tuỳ theo nguồn gốc khác nhau của rừng được phân chia thành 2 kiểu phụ:
25