TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ
----------------
CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG
TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK
Giảng viên hướng dẫn: Tiến sỹ Nguyễn Văn Hóa
Người thực hiện
: Lâm Thanh Tùng
Ngành học
: Kinh tế nông nghiệp
Khoá học
: 2017-2018
Đắk Lắk, năm 2017
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Cụm từ viết tắt
Nguyên nghĩa
1
FAO
Tổ chức Lương thực và
Nông nghiệp Liên hợp quốc
2
HĐND
Hội đồng nhân dân
3
KTTT
Kinh tế trang trại
4
NQ
Nghị quyết
5
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
6
PTNN
Phát triển nông thôn
7
TT
Thông tư
8
UBND
Ủy ban nhân dân
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn Đề tài
Huyện Lắk nằm ở phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắk, cách thành phố Buôn Ma
Thuột 54 km, tổng diện tích tự nhiên 1.256 km2, dân số là 60.754 người, mật độ
dân số trung bình 48,37 người/km2. Huyện có quốc lộ 27 đi qua, là tuyến giao
thông nối Thành phố Buôn Ma Thuột với trung tâm du lịch lớn thành phố Đà Lạt,
tỉnh Lâm Đồng tạo điều kiện thuận lợi cho huyện trong việc giao thương, vận
chuyển hàng hóa và phát triển du lịch.
Huyện Lắk có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội như: Diện tích đất
đai rộng phù hợp cho phát triển nền sản xuất nông nghiệp với tập đoàn cây trồng đa
dạng, trong đó lúa nước là cây thế mạnh của huyện; diện tích rừng khá rộng với
2
nhiều loài động thực vật quý hiếm, tiêu biểu là khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka;
khu lịch sử văn hoá môi trường hồ Lắk.
Trong thời gian qua, kinh tế trang trại ở huyện Lắk nói riêng và tỉnh Đắk Lắk
nói chung dù bước đầu mới hình thành và phát triển song đã mang lại hiệu quả kinh
tế đáng kể, tính đến năm 2016 toàn huyện có 24 trang trại đạt tiêu chí kinh tế trang
trại theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT; gồm: 07 trang trại chăn nuôi; 4 trang
trại tổng hợp; 08 trang trại trồng trọt, 02 trang trại lâm nghiệp, 03 trang trại thủy
sản giá trị hàng hoá đạt trên 30 tỷ đồng. Là một huyện có tiềm năng để phát triển
kinh tế trang trại, đặc biệt là trang trại chăn nuôi, tổng hợp.
Trong những năm qua, việc phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện
còn mang tính tự phát, sản phẩm làm ra chưa mang tính hàng hóa, việc ứng dụng
công nghệ khoa học và đặc biệt là thị trường đầu ra cho sản phẩm gặp rất nhiều khó
khăn, vì vậy tính bền vững không cao. Từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài “Đánh giá
thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk” để làm
chuyên đề môn học Kinh tế hộ và trang trại của mình. Với năng lực, kinh nghiệm
chuyên ngành còn hạn chế, chuyên đề không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất
mong nhận được sự góp ý để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại, đánh giá thực trạng phát triển
kinh tế trang trại ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm
phát triển kinh tế trang trại ở địa phương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Phát triển kinh tế trang trại
1.4. Phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Phạm vi không gian
Địa bàn huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk
1.4.2. Phạm vi thời gian
- Số liệu nghiên cứu: năm 2012-2016
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 5 năm 2017
3
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn
2.1.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.1. Khái niệm về kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại (KTTT) là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản,
trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản.
2.1.1.2. Tính chất của kinh tế trang trại
- Phát triển KTTT nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật,
kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; tạo việc làm, tăng
thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo; phân bổ lại lao
động, dân cư, xây dựng nông thôn mới.
- Quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền với
quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn.
2.1.1.3. Tiêu chí xác định kinh tế trang trại
Căn cứ Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về việc quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng
nhận kinh tế trang trại. Tiêu chí xác định kinh tế trang trại là: Cá nhân, hộ gia đình
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang
trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
- Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt: Có
diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
+ 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
+ 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
- Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
4
- Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu
đồng/năm trở lên;
- Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị
sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
2.1.1.4. Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát
triển kinh tế trang trại
- Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại trong thời
gian qua và căn cứ vào chủ trương đối với kinh tế trang trại đã được nêu trong Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12
năm 1997) và Nghị quyết số 06 ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về
phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày
02/02/2000 của Chính phủ đã xác định một số chính sách lâu dài của Nhà nước đối
với kinh tế trang trại, đó là:
+ Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia
đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản
xuất kinh doanh.
+ Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu
quả đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai
thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước
eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên canh với tỷ
suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích phát triển kinh
tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và
thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho
thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu
cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản
xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông
nghiệp.
+ Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ
nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng
5
các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân,
các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp
cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
+ Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học - công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,
xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bền
vững.
+ Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành
mạnh, có hiệu quả.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “Chú
trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh việc sắp
xếp lại và đổi mới quản lý các nông, lâm trường; phát triển mạnh các loại hình
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn; phát triển các làng nghề. Khuyến khích nông dân bằng đóng góp quyền
sử dụng đất và lao động của mình hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các
chủ trang trại để phát triển sản xuất hàng hoá, ổn định và cải thiện đời sống.
Khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn”.
- Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã nhấn
mạnh: “Có chính sách khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân
với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị
trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang
trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn”.
- Nghị quyết số 06/NQ-HĐND, ngày 10/07/2009 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Lắk về một số chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk .
Nhấn mạnh phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên đất
đai, lao động, vốn và áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất trên cơ sở bảo
vệ tốt môi trường nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị
trường; góp phần phân công lại lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa
đói giảm nghèo vươn lên làm giàu chính đáng của người nông dân, đặc biệt là đồng
6
bào dân tộc thiểu số; đồng thời từng bước làm thay đổi tập quán sản xuất nhỏ,
manh mún của người nông dân, tiến tới một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá với
quy mô lớn, chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
+ Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 Đảng bộ tỉnh
Đắk Lắk: Phát triển đồng bộ các loại thị trường, các thành phần kinh tế: Tạo môi
trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng. Hoàn
thành việc sắp xếp và chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước. Có chính sách phát triển
kinh tế trang trại. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ công thương nghiệp, hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, các loại hình hợp tác xã.
2.1.2. Cơ sở pháp lý
- Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về việc
phát triển kinh tế trang trại;
- Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/08/2008 của Ban chấp hành Trung
ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
- Thông tư số 82/2000/TT-BTC, của Bộ tài chính hướng dẫn chính sách tài
chính nhằm phát triển kinh tế trang trại;
- Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ Nông
nghiệp&PTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại;
- Chương trình số 26/CTr/TU, ngày 20/10/2008 thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn của Tỉnh ủy Đắk Lắk;
- Nghị quyết số 06/NQ-HĐND, ngày 10/07/2009 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Lắk về một số chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk;
- Quyết định số 87/2009/QĐ-TTg, ngày 17/6/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk
Lắk thời kỳ đến năm 2020.
- Quyết định số 1555/QĐ-UBND ngày 18/7/2013 của UBND tỉnh Đắk Lắk
v/v phê duyệt dự án quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020;
7
PHẦN III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của huyện Lắk
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
+ Vị trí địa lý: Huyện Lắk nằm về phía Đông Nam của Tỉnh Đắk Lắk, cách
Thành phố Buôn Ma Thuột 54 km theo quốc lộ 27, tổng diện tích tự nhiên là 1.256
km2 Ranh giới hành chính như sau: Phía Bắc giáp huyện Krông Ana và Krông
Bông, tỉnh Đắk Lắk. Phía Tây giáp huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông. Phía Nam
giáp huyện Đam Rông và Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Phía Đông giáp huyện
Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.
+ Khí hậu, thời tiết: Khí hậu vùng huyện Lắk mang đậm đặc điểm của khí
hậu Tây Trường Sơn, phân hai mùa rõ rệt. Mùa mưa dồi dào nước, thậm chí gây
ngập lụt cho vùng đồng bằng ven sông nên cần có các giải pháp khắc phục tác hại
và khai thác mặt lợi của lũ. Mặc dù vậy mùa mưa ở Lắk khá thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp trên các chân cao không bị tác động của lũ. Mùa khô kéo dài và lượng
mưa rất ít nên gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp.
+ Đất đai: Theo số liệu kiểm kê đất đến năm 2016, toàn huyện có tổng diện
tích tự nhiên là 125.604 ha, đất đã sử dụng cho nông nghiệp chiếm 83,05% (trong
đó: đất cho sản xuất nông nghiệp chiếm 15,47%, đất lâm nghiệp chiếm 67,45%),
đất phi nông nghiệp chiếm 5% (trong đó: đất ở chiếm 0,41%, đất chuyên dùng
chiếm 2,7%) và đất chưa sử dụng chiếm 11,95% diện tích đất tự nhiên.
3.1.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
+ Dân cư: Năm 2016 dân số của toàn huyện Lắk là 62.572 người, trong đó dân
số thành thị 5.903 người chiếm 9,44% còn lại dân số nông thôn 56.669 người
chiếm 90,56%. Mật độ dân số trung bình toàn huyện là 49,82 người/km 2, trong đó
cao nhất ở thị trấn Liên Sơn (462,98 người/km 2), thấp nhất là ở xã Bông Krang
(19,71 người/km2).
+ Lao động: Năm 2016, nguồn lao động huyện Lắk là 45.992 người trong đó
số lao động trong độ tuổi có khả năng lao động là 40.011 người (63,94% dân số),
8
lao động ngoài độ tuổi là 3.357 người (5,37% dân số). Do là vùng thuần nông nên
tỷ lệ lao động ngành nông nghiệp rất cao, chiếm đến 74,82% tổng số lao động,
tương đương 34.358 người, phần lớn số lao động này là lao động phổ thông, sản xuất
theo tập quán và kinh nghiệm, chỉ một số ít là chủ trang trại có tham gia các lớp tập
huấn về kỹ thuật nông nghiệp. Các ngành nghề phi nông nghiệp có thương mại - dịch
vụ: 3.687 người (5,89%), công nghiệp - xây dựng 2.798 người (4,47 %); lao động khác
là 2.120 người (3,39%).
+ Tình hình phát triển kinh tế - xã hội:
Tăng trưởng kinh tế: Thời kỳ 2001 - 2016, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân
hàng năm của huyện Lắk là 15,78%. Trong đó Nông lâm nghiệp tăng 13,11%, Công
nghiệp - xây dựng tăng 20,20% và Thương mại - dịch vụ tăng 22,28%. Riêng trong giai
đoạn 2007-2014; tăng trưởng kinh tế chung là 13,99%. Trong đó Nông lâm nghiệp
tăng 10,43%, Công nghiệp - xây dựng tăng 19,67% và Thương mại - dịch vụ tăng
22,41%. Năm 2016 tổng giá trị sản xuất đạt gấp hơn 5 lần so với năm 2001, trong đó
nông nghiệp gấp 4,39 lần, Công nghiệp - Xây dựng gấp 9,09 lần và dịch vụ gấp 11,18
lần.
Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Giai đoạn 2001 - 2016, huyện
Lắk đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp- xây dựng và thương mại - dịch vụ. Đến năm 2016 cơ cấu kinh tế của huyện
Lắk ngành phi nông nghiệp đã chiếm tỷ lệ rất đáng kể so với trước đây; ngành nông
lâm nghiệp giảm còn 58,22% so với năm 2001 (76,97%), ngành công nghiệp - xây
dựng tăng lên 10,72% so với năm 2001 (6,84%), ngành thương mại và dịch vụ
31,06% so với năm 2001 (16,22%). Đây là sự chuyển dịch tích cực theo đúng chủ
trương phát triển kinh tế hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Huyện Đảng bộ
đã đề ra.
3.2. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở huyện Lắk
3.2.1. Số lượng trang trại, loại hình sản xuất trang trại
Năm 2009 trên địa bàn huyện đã tiến hành tổng điều tra kinh tế trang trại phục
vụ cho dự án quy hoạch kinh tế trang trại toàn tỉnh đến năm 2020. Khi đó tiêu chí
xác định trang trại dựa vào Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN9
TCTK ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng
cục Thống kê hướng dẫn tiêu chí xác định kinh tế trang trại và Thông tư số
74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
về sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK, hướng
dẫn tiêu chí xác định kinh tế trang trại. Theo số liệu điều tra khảo sát tính đến
cuối năm 2010 toàn huyện có 110 trang trại bao gồm (13 trang trại chăn nuôi,
88 trang trại trồng trọt, 04 trang trại lâm nghiệp, 04 trang trại thủy sản và 01
trang trại tổng hợp).
Tuy vậy khi có Thông tư số: 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã thay đổi tiêu chí xác định, vì vậy số lượng
trang trại cũng thay đổi, nhiều trang trại đã có nay không đạt tiêu chí.
Tính đến năm 2016 toàn huyện có 24 trang trại. Qua 05 năm kể từ 2009 đến
nay mới tiến hành rà soát, đánh giá lại về thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn 11 xã thị trấn của huyện, nhận thấy có sự thay đổi rõ rệt về số lượng và kết
cấu các trang trại. Có những trang trại mới được hình thành, có những mô hình
kinh tế hộ có đủ điều kiện là trang trại và cũng có những trang trại trước đây đã
không còn là trang trại mà là kinh tế hộ thuần túy do việc áp dụng Thông tư số
27/2011/TT-BNNPTNT.
Kinh tế trang trại huyện Lắk phát triển với nhiều loại hình sản xuất đa dạng,
phong phú. Số lượng và cơ cấu sản xuất của 24 trang trại gồm các loại hình sau:
07 trang trại chăn nuôi (26,17%), 08 trang trại trồng trọt (33,33%), 03 trang trại thủy
sản (12,5%), 02 trang trại lâm nghiệp (8,33%) và 04 trang trại tổng hợp (16,67%). Đây
là các trang trại có quy mô tương đối lớn, phát triển ổn định trong những năm qua và
cũng có một số trang trại mới được xây dựng đưa vào hoạt động được một thời gian
ngắn.
Trong quá trình phát triển, nhìn chung loại hình trang trại tổng hợp có mức
tăng trưởng cao, trang trại trồng trọt có sự tăng trưởng ổn định, trang trại chăn
nuôi thường có sự biến động lớn do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, còn
thủy sản tăng chậm và ít ổn định.
+ Trang trại trồng trọt:
10
Số lượng trang trại trang trại trồng trọt có xu hướng giảm mạnh, năm 2010
toàn huyện có 88 trang trại trồng trọt, nhưng đến năm 2016 chỉ còn lại 08 trạng trại.
Nguyên nhân giảm trang trại trồng trọt là do quy định tại Thông tư số 27/2011/TTBNNPTNT ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp & PTNT, quy định tiêu chí và thủ
tục cấp giấy chứng nhận phát triển kinh tế trang trại, mức diện tích trang trại tối
thiểu phải đạt lớn (2,1 ha) và mức doanh thu phải từ 700 triệu đồng trở lên.
Trang trại trồng trọt tập trung tại xã Đăk Phơi, Đăk Nuê, Nam Ka, Buôn Triết
chủ yếu trồng các loại cây như cà, điều, bắp, lúa.
+ Trang trại chăn nuôi: Trong những năm qua tình hình dịch bệnh trên gia súc
gia cầm thường xuyên xảy ra nên trang trại chăn nuôi tuy có xu hướng tăng nhưng
không ổn định, năm 2010 có 13 trang trại, đến năm 2016 giảm xuống còn 07 trang
trại. Có một số các trang trại chăn nuôi bước đầu đã ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật, công nghệ mới như: cho ăn và uống bằng máng ăn và hệ thống nước uống
có van tự động, tiết kiệm thời gian chăm sóc, về chuồng trại, tiết kiệm diện tích
chăn nuôi, sử dụng công nghệ xử lý chất thải bằng Biogar tạo ra môi trường chăn
nuôi thoáng mát, khử mùi hôi và tận dụng nguồn năng lượng từ khí gar để thắp
sáng và sưởi ấm cho vật nuôi; bên cạnh đó thì trang trại nuôi trâu bò chưa thật sự đầu
tư tốt về hệ thống chuồng trại.
Trang trại chăn nuôi trâu bò: Có 01 trang trại tại xã Đăk Liêng. Quy mô vật
nuôi bình quân của trang trại cũng chưa nhiều, qua điều tra hiện nay có khoảng
trên dưới 100 con tùy vào từng thời điểm. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có rất
nhiều mô hình nuôi bò tuy nhiên quy mô chỉ từ 20-30 con.
Trang trại chăn nuôi vịt: Có 05 trang trại tại xã Đăk Nuê và Buôn Tría quy mô đàn
gia cầm khoảng 2.000 – 3000 con vịt đẻ.
Trang trại chăn nuôi heo: Có 01 trại heo tại thị trấn Liên Sơn
Các trang trại chăn nuôi thường kết hợp thêm với trồng cây hàng năm như lúa.
+ Trang trại nuôi trồng thủy sản: Số trang trại nuôi trồng thủy sản năm 2016
là 03 trang trại tăng 01 trang trại so với năm 2010 chủ yếu là nuôi các loại cá như
cá trắm, trôi, mè, chép, rô phi,…phân bố tại xã Đăk Nuê, Buôn Triết, TT Liên Sơn.
11
+ Trang trại lâm nghiệp: Huyện có 02 trang trại lâm nghiệp 01 trang trại ở xã
Đăk Nuê với diện tích 257,09 ha và 01 trang trại ở xã Đăk Phơi với quy mô trên 33
ha. Một số trang trại lâm nghiệp trước đây có quy mô lớn nhưng hiện tại không còn
hiệu quả như bị cháy hoặc phần lớn diện tích là các loại cây trồng hiệu quả kinh tế
thấp.
+ Trang trại tổng hợp: Xu hướng phát triển của các trang trại là hình thành
các trang trại kinh doanh tổng hợp kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất và
chế biến gắn với việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản; Hiện nay,
huyện Lắk có 04 trang trại kinh doanh tổng hợp với tổng quy mô 19,47 ha tập trung
tại xã Buôn Tría và Buôn Triết.
3.2.2. Diện tích đất trang trại
Tổng diện tích đất của các trang trại trên địa bàn huyện năm 2016 là 368,92
ha trong đó chủ yếu là đất lâm nghiệp với 291,09 ha chiếm 78,9%. Ngoài ra diện
tích đất trang trại tăng cao do sự tích tụ ruộng đất và một số khu vực để canh tác.
Tuy nhiên, việc khai thác sử dụng vẫn còn mang tính tự phát, chưa phát huy hết
tiềm năng đất đai. Ngoài ra đất sản xuất bình quân trang trại có xu hướng giảm.
Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng trên là do một số trang trại đã chia tách đất
đai cho con cái, sang nhượng bớt đất để lấy vốn đầu tư... đặc biệt có nhiều trang trại
đã đầu tư sản xuất theo hướng chuyên canh.
Tổng diện tích đất trồng cây lâu năm của các trang trại là 17,51 ha trong đó
đất dùng trong trang trại trồng trọt là 15,31 ha (87,43%); trang trại tổng hợp 0,92 ha
(5,25%), trang trại chăn nuôi 1,28 ha (7,3%).
Tổng diện tích đất trồng cây hàng năm của các trang trại là 40,49 ha trong đó
đất dùng trong trang trại trồng trọt là 31,24 ha (77,15%), trang trại tổng hợp là 5,78
ha (14,28%) và trang trại chăn nuôi 3,47 ha (8,57%).
Tổng diện tích đất dùng cho chăn nuôi của các trang trại trong đó đất dùng
trong trang trại chăn nuôi là 2,87 ha (93,18%) và trang trại tổng hợp 0,21 ha
(6,82%).
Tổng diện tích đất khác dùng cho các mục đích khác như nhà ở, lán trại, sân
vườn..... các trang trại là 2,25 ha.
12
Tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản của các trang trại là 14,5 ha trong đó
đất dùng trong trang trại thủy sản là 13,48 ha (92,97%) và trang trại tổng hợp 1,02
ha (7,03%).
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của các trang trại là 291,09 ha toàn bộ 100%
đất dùng trong trang trại lâm nghiệp
Nguồn gốc đất: Đến năm 2016 tổng diện tích đất của trang trại là 368,92 ha,
trong đó đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 358,53 ha, chiếm
97,18 % trong tổng diện tích đất trang trại trên địa bàn huyện còn lại là đất tự khai
hoang, đấu thầu của chính quyền, lâm trường, nhận khoán của chủ dự án và nguồn
khác.
3.2.3. Lao động trang trại
Chất lượng lao động gia đình và trình độ của chủ trang trại ở huyện Lắk chủ
yếu xuất thân từ nông dân (chiếm 85,13%), trình độ dân trí thấp, chỉ có kinh
nghiệm, vốn và đất đai để làm trang trại. Ngoài ra, còn có những người đang là cán
bộ công chức (chiếm 5%), cán bộ xã (5%), cán bộ công nhân hưu trí và các thành
phần khác (4,87%); đây là những lao động nắm bắt kỹ thuật công nghệ nhanh và có
thể chuyển đổi hướng sản xuất kịp thời với giá cả thị trường.
Để phát triển sản xuất mang tính bền vững, ổn định và có hiệu quả, ngoài
việc phát huy hiệu quả của nguồn vốn đòi hỏi chủ trang trại cần phải có trình độ,
chuyên môn và năng lực quản lý tốt. Trình độ chuyên môn của chủ trang trại khá
thấp, hiện nay có 69,57% các chủ trang trại chưa qua đào tạo, số được đào tạo cao
đẳng, đại học chỉ chiếm gần 10%; sơ cấp và công nhân kỹ thuật chiếm: 21,74%.
Hiện nay, lao động làm việc ở các trang trại chủ yếu thực hiện theo hình thức thoả
thuận giá trị ngày công giữa chủ trang trại với lao động, chưa thực hiện ký kết hợp
đồng lao động và chế độ bảo hiểm đối với lao động. Các trang trại sử dụng lao
động chủ yếu là lao động thủ công.
Nhìn chung việc sử dụng lao động của trang trại vẫn mang tính chất gia đình,
làng xóm. Các trang trại có quy mô từ 3-5 lao động là chủ yếu chiếm tỷ trọng trên
68%. Các trang trại có trên 5 lao động còn rất hạn chế chiếm 13,64%. Điều này
cũng cho thấy phần lớn các trang trại có thuê mướn lao động thời vụ.
13
Giá thuê lao động trong các trang trại thường phổ biến từ 150.000đ 160.000đ/ngày công, tuỳ thuộc vào thời vụ. Giá thuê lao động vào thời vụ thu
hoạch cà phê thường cao hơn giá thuê bình thường. Giá thuê lao động theo tháng
thường thấp hơn giá thuê lao động ngày công, bình quân từ 3.00.000 đ - 3.500.000
đ/tháng.
Nhìn chung, việc sử dụng lao động của các loại hình trang trại phụ thuộc rất
lớn về cơ cấu sản xuất của mỗi loại hình. Để có được chi phí sản xuất thấp nhất,
việc sử dụng đối tượng lao động nào có hiệu quả phụ thuộc vào năng lực quản lý
của chủ trang trại.
3.2.4. Cơ sở hạ tầng trong trang trại
Các công trình như giao thông, điện, thủy lợi,…chủ yếu đang sử dụng các
công trình do Nhà nước đầu tư; nhưng hiện nay hầu hết các trang trại đều nằm
trong các khu sản xuất, cách biệt với các khu dân cư, giao thông đi lại hết sức khó
khăn, nguồn điện phục vụ sản xuất chưa đến trang trại,... Tuy nhiên, một số trang trại
lớn cũng đã đầu tư san gạt các tuyến đường sản xuất, đầu tư hệ thống lưới điện và các
công trình thủy lợi nhỏ phục vụ cho sản xuất của trang trại.
Các công trình nhà xưởng, kho bãi, chuồng trại chăn nuôi, phương tiện vận
tải, máy xay xát, máy bơm nước,…cũng đã được trang trại đầu tư nhưng do nguồn
vốn chưa nhiều, nên việc đầu tư cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị rất hạn
chế.
3.2.5. Vốn đầu tư trang trại
Tổng vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế trang trại của toàn huyện Lắk
năm 2016 là 12.817 triệu đồng, trong đó:
+ Vốn tự có 9.264 triệu đồng, chiếm 72,28%
+ Vốn vay của các tổ chức tín dụng 3.553 triệu đồngchiếm 27,72%.
+ Tổng vốn đầu tư của trang trại chăn nuôi năm 2016 là 4.037 triệu đồng,
chiếm 31,50% tổng vốn của các trang trại. Bình quân/1 trang trại là 576,83 triệu
đồng.
14
+ Tổng vốn đầu tư của trang trại trồng trọt năm 2016 là 3.739 triệu đồng, chiếm
29,17% tổng vốn của các trang trại. Bình quân/1 trang trại là 467,43 triệu đồng.
+ Tổng vốn đầu tư của trang trại thủy sản năm 2016 là 1.304 triệu đồng, chiếm
10,17% tổng vốn của các trang trại. Bình quân/1 trang trại là 434,68 triệu đồng.
+ Tổng vốn đầu tư của trang trại tổng hợp năm 2016 là 2.023 triệu đồng, chiếm
15,78% tổng vốn của các trang trại. Bình quân/1 trang trại là 505,64 triệu đồng.
+ Tổng vốn đầu tư của trang trại lâm nghiệp năm 2016 là 1.714 triệu đồng, chiếm
13,37% tổng vốn của các trang trại. Bình quân/1 trang trại là 857 triệu đồng.
Vậy số lượng và cơ cấu vốn bình quân của các loại hình trang trại trong năm
2016, ta rút ra các nhận xét:
+ Tổng số vốn đầu tư cho trang trại ở các loại hình chưa cao.
+ Có sự chênh lệch lớn về vốn đầu tư theo các loại hình
+ Phần lớn vốn của trang trại là vốn tự có. Điều này có thuận lợi là trang trại
chịu ít chi phí vốn vay, tuy nhiên nó cũng phản ánh phần nào quá trình hoạt động
của các trang trại chưa thật sự diễn ra mạnh, chưa có những đầu tư lớn nhằm phát
triển trang trại của mình.
3.3. Kết quả, hiệu quả sản xuất của trang trại
Nền kinh tế của huyện chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, tuy vậy
so với tiềm năng, kinh tế trang trại chưa trở thành mô hình kinh tế mũi nhọn, đóng
vai trò quyết định sự phát triển của ngành này. Năm 2016, tổng giá trị sản lượng
hàng hóa của trang trại là 22.215 triệu đồng, trong đó giá trị sản lượng hàng hóa từ
trang trại chăn nuôi là chủ yếu, với 8.795 triệu đồng, chiếm 39,59%; tiếp đến là các
loại hình trang trại khác như: trang trại trồng trọt (5.867 triệu đồng), trang trại tổng
hợp (3.402 triệu đồng), trang trại thủy sản (2.307 triệu đồng), trang trại lâm nghiệp
(1.843 triệu đồng)
Bên cạnh đó, trong từng loại hình trang trại, ngoài nguồn thu chính từ loại
hình của trang trại mình, các chủ trang trại còn tận dụng các lợi thế về đất đai, mặt
nước,…để sản xuất sản phẩm khác, tạo thêm thu nhập cho trang trại, nguồn thu
nhập này có ý nghĩa rất lớn để tạo ra sản phẩm phục vụ tại chỗ cho trang trại như
15
các loại thực phẩm, lương thực, cũng có trang trại tự sản xuất một phần phân bón
phục vụ cho sản xuất.
+ Trang trại chăn nuôi: Thu nhập chính từ chăn nuôi tập trung trâu bò và
nuôi vịt đẻ, heo ngoài ra chủ trang trại tận dụng diện tích trồng các loại cây ngắn và
ngày dài, đào ao thả cá để tạo thêm thu nhập. Thu nhập bình quân của trang trại
chăn nuôi là 179,21 triệu đồng.
+ Trang trại trồng trọt: Mặc dù tập trung đầu tư thâm canh các loại cây ngắn
ngày nhưng trang trại đã tận dụng tối đa nguồn lực, tăng thu nhập, các trang trại ít
nhiều cũng quan tâm đến chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và trồng cây lâu năm, hàng
năm. Nhìn chung, dù sản xuất hàng hoá ở mức độ cao trang trại vẫn mang dáng dấp
của hộ nông dân (sản xuất phục vụ nhu cầu thị trường và nhu cầu bản thân gia
đình). Thu nhập bình quân của trang trại trồng trọt là 127,97 triệu đồng. Nguyên
nhân chủ yếu làm thu nhập của loại hình trang trại trồng trọt trên địa bàn huyện thấp
do biến động của giá cả các mặt hàng đầu vào tăng cao, giá cả của các sản phẩm đầu
ra có chiều hướng chững lại và có sự cạnh tranh giữa các trang trại, sản phẩm đầu ra
chưa chủ động và mở rộng thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, các trang trại cũng chịu
ảnh hưởng khí hậu thời tiết thất thường đã làm giảm năng suất các loại cây trồng.
+ Trang trại thủy sản: Thu nhập từ thủy sản chiếm trên 95% tổng thu nhập
của trang trại, còn lại là thu từ trồng trọt và chăn nuôi khác. Thu nhập bình quân
của trang trại thủy sản là 131,09 triệu đồng.
+ Trang trại tổng hợp: Thu nhập chủ yếu là từ trồng trọt cây lâu năm kết hợp
với cây hàng năm kết hợp chăn nuôi gia súc hoặc gia cầm, nuôi cá... Như vậy loại
trang trại kết hợp tỏ ra phù hợp với điều kiện đất đai và điều kiện sản xuất của địa
phương. Tuy trồng trọt là nguồn thu chủ lực nhưng các chủ trang trại đã biết tận
dụng nguồn lực để phát triển thêm chăn nuôi: gà, lợn, bò,... chăn nuôi tạo ra nguồn
phân chuồng tại chỗ bón cho cây trồng, nhằm tổ chức sản xuất hợp lý, tiết kiệm
được chi phí đầu vào.Thu nhập bình quân của trang trại tổng hợp là 154,13 triệu
đồng.
+ Trang trại lâm nghiệp: Thu nhập 190,39 triệu đồng, trong 2 trang trại này
có1 trang trại có sự kết hợp giữa nuôi bò dưới tán rừng và nuôi cá.
16
- Kết quả kinh doanh theo trình độ học vấn, số lượng đầu tư về vốn để sản
xuất phụ thuộc rất lớn về trình độ chuyên môn, trình độ càng cao thì sự đầu tư vào
kinh doanh càng có hiệu quả. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất của họ chưa thật sự cao
do bị ảnh hưởng của dịch bệnh đã làm suy giảm số lượng đàn và tăng chí phí phòng
ngừa dịch.
+ Các chủ trang trại có trình độ Đại học trở lên, lợi nhuận bình quân/01 trang
trại là 189,74 triệu đồng. Điểm khác biệt trong góc độ quản lý đối với các chủ trang
trại có trình độ đại học, họ chỉ quản lý sản xuất gián tiếp vì đang hoạt động trong
lĩnh vực khác của xã hội.
+ Về chi phí bình quân của trang trại là 744,76 triệu đồng. Loại trang trại có
chi phí bình quân cao nhất là trang trại chăn nuôi (1.039 triệu đồng) do phải đầu tư
xây dựng nhiều vào hệ thống chuồng trại và con giống, thấp nhất là trang trại trồng
trọt (618 triệu đồng). Điều này đặt ra cho các chủ trang trại phải lựa chọn loại cây
trồng vật nuôi khi lượng vốn lưu động hạn hẹp. Qua số liệu cho thấy qui mô và loại
hình trang trại có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang
trại. Với một qui mô thích hợp và lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý sẽ cho
hiệu quả kinh tế cao.
+ Hiệu quả sử dụng lao động bình quân tính cho thu nhập thuần là 44.373
nghìn đồng, hiệu quả trên 1 ngày công lao động là 142 nghìn đồng là trung bình so
với sản xuất trang trại của một số huyện trên địa bàn tỉnh, đây cũng là hiệu quả xã
hội trong hoạt động sản xuất của kinh tế trang trại vừa tận dụng được lao động
nông thôn vừa tạo thu nhập an sinh xã hội.
Tính đến năm 2016, số trang trại đã được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang
trại mới theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT trên địa bàn toàn huyện là 0/24
trang trại. Trước đây đã có cấp giấy chứng nhận cho 12 trang trại theo tiêu chí cũ
(03 trang trại nuôi bò; 03 trang trại tổng hợp; 01 trang trại lâm nghiệp; 05 trang trại
trồng trọt) tuy nhiên đến nay một số trang trại đó đã không còn là trang trại mà là
mô hình kinh tế hộ có quy mô nhỏ, cũng có một số trang trại không đủ chuẩn theo
tiêu chí mới. Bên cạnh đó nhiều trang trại chưa được cấp đổi lại giấy chứng nhận.
17
Do đó cần phải thu hồi giấy chứng nhận kinh tế trang trại đối với những trang trại
không đạt và cấp mới cho các trang trại hoạt động hiệu quả.
3.4. Đánh giá chung về phát triển kinh tế trang trại ở huyện Lắk
3.4.1. Những mặt tích cực
+ Hiệu quả của việc sử dụng đất đai: Nguồn đất đai của các trang trại được
hình thành từ nhiều nguồn: đất mới tự khai hoang, đất nương rẫy của đồng bào dân
tộc thiểu số, do chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ các tổ chức, cá nhân, đất nhận
khoán, đất đấu thầu, đất thuê mướn. Từ khi có Nghị quyết 03/NQ-CP của Chính
phủ về phát triển kinh tế trang trại, nông dân đã mạnh dạn đầu tư vốn, lao động
cùng với khả năng về quản lý, khoa học công nghệ đã thúc đẩy kinh tế phát triển,
mặt khác tạo ra thu nhập cao, kích thích người sản xuất thâm canh, tăng năng suất
cây trồng, vật nuôi, tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất tạo ra khối lượng nông sản ngày
càng lớn; đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Kinh tế trang trại phát triển góp
phần tạo ra các vùng sinh thái đa dạng, phong phú, góp phần bảo vệ đất đai, bảo vệ
rừng, làm trong sạch môi trường sinh thái.
+ Hiệu quả về vốn: Trung bình một trang trại đầu tư 534,08 triệu đồng vốn,
trong đó 72,28% là vốn tự có, 27,72% là vốn vay ngân hàng và vốn huy động khác.
Đối với trang trại trồng trọt chủ yếu là trang trại trồng cây lâu năm và hàng năm. và
trang trại thủy sản.. vốn đầu tư bình quân khá thấp trên dưới 400 triệu đồng. Các
trang trại chăn nuôi đã đầu tư vốn ban đầu lớn để xây dựng chuồng trại, mua con
giống; bình quân một trang trại chăn nuôi phải đầu tư 577 triệu đồng. Trang trại
lâm nghiệp với quy mô lớn, địa bàn nằm ở xa, chí phí đầu tư ban đầu là rất cao,
bình quân 857 triệu đồng. Các trang trại tổng hợp vốn đầu tư là 505 triệu đồng. Do
tình hình kinh tế có nhiều biến động nên các chủ trang trại đã chủ động chuyển đổi
cơ cấu cây trồng cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy
kinh tế trang trại phát triển và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn, tính bình quân chung
các trang trại trong năm 2016 tỷ suất lợi nhuận (lợi nhuận/tổng chi phí) tạo ra là
0,188 lần.
+ Hiệu quả về sử dụng lao động: Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần ổn
định công ăn việc làm cho một bộ phận lao động ở nông thôn. Đa số các chủ trang
18
trại là các hộ nông dân sản xuất giỏi, có năng lực sản xuất kinh doanh và có khả năng
chỉ đạo và điều hành sản xuất, do đó hiệu quả sử dụng lao động ngày càng cao, đến
nay bình quân một lao động trang trại tạo ra 44,37 triệu đồng thu nhập cho trang trại.
Số lao động làm thuê chiếm gần 40% tổng số lao động của trang trại. Hầu hết số lao
động đang làm việc tại các trang trại chưa qua đào tạo mà chủ yếu là lao động phổ
thông. Lao động kỹ thuật chủ yếu là kinh nghiệm được đúc rút qua thực tế sản xuất
là chính. Tuy nhiên, hiện nay việc thuê lao động chủ yếu theo hình thức thoả thuận
giữa chủ trang trại và người làm thuê, không có ký kết hợp đồng lao động, việc thực
hiện Thông tư số 23/2000/TT-LĐ-TBXH, ngày 28/9/2000 của Bộ Lao động Thương binh, xã hội “Hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người lao động làm
việc trong các trang trại” chưa được các chủ trang trại thực hiện.
+ Hiệu quả việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy phát triển
công nghiệp hóa nông thôn: Kinh tế trang trại huyện Lắk chủ yếu là trang trại gia
đình có khả năng tiếp thu nhiều trình độ khoa học và công nghệ khác nhau, từ thô sơ
đến hiện đại, phù hợp với yêu cầu và khả năng sản xuất nên đạt mức chi phí sản xuất
thấp và hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất hàng hoá. Tuy quy mô không lớn nhưng
trang trại gia đình đã dung nạp được hiện đại hóa nông nghiệp với mức độ cao. Đối
với các trang trại chăn nuôi đã có kinh nghiệm áp dụng các kỹ thuật, công nghệ mới về
chăn nuôi gia cầm siêu thịt, siêu trứng, phát triển chăn nuôi bò đực lai Zêbu để cải tạo
đàn bò địa phương,...đối với trang trại trồng trọt đã sưu tầm, học hỏi, tập huấn về áp
dụng các chế độ bón phân cân đối, tưới hợp lý, phòng trừ bệnh hại nhằm tăng năng suất,
chất lượng, hiệu quả.
+ Hiệu quả xã hội: Sau những năm chuyển đổi từ kinh tế hộ hiệu quả thấp
sang mô hình kinh tế trang trại, ban đầu chỉ là tự phát, song đến nay phong trào làm
kinh tế theo hướng trang trại tập trung đã và đang có bước phát triển mạnh mẽ cả
về số lượng, quy mô cũng như hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Kinh tế
trang trại đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn,
tăng thu nhập ổn định cuộc sống cho bộ phận nông dân, tạo điều kiện cho người
dân tiếp cận với công việc một cách khoa học hơn.
3.4.2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế trang trại
19
- Vấn đề đất đai: Quá trình tiến hành rà soát quỹ đất của các trang trại; xác
minh nguồn gốc đất tiến tới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cho thuê đất
theo quy định của luật đất đai còn chậm, còn nhiều vướng mắc chưa được tháo gỡ.
Luật đất đai 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần thúc đẩy kinh tế trang
trại ngày càng phát triển, tuy nhiên theo quy định về mức hạn điền chưa khuyến khích
tích tụ ruộng đất để phát triển trang trại sản xuất hàng hóa.
- Tiêu thụ nông sản hàng hóa:
+ Việc thực hiện chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa thông qua hợp
đồng theo quyết định số: 80/2002/QĐ-TTg, ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính
phủ còn gặp một số khó khăn như: sự biến động giá cả quá lớn của mặt hàng nông
sản trên thị trường; thực tế các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
nông sản hàng hóa của nông dân chưa nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước theo
quyết định số 80/2002/QĐ-TTg; các hộ nông dân, trang trại tự ý phá vỡ hợp đồng
khi có sự biến động lớn của giá cả thị trường,..nên số lượng hàng hóa được tiêu thụ
thông qua hợp đồng tiêu thụ hàng năm chiếm số lượng rất thấp.
+ Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư: Một số chương trình khuyến nông,
lâm, ngư đã được triển khai đến từng địa phương và các chủ trang trại; tuy nhiên do
nhiều yếu tố khách quan nên nhiều trang trại chưa được hưởng lợi từ chương trình
này.
+ Đầu tư và tín dụng: Các chính sách của Trung ương về phát triển kinh tế
trang trại như: Quyết định số 423/2000/QĐ-NHNN, ngày 22/09/2000 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang
trại; Thông tư số 03/2003/TT-NHNN, ngày 24/02/2003 của Ngân Hàng Nhà Nước
Việt Nam và hướng dẫn số 1163/NHNN-TD, ngày 28/04/2003 của Ngân hàng
Nông nghiệp và PTNT Việt Nam về vay không phải đảm bảo bằng tài sản đối với
trang trại, Nghị định số 41/2010/NĐ-CP, ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thực sự chưa được triển
khai một cách triệt để.
- Điều kiện thời tiết khí hậu tác động đến sản xuất: Biến đổi khí hậu là một
trong những rủi ro ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sự phát triển của
20
kinh tế trang trại. Trong những năm qua, tình hình thời tiết diễn biến hết sức phức
tạp, hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp
huyện Lắk nói chung và các trang trại nói riêng. Ngoài ra, thời tiết thay đổi cũng tác
động đến cơ cấu mùa vụ và điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất.
3.5. Đề xuất giải pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại
ở huyện Lắk
3.5.1. Về đất đai
- Tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đai, xác định cụ thể các vùng chuyên canh các loại cây trồng vật nuôi, gắn chuyên
canh với đa canh để phát huy tối đa các lợi thế các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
của từng vùng sản xuất, từng địa phương.
- Nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại để
họ yên tâm sản xuất và có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng.
- Cần khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất để tạo tiền đề cho quá trình
chuyển từ sản xuất nông hộ lên kinh tế trang trại một cách thuận lợi, không thể áp
đặt bằng mệnh lệnh mà phải theo nguyên tắc tự nguyện. Trước tiên là khuyến khích
việc dồn đổi ruộng đất là chính..
- Hộ gia đình, cá nhân phi nông nghiệp hoặc ở các địa phương khác, các
doanh nghiệp có nguyện vọng và khả năng lập nghiệp đầu tư vốn phát triển trang
trại được UBND xã sở tại cho thuê đất sản xuất.
3.5.2. Về khoa học công nghệ
- Tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ các chủ trang trại mạnh dạn đầu tư nghiên
cứu khoa học và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nông, lâm
nghiệp, tăng năng suất và chất lượng giống cây trồng, vật nuôi. Tăng cường công tác
kỹ thuật phục vụ sản xuất, phục vụ các trang trại như khuyến nông, bảo vệ thực vật,
thú y…để thực hiện việc hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, phòng trừ sâu
bệnh, phục vụ tưới tiêu…đến các trang trại.
- Tăng cường công tác kỹ thuật phục vụ sản xuất như khuyến nông, bảo vệ thực vật,
thú y nằm hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, phòng trừ sâu bệnh dịch hại.
21
3.5.3. Về liên kết và tổ chức sản xuất
- Hình thành các trang trại theo mô hình liên kết giữa trang trại với nông dân.
Đây là một hình thức liên kết mà một trang trại có uy tín tiến hành ký hợp đồng
cam kết với các hộ nông dân trong vùng về việc sử dụng ruộng đất theo kế hoạch
sản xuất chung, việc tiến hành canh tác vẫn giao cho các hộ gia đình thực hiện. Tùy
theo quy mô và trình độ sản xuất, các trang trại có được mở rộng sang trang trại
cung ứng giống, chuyển giao kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và
tổ chức tiêu thụ cho nông dân.
- Một hình thức hợp tác, liên kết tiêu biểu và đem lại hiệu quả cao là chương
trình liên kết “5 nhà” giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông,
nhà tín dụng là tiêu biểu nhất.
3.5.4. Về vốn đầu tư và tín dụng
- Cần xác định tư cách pháp nhân của trang trại để tiến hành các quan hệ giao
dịch vay vốn ngân hàng
- Nhà nước cần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển cho vay trung và dài
hạn cho các trang trại với mức lớn hơn và lãi suất ưu đãi để đáp ứng nhu cầu của
kinh tế trang trại.
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ trang trại tiếp xúc với nguồn vốn. Ngân hàng chính sách huyện tiếp
tục hỗ trợ hộ nông dân, chủ trang trại vay vốn thông qua các chương trình của
mình, bên cạnh đó huy động nội lực từ các quỹ tín dụng nhân dân và tổ vay vốn để
thuận tiện trong quá trình sản xuất.
3.5.5. Về đào tạo và sử dụng lao động
- Nhân tố con người và nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu, có
ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Từ thực trạng phân
tích trên, để cho kinh tế trang trại phát triển và mang lại hiệu quả cao, rất cần thiết
phải đặt vấn đề tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho các chủ trang trại và những người
lao động làm việc trong các trang trại.
22
- Việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng cho các chủ trang trại cần tập trung vào
những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh, về cách tiếp cận với kinh tế thị trường, tiếp cận với khoa học kỹ thuật công
nghệ mới, cách lập và thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dự án vay
vốn, kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương pháp quản lý và hạch toán kinh tế trong
trang trại…
- Đối với lao động làm thuê trong các trang trại cũng phải được đào tạo, bồi
dưỡng thành những lao động có kỷ luật, kỹ thuật và tay nghề vững vàng. Đồng thời
Nhà nước cần có các quy định ràng buộc chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ giữa chủ
trang trại và người làm thuê trong các hợp đồng lao động để các bên hoàn toàn thoả
mái, yên tâm dưới sự bảo vệ của pháp luật Nhà nước.
3.5.7. Về thị trường và phát triển công nghiệp chế biến
- Cần đầu tư xây mới, mở rộng nâng cấp các cơ sở chế biến công nghiệp để thu
hút sản phẩm nguyên liệu từ kinh tế trang trại, đặc biệt ưu tiên trước hết cho các cơ sở
chế biến. Xây dựng cơ sở giết mổ chế biến sản phẩm gia súc gia cầm.
- Mở rộng và phát triển mạnh mạng lưới tiêu thụ, cần nhấn mạnh ở những
vùng trọng yếu khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia giải quyết đầu ra cho
trang trại, cho nông dân.
3.5.8. Giảm thiểu, phòng ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường
Hoạt động bảo vệ môi trường là một nhiệm vụ không thể tách rời trong các
hoạt động phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, vệ sinh thú y, sản
xuất, kinh doanh ....do đó lồng ghép chương trình tuyên truyền bảo vệ môi trường
trong các hoạt động phát triển cộng đồng, các hoạt động xã hội và trên các phương
tiện thông tin đại chúng;
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thân thiện với môi trường, sản xuất sạch
hơn. Tùy điều kiện cụ thể từng nơi để lựa chọn các mô hình phù hợp nhằm đảm bảo
việc thu gom triệt để nguồn thải từ quá trình chăn nuôi, không để các nguồn thải
phát tán ra ngoài môi trường, sử dụng một số chế phẩm sinh học bổ sung vào thức
23
ăn và chất thải chăn nuôi nhằm hạn chế khí độc hại và vi sinh vật có hại, giảm ô
nhiễm môi trường.
24
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Kinh tế trang trại đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn, thúc đẩy công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản phát triển, tăng
nhanh khối lượng sản phẩm hàng hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao
động nông thôn. Kinh tế trang trại đã và đang trở thành phương thức sản xuất kinh
doanh điển hình đối với người dân khu vực nông thôn của địa phương, là loại hình
làm ăn có hiệu quả phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay.
Bên cạnh những kết quả đạt được kinh tế trang trại huyện Lắk đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết như: địa vị pháp lý của trang trại chưa rõ ràng,
việc quy hoạch đất đai giao quyền sử dụng đất lâu dài còn nhiều bất cập. Phần lớn
các trang trại hình thành một cách tự phát, thiếu tính định hướng rõ ràng, cơ sở vật
chất kỹ thuật thô sơ, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, trình độ chuyên môn
của chủ trang trại và lao động trang trại còn thấp so với nhiều huyện trong tỉnh.
Đây đang là một cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế trang trại.
Để kinh tế trang trại của huyện phát triển một cách vững chắc, những giải
pháp chung và giải pháp cụ thể cho từng loại hình trang trại đã được đề cập một
cách có hệ thống, nhưng trước hết cần đặc biệt chú trọng hai giải pháp cốt lõi, đó
là: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho chủ trang trại. Xác định rõ địa vị pháp
lý cho kinh tế trang trại như quyền sử dụng đất ổn định lâu dài; tư cách pháp nhân
của trang trại để giúp họ được hưởng các chính sách ưu đãi mà Nhà nước quy định.
25