Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Điều lệ công ty theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.83 KB, 78 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

ĐIỀU LỆ CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện

: Phạm Thị Thanh Tâm

Giáo viên hướng dẫn

: ThS. Đặng Thị Vũ Hường

Ngành

: Luật Kinh tế

Chuyên ngành

: Luật Tổ chức kinh doanh

Niên khóa

: 2011 – 2015

Huế, tháng 4 năm 2017LỜI CAM ĐOAN

1




Tôi xin cam

đoan đây là đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số

liệu và kết quả

nghiên cứu của công trình nghiên cứu là trung thực và có

nguồn

ràng. Những thông tin tham khảo trong khóa luận tốt

gốc



nghiệp này đều

được trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng.

LỜI CẢM ƠN
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Thanh Tâm
Trong quá trình thực hiện đề tài “Điều lệ công ty theo pháp luật
Việt Nam”, tác giả đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện
DANH
MỤC
TỪ hiệu nhà trường, cán bộ, giảng

VIẾTviên
TẮT
của Ban
Giám
Khoa Luật Kinh tế
Đại học Luật – Đại học
Huế,
tôi xinnhiệm
bày tỏ
lòng
1. trường
CTTNHH
: Công
ty trách
hữu
hạncảm ơn chân
2. thành vềCTCP
: Công ty cổ phần
sự giúp đỡ đó.
4.
CTHD
: Công ty hợp danh
Đặc
biệt, tôi xin bày tỏ: Đại
lònghội
biếtđồng
ơn sâu
sắc và chân thành nhất
5.
ĐHĐCĐ

cổ đông
6. đến ThS.ĐLCT
: Điều
lệ công
ty đã trực tiếp hướng dẫn
Đặng Thị Vũ Hường
- người
cô giáo
7.
HĐQT
: Hội đồng quản trị
tận tình cùng với: Hội
những
định
hướng
8. và chỉ bảo
HĐTV
đồng
thành
viên đúng đắn và đã tạo
9. mọi điều LDN
: Luậtđểdoanh
nghiệp
kiện thuận lợi tốt nhất
cá nhân
tôi có thể hoàn thành tốt
10.
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
Khóa luận tốt nghiệp.

MỤCTác
LỤC
giả đã luôn cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất, song việc tiếp cận đề tài nghiên cứu và kiến thức cũng như kinh
nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn Khóa
luận tốt nghiệp này không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 4 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Thanh Tâm
2


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Nhà nước ta bắt đầu
thực hiện công cuộc đổi mới, với mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường, tự do kinh doanh, chấp nhận và tôn trọng các
quy luật của nền sản xuất hàng hóa. Kể từ giai đoạn đó cho đến nay, hệ thống
pháp luật doanh đã không ngừng được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với nhu
cầu phát triển mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân. Đặc biệt là hai cuộc đột phá về
thể chế chính trị của “Luật doanh nghiệp năm 1999” và “Luật doanh nghiệp năm
2014” với nhiều điểm tiến bộ vượt bậc đã mở ra cơ hội cho các chủ thể kinh
doanh khởi nghiệp một cách dễ dàng và phát triển bền vững.
Có thể nói Luật doanh nghiệp đóng một vai trò hết sức quan trọng. Luật
vừa đảm bảo cho Nhà nước kiểm soát hiệu quả các hoạt động kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh, đồng thời là kim chỉ nam cho các doanh nghiệp tổ chức,
quản lý hoạt động một cách tốt nhất, góp phần đảm bảo nền kinh tế quốc dân ổn

định và tăng trưởng vững chắc. Tuy nhiên, bên cạnh sự điều chỉnh của Luật
doanh nghiệp, thì việc thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải
thể của doanh nghiệp (ngoại trừ doanh nghiệp tư nhân) còn được điều chỉnh bởi
Điều lệ công ty.
Nếu xem công ty như là một quốc gia, một xã hội thu nhỏ thì Điều lệ chính
là “Hiến pháp”, là “Pháp luật” của quốc gia thu nhỏ ấy. Điều lệ của công ty là
văn bản ghi nhận thoả thuận của những người sáng lập liên quan đến việc thành
lập, tổ chức, điều hành và giải thể công ty được thông qua với nguyên tắc nhất
trí của tất cả người sáng lập. Nói cách khác Điều lệ ấn định quyền hạn và bổn
phận của các thành viên góp vốn cũng như của các cơ quan quản trị, các nhà
quản lý và mối tương quan của những người này với các tổ chức quản lý liên
quan. Vì vậy, trong công ty Điều lệ có vai trò và vị trí vô cùng thiết yếu. Thành
3


viên, cổ đông sẽ căn cứ vào bản Điều lệ để biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Người thứ ba đọc Điều lệ để xác định được công ty này hoạt động ngành nghề
gì, đại diện pháp luật là ai, thẩm quyền của công ty được ấn định ra sao? Người
quản lý hay thành viên Ban kiểm soát có thể căn cứ Điều lệ để biết trách nhiệm,
vai trò, chế độ đãi ngộ dành cho mình. Nếu muốn trở thành thành viên hoặc cổ
đông của công ty, tìm hiểu các vấn đề về chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần
thì tất cả đều phải xem xét từ Điều lệ.
Để Điều lệ có thể phát huy hết được vai trò quan trọng kể trên, pháp Luật
doanh nghiệp hiện hành đã kịp thời có những quy định khá chặt chẽ về những
nội dung cơ bản bắt buộc phải có của một bản Điều lệ. Xuyên suốt Luật doanh
nghiệp trong một số trường hợp luôn có quy định mở cho phép Điều lệ công ty
được quy định một nội dung khác phù hợp hơn với điều kiện thực tế của công ty
mình. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn một số khó khăn, vướng mắc do
sự thiếu hụt các văn bản hướng dẫn thi hành khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp
lúng túng trong quá trình xây dựng và sử dụng Điều lệ. Bên cạnh đó, khi tiến

hành rà soát các văn bản pháp luật hay án lệ của Việt Nam thì hiện chưa có quy
định cụ thể nào thừa nhận và giải thích về bản chất, vị trí pháp lý của Điều lệ
công ty. Do đó, ở hầu hết các doanh nghiệp Điều lệ công ty đang bị xem nhẹ,
thậm chí là bỏ qua. Việc xây dựng và soạn thảo Điều lệ chỉ mang tính chất sao
chụp từ Điều lệ mẫu để đáp ứng điều kiện đăng kí kinh doanh chứ các doanh
nghiệp chưa thật sự hiểu rõ bản chất cũng như vai trò quan trọng của Điều lệ
trong điều hành và quản lý hoạt động công ty.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về Điều lệ công ty thông qua các
quy định của pháp luật nhằm tìm ra những vướng mắc, bất cập khi áp dụng
trong thực tiễn, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về Điều lệ
công ty là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những phân tích trên, cho nên tác giả chọn đề tài “Điều lệ
công ty theo pháp luật Việt Nam”. Nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta đánh giá

4


được những thực trạng kể trên và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật về Điều lệ công ty.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích nội dung cơ bản của pháp luật về Điều lệ công ty
trong Luật doanh nghiệp 2014, kết hợp với so sánh và phân tích với các quy
định trong Luật công ty 1990, Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp
2005, Luật doanh nghiệp 2014, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, Thông tư số
121/2012/TT-BTC, Thông tư số 227/2012/TT-BTC…
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về Điều lệ công
ty trong quá trình xây dựng và soạn thảo Điều lệ công ty; sử dụng Điều lệ công
ty trong tổ chức và hoạt động công ty và giải quyết tranh chấp nội bộ công ty.
2.1. Phạm vi nghiên cứu

- Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu các quy định pháp luật về Điều lệ công
ty trong các văn bản pháp luật qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng đặc biệt tập
trung đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật về Điều lệ công ty theo Luật
doanh nghiệp 2014 của hai loại hình công ty là Công ty trách nhiệm hữu hạn và
Công ty cổ phần.
- Về mặt thực tiễn, nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
về Điều lệ công ty. Từ đó đưa ra được những đánh giá về điểm đã đạt được đồng
thời tìm ra những vướng mặt và bất cập để đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về Điều lệ công ty và định hướng
cho doanh nghiệp sử dụng hiệu quả các quy định của pháp luật đó.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định bắt buộc phải có của Điều lệ công ty theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời phân tích, làm rõ phạm vi áp dụng và
bản chất pháp lý của Điều lệ công ty.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về Điều
lệ công ty trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty.

5


- Từ đó, đưa ra những bất cập, vướng mắt trong thực tiễn áp dụng pháp luật
về Điều lệ công ty.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp
luật về Điều lệ công ty.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về Điều lệ công ty trong hệ thống pháp
luật Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc xây dựng Điều lệ, phạm vi
áp dụng và bản chất của Điều lệ.
- Tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật về những nội dung cơ bản

trong Điều lệ công ty.
- Tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về Điều lệ công
ty của các doanh nghiệp; từ đó đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của pháp
luật về Điều lệ công ty hiện hành.
- Đề xuất giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật về Điều lệ công ty.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, hệ thống hóa: Phương pháp này nhằm hệ thống
hóa các quy định của pháp luật về Điều lệ công ty để từ đó phân tích, hệ thống
hóa ở góc độ lý luận, chỉ ra những đặc điểm, bản chất của Điều lệ.
- Phương pháp điều tra, thu thập thông tin: Tác giả sử dụng phương pháp
này để thu thập các thông tin về tình hình thành lập doanh nghiệp cũng như cách
thức các doanh nghiệp xây dựng một bản Điều lệ, sử dụng nó trong quá trình
hoạt động.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Điều lệ công ty
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về Điều lệ công ty
và giải pháp hoàn thiện
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU LỆ CÔNG TY
1.1. Khái quát chung về Điều lệ công ty
1.1.1. Khái niệm Điều lệ công ty
6


“Quốc hữu quốc pháp, gia hữu gia quy”. Tức nhà nước thì cần có pháp
luật, gia đình thì cần có nội quy. Theo lẽ tự nhiên, với mỗi một công ty, cũng cần
phải có một “quốc pháp” hay “gia quy” cho riêng mình. Pháp luật gọi đó là
“Điều lệ công ty”.

Về bản chất, ĐLCT có thể được coi là một “khế ước” của những người
thiết lập ra nó. Các nước phát triển coi Điều lệ là một khế ước giữa công ty với
các thành viên, cổ đông và giữa các cổ đông, thành viên với nhau 1. Về pháp lý,
tập tục ở các nước phát triển coi nó là một bản hợp đồng giữa công ty với các
thành viên góp vốn và giữa các thành viên góp vốn với nhau 2. Theo pháp luật
Hoa Kì thì ĐLCT được gọi là "Điều lệ" hoặc "Điều khoản thành lập doanh
nghiệp", đây là văn bản do chính những người sáng lập của một công ty đệ trình
lên cơ quan nhà nước Hoa Kỳ nhằm mô tả chi tiết các thành phần chính của
công ty như đối tượng kinh doanh, cơ cấu công ty và kế hoạch hoạt động. Nếu
Điều lệ được chính phủ phê chuẩn, công ty trở thành một công ty hợp pháp 3.
Điều lệ này phải được đệ trình lên trước khi công ty hoạt động kinh doanh, chỉ
khi được cơ quan nhà nước chấp thuận thì công ty và mọi giao dịch kinh doanh
của công ty đó mới trở nên hợp pháp.
Ở nước ta, ĐLCT cũng được xem như là một bản “Hiến pháp”, là căn cứ
pháp lí đầu tiên và quan trọng nhất khi xảy ra tranh chấp. Thế nhưng, LDN và
các quy định pháp luật khác hiện hành lại không đưa ra định nghĩa như thế nào
là “Điều lệ công ty”. Vì vậy để tìm hiểu về như thế nào là “Điều lệ công ty” thì
đầu tiên ta sẽ dựa trên cơ sở định nghĩa của từ điển.
1 Lưu Minh Sang, ĐLCT – “Bản Hiến pháp” đang bị lãng quên, Thời báo kinh tế Sài Gòn online,

/>nhập ngày 30/3/2015

cập

2 Nguyễn Ngọc Bích - Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty - Vốn, Quản lý và Tranh chấp theo LDN

2005, Nhà xuất bản Tri Thức, trang 95.
Corporate
Chater
Definition,

bài viết
này được
đăng
tải
ngày xem 20/3/2017.
3

7

tại

website


Thứ nhất, theo từ điển pháp lý thì “Điều lệ” là một văn bản pháp lý cơ bản
của chủ thể kinh doanh được đảm bảo bằng nhà nước nhằm xác định quyền,
nghĩa vụ, cơ chế quản lý của chủ thể. Là một văn bản thể hiện một số thẩm
quyền do pháp luật quy định hay do chính công ty quy định”4.
Thứ hai, theo từ điển Tiếng Việt thì “Điều lệ” là văn bản ghi nhận những
điều khoản quy định mục đích, nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của
một đoàn thể, một tổ chức5.
Còn, “Công ty” là tổ chức kinh doanh do nhiều thành viên cùng góp vốn,
cùng chia lợi nhuận hoặc cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp6.
Thứ ba, theo từ điển Luật học thì “Điều lệ công ty” là bản cam kết của tất
cả thành viên công ty về mục đích thành lập, về tổ chức quản lí và tổ chức hoạt
động cho công ty, được các thành viên công ty thông qua và được cơ quan đăng
kí kinh doanh xác nhận. ĐLCT được xây dựng từ sự thỏa thuận tự nguyện của
các thành viên trên cơ sở không trái với quy định của pháp luật. Bởi vậy, các
quy định của Điều lệ có giá trị bắt buộc thi hành đối với công ty và các thành
viên của nó7.

Như vậy, qua tìm hiểu từ từ điển thì ĐLCT có thể xem như là một văn kiện
pháp luật cơ bản và quan trọng của công ty, nó được đăng kí với cơ quan nhà
nước trong đó xác định về những nội dung quyền, nghĩa vụ, cơ chế hoạt động và
quản lý. Những nội dung này được xây dựng trên cơ sở quy định pháp luật và
xuất phát từ sự thiện chí thỏa thuận giữa các thành viên.
Hiện vẫn chưa có khái niệm chính thống về thế nào là ĐLCT, nhưng nhìn
chung hầu hết các quan điểm của các chuyên gia thì đều xem Điều lệ như một
bản hợp đồng đặc biệt. Theo Thạc sĩ Luật kinh tế - Quốc tế Đại học Toulouse1
Pháp Nguyễn Xuân Đang thì “Điều lệ công ty, một cách thông thường, vẫn được
4Từ điển pháp lý, ngày xem 21/3/2017
5 Từ điển Tiếng Việt (2004), Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 322
6 Từ điển Tiếng Việt (2004), Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 210
7 Từ điển Luật học (2006), Nhà xuất bản tư pháp – Nhà xuất bản từ điển bách khoa, trang 255

8


hiểu là “bản hiến pháp”, là “luật tối cao” trong công ty. Các thành viên sáng
lập khi thành lập công ty cũng như các thành viên mới khi gia nhập công ty luôn
phải thông qua hoặc cam kết tuân thủ Điều lệ - ấn định những nguyên tắc về tổ
chức nội bộ, hoạt động, giải thể của công ty, từ đó điều chỉnh các quyền, nghĩa
vụ của các thành viên trong công ty. Xét cho cùng, Điều lệ công ty là bản thỏa
thuận của các thành viên công ty và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
công nhận, do vậy, trong ý nghĩa đó, Điều lệ có tính chất như một bản hợp
đồng”8. Quan điểm này có cách nhìn nhận về bản chất pháp lý của Điều lệ gần
giống với Luật công ty của các nước phát triển trên thế giới đó là xem Điều lệ
như là một bản hợp đồng được thiết lập giữa các thành viên hoặc cổ đông công
ty được cơ quan nhà nước công nhận để điều chỉnh các vấn đề trong nội bộ công
ty.
Cùng quan điểm, Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - Thạc sĩ Luật Trường Đại

học Luật Harvard cũng cho rằng:“Điều lệ của công ty là văn bản ghi nhận thoả
thuận của những người sáng lập liên quan đến việc thành lập, tổ chức, điều
hành và giải thể công ty được thông qua với nguyên tắc nhất trí của tất cả
người sáng lập. Nói cách khác Điều lệ ấn định quyền hạn và bổn phận của các
thành viên góp vốn cũng như của các cơ quan quản trị, các nhà quản lý và mối
tương quan của những người này với các tổ chức quản lý liên quan như một bản
hợp đồng đặc biệt”9.
Trước đây, Luật công ty năm 1990 có định nghĩa “Điều lệ công ty là bản
cam kết của tất cả thành viên về thành lập và hoạt động của công ty, được thông
qua tại đại hội đồng thành lập”.Tuy nhiên, trãi qua nhiều giai đoạn phát triển và
hoàn thiện của hệ thống pháp luật, có nhiều quan hệ pháp luật thay đổi, nhiều
quan hệ pháp luật phát sinh nên định nghĩa này một phần nào đó không còn phù
8Nguyễn Xuân Đang, Điều lệ vô hiệu, Luật Việt, />
doi/2007/5667/Dieu-le-vo-hieu.aspx, cập nhập ngày 23/11/2017
9Nguyễn Ngọc Bích - Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty - Vốn, Quản lý và Tranh chấp theo LDN
2005, Nhà xuất bản Tri Thức, trang 95, 96.

9


hợp để giải thích về “Điều lệ công ty”. Pháp LDN 1999, 2005 và 2014 đều
không đưa ra định nghĩa “Điều lệ công ty” là gì? Tuy nhiên, căn cứ trên quy
định tại Điều 25 LDN 2014 có thể hiểu nội dung điều chỉnh cơ bản mà Điều lệ
hướng đến là việc thành lập, tổ chức, quản lý điều hành và giải thể công ty. Điều
lệ khi đăng kí doanh nghiệp phải được xây dựng trên nguyên tắc tự do thỏa
thuận, có chữ kí xác nhận của các thành viên sáng lập và được cơ quan nhà nước
xem xét chấp thuận trước khi đi vào hoạt động.
Từ sự phân tích về ĐLCT theo pháp luật của các nước phát triển mà tiêu
biểu là pháp luật công ty Hoa Kì kết hợp với những định nghĩa từ từ điển và ý
kiến của nhà lập pháp, của các chuyên gia, có thể hiểu Điều lệ công ty là văn

bản ghi nhận những điều khoản quy định về mục đích thành lập, tổ chức quản lí
và tổ chức hoạt động của công ty trên cơ sở sự thỏa thuận tự nguyện của các
thành viên hoặc cổ đông không trái với quy định của pháp luật và được cơ quan
đăng kí kinh doanh xác nhận.
1.1.2. Quá trình phát triển của các quy định về Điều lệ công ty qua các
thời kì
1.1.2.1. Trước khi có Luật doanh nghiệp 1999
Đất nước ta bắt đầu thực hiện đổi mới từ nửa cuối thập niên 1980, với
mong muốn xóa bỏ dần cơ cấu bao cấp quan liêu của nền kinh tế kế hoạch hóa,
phát triển nền kinh tế năng động và hiện đại hơn. Một chủ trương lớn của chính
phủ Việt Nam là hướng đến tự do hóa thương mại và thúc đẩy kinh tế tư nhân.
Với nhiều biện pháp nhằm xóa bỏ bớt rào cản cho kinh tế tự do lưu thông, nền
kinh tế Việt Nam nói chung, trong đó chủ yếu là kinh tế cá thể tư nhân bắt đầu
phát triển mạnh. Tuy nhiên trong giai đoạn này, các doanh nghiệp được thành
lập và hoạt động còn rất ít và manh mún.
Trước xu thế nền kinh tế toàn cầu phát triển và đáp ứng nhu cầu quản lý sự
gia tăng mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân, Luật Công ty năm 1990 và Luật
doanh nghiệp tư nhân năm 1990 được ban hành cho phép các doanh nghiệp
10


thành lập theo loại hình CTTNHH và CTCP hoặc doanh nghiệp tư nhân. Luật
công ty năm 1990 định nghĩa “Điều lệ công ty là bản cam kết của tất cả thành
viên về thành lập và hoạt động của công ty, được thông qua tại đại hội đồng
thành lập”. Trên cơ sở khái niệm đó, Luật cũng đưa ra những nội dung chủ yếu
cần có của một bản Điều lệ: (1) Hình thức, mục tiêu, tên gọi, trụ sở, thời hạn
hoạt động của công ty; (2) Họ, tên các sáng lập viên; (3) Vốn Điều lệ, trong đó
ghi rõ trị giá phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bằng bản quyền sở hữu công
nghiệp; (4) Phần góp vốn của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn; mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với công ty cổ phần; (5)

Thể thức hoạt động và thông qua quyết định của đại hội đồng; (6) Cơ cấu quản
lý và kiểm soát công ty; (7) Các loại quỹ, mức giới hạn các quỹ được lập tại
công ty; (8) Thể lệ quyết toán và phân chia lợi nhuận; (9) Các trường hợp sáp
nhập, chuyển đổi hình thức, giải thể công ty và thể thức thanh lý tài sản công ty.
Các nội dung này đã phần nào đặt nền móng sơ khai cho hệ thống pháp luật về
ĐLCT hoàn thiện và phát triển.
1.1.2.2. Các quy định pháp luật về Điều lệ công ty trong giai đoạn từ 1999 2005
Sau gần 9 năm thi hành Luật Công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp tư
nhân năm 1990, nhiều quan hệ pháp luật mới phát sinh đòi hỏi phải có một Luật
mới ra đời thống nhất các quy định của hai Luật công ty và Luật doanh nghiệp
tư nhân đồng thời mở rộng hơn để đáp ứng nhu cầu về loại hình kinh doanh và
phù hợp với xu hướng thế giới – LDN năm 1999 đã ra đời. LDN năm 1999 được
Quốc hội Khóa X thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 quy định chi tiết hơn các
loại hình tổ chức kinh tế tư hữu đã có trước đó (CTTNHH, CTCP và doanh
nghiệp tư nhân) và bổ sung thêm một loại hình mới là CTHD. Trên cơ sở kế
thừa các quy định tại Luật công ty 1990, LDN 1999 có những quy định về Điều
lệ chi tiết hơn, đáp ứng được nhu cầu về điều chỉnh các hoạt động nội bộ trong
công ty. Cụ thể là ĐLCT phải đáp ứng các nội dung cơ bản tại Điều 15 LDN
11


1999 như sau: (1)Tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu
có); (2) Mục tiêu và ngành, nghề kinh doanh; (3) Vốn Điều lệ; (4) Họ tên, địa
chỉ của tất cả thành viên hợp danh đối với CTHD; tên, địa chỉ của thành viên đối
với CTTNHH; tên, địa chỉ của cổ đông sáng lập đối với CTCP; (5) Phần vốn
góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên đối với CTTNHH và CTHD; số cổ
phần mà cổ đông sáng lập cam kết mua, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng
số cổ phần được quyền chào bán của từng loại đối với CTCP; (6) Quyền và
nghĩa vụ của thành viên đối với CTTNHH, CTHD; của cổ đông đối với CTCP;
(7) Cơ cấu tổ chức quản lý; (8) Người đại diện theo pháp luật đối với CTTNHH

và CTCP; (9) Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết
tranh chấp nội bộ; (10) Những trường hợp thành viên có thể yêu cầu công ty
mua lại phần vốn góp đối với CTTNHH hoặc cổ phần đối với CTCP; (11) Các
loại quỹ và mức giới hạn từng loại quỹ được lập tại công ty; nguyên tắc phân
chia lợi nhuận, trả cổ tức, chịu lỗ trong kinh doanh; (12) Các trường hợp giải
thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty; (13) Thể thức sửa đổi, bổ
sung ĐLCT; (14) Chữ ký của tất cả thành viên hợp danh đối với CTHD; của
người đạidiện theo pháp luật hoặc tất cả thành viên đối với CTTNHH; của người
đại diện theo pháp luật hoặc tất cả cổ đông sáng lập đối với CTCP.
LDN 1999 cũng cho phép các thành viên hoặc cổ đông tự do thỏa thuận các
nội dung khác trong khuôn khổ pháp luật, tuy nhiên trên thực tế thì hầu như vai
trò và vị trí của Điều lệ trong quản lý và Điều hành công ty còn khá mờ nhạt,
các thành viên hoặc cổ đông đều chủ yếu lấy LDN làm trọng. Vì lúc xây dựng
Điều lệ chỉ xây dựng cho có đủ điều kiện, nội dung chủ yếu được sao chép
nguyên các quy định của Điều 15 LDN 1999 và Điều lệ mẫu nên khi đưa vào
hoạt động lại phát sinh các vấn đề ngoài nội dung Điều lệ điều chỉnh, vì vậy
Điều lệ không thể là căn cứ đầu tiên để dẫn chiếu khi giải quyết các tranh chấp
nội bộ mà phải dùng đến LDN. Ngoài ra, LDN 1999 không có quy định cụ thể
về vấn đề sửa đổi, bổ sung Điều lệ sẽ chịu sự giám sát của cơ quan nhà nước dẫn
12


đến việc sửa đổi rất tùy nghi, từ đó Điều lệ trở nên không còn giá trị, chỉ mang
tính hình thức mà không được trưng dụng.
1.1.2.3. Các quy định pháp luật về Điều lệ công ty trong giai đoạn từ năm
2005 đến nay
Từ năm 2005 cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Công
Thương nói riêng đã có nhiều biến động và thay đổi. Đây là giai đoạn đánh dấu
sự ra đời của Bộ Công Thương được thành lập trên cơ sở hợp nhất Bộ Công
nghiệp và Bộ Thương mại. Cùng với đó là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã

tạo ra nhiều tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế tư nhân, góp phần vẽ nên bức tranh
toàn cảnh của ngành Công Thương với nhiều nét thay đổi rõ rệt đầy màu sắc.
Trong giai đoạn này, hệ thống pháp luật kinh doanh cũng có nhiều bước tiến
mạnh mẽ với những cải cách không ngừng của LDN 2005, sau đó là LDN 2014,
từng bước xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng, gợi mở và thuận lợi
hơn cho doanh nghiệp.
So với LDN 1999, các quy định của pháp luật về ĐLCT trong giai đoạn
này được mở rộng về cả nội dung lẫn phạm vi áp dụng. Điều 22 LDN 2005 và
Điều 25 LDN 2014 đã sắp xếp lại và quy định rõ ràng hơn về các nội dung bắt
buộc phải có của một bản Điều lệ. Cụ thể, Điều lệ không cần phải quy định về
mục tiêu kinh doanh; bổ sung thêm nội dung về chính sách thù lao, đãi ngộ đối
với người quản lý và ban kiểm soát; mở rộng sự tự do lựa chọn mô hình quản
trị; điều chỉnh giảm các tỷ lệ tham dự họp của cổ đông để ĐHĐCĐ đủ điều kiện
tiến hành họp và tỷ lệ để các quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua; bổ sung
thêm các hình thức dự họp bằng bỏ phiếu điện tử; lựa chọn việc bầu thành viên
HĐQT, Ban kiểm soát theo hình thức bầu dồn phiếu hoặc cách thức khác tùy
thuộc vào đặc điểm cơ cấu quản trị, cơ cấu cổ đông của doanh nghiệp.
LDN 2014 còn khắc phục được sự chồng chéo và mâu thuẫn trong các quy
định về Điều lệ mà LDN 1999 và 2005 mắc phải, đó là về vấn đề chữ kí trong
Điều lệ đăng kí kinh doanh của người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, pháp

13


luật cũng cho phép Điều lệ quy định thêm các nội dung quan trọng khác như
giao dịch với người có liên quan, tiêu chuẩn về nghĩa vụ của người quản lý. Đặc
biệt, việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ hơn với
yêu cầu phải có chữ kí của Chủ tịch HĐTV hoặc chủ sở hữu hoặc người đại diện
theo pháp luật của công ty và phải thông báo với cơ quan nhà nước.
Như vậy, các quy định pháp luật về ĐLCT trong giai đoạn 2005 cho đến

nay đã được hoàn thiện hơn, điển hình là các quy định trong LDN 2014. Sự sửa
đổi này phần nào đó đã giúp nâng cao vai trò pháp lý của Điều lệ trong quản lý,
điều hành nội bộ công ty và giao dịch với bên thứ ba. Các Điều lệ mẫu của từng
loại công ty cũng được soạn thảo khá chi tiết để tạo điều kiện cho doanh nghiệp
dễ dàng tham khảo trong việc xây dựng Điều lệ, đặc biệt là các ngành nghề kinh
doanh có điều kiện. Nhờ đó mà Điều lệ không còn bị “lãng quên” trong các công
ty, và các vấn đề về hoạt động và tranh chấp nội bộ công ty cũng có xu hướng
hạn chế đáng kể.
1.1.3. Phạm vi áp dụng và các nguyên tắc cơ bản khi soạn thảo Điều lệ
công ty
1.1.3.1. Phạm vi áp dụng của Điều lệ công ty
Nếu xem công ty như là một quốc gia thu nhỏ thì Điều lệ chính là “ Bản
hiến pháp” của quốc gia thu nhỏ ấy. Điều lệ là căn cứ điều hành các hoạt động
nội bộ trong công ty và góp phần tạo lập lòng tin cho những đối tượng liên quan
với công ty như các chủ sở hữu, các chủ sở hữu tiềm năng, các đối tác kinh
doanh... ĐLCT điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên hoặc cổ đông với nhau,
các thành viên hoặc cổ đông với công ty và quan hệ đối ngoại của công ty với
các bên thứ ba10. Xuyên suốt LDN, các cụm từ: “Trừ trường hợp ĐLCT có quy
định khác”, “Các quy định khác theo ĐLCT”, “Trường hợp ĐLCT không có quy
định khác thì”, “tỷ lệ cụ thể do ĐLCT quy định”, “do ĐLCT quy định” được sử
10 Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản

dân trí, trang 228

14


dụng rất nhiều lần. Qua đó có thể thấy, đây là sự thừa nhận của pháp luật đối với
“bản hiến pháp” riêng này của mỗi công ty. Phạm vi điều chỉnh của ĐLCT được
ưu tiên áp dụng trong nhiều hoạt động của công ty cũng như là trong giải quyết

tranh chấp phát sinh. Trong phạm vi cho phép của pháp luật doanh nghiệp,
ĐLCT điều chỉnh ba mối quan hệ cơ bản sau:
Một là, Điều lệ điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên hoặc cổ đông với
nhau
Trong công ty, các thành viên hoặc cổ đông có các quyền và nghĩa vụ nhất
định bao gồm: quyền và nghĩa vụ theo luật định; quyền và nghĩa vụ khác theo
quy định trong Điều lệ. Khi các thành viên hoặc cổ đông thực hiện quyền và yêu
cầu các cổ đông khác phải tuân thủ nghĩa vụ của mình hoặc yêu cầu các biện
pháp xử lý để bảo vệ lợi ích cho mình thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của
các thành viên khác nếu Điều lệ không có quy định chi tiết, cụ thể hóa các quy
định mà pháp luật cho phép.
LDN 2014 quy định mười quyền cơ bản theo luật của thành viên và cổ
đông phổ thông. Thành viên hoặc cổ đông cũng có thể có thêm những quyền
khác nếu ĐLCT có quy định. Các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi có các quyền
ưu đãi về biểu quyết, cổ tức, hoàn lại hoặc ưu đãi khác so với cổ phần phổ thông
theo quy định của Điều lệ và cổ phiếu. ĐLCT không được phép hạn chế các
quyền theo luật định và cần quy định chi tiết những vấn đề luật không quy định
hoặc quy định chưa rõ. Chẳng hạn như quyền của các thành viên chưa góp vốn
hoặc cổ đông chưa thanh toán mua cổ phần trong giai đoạn 90 ngày hay quyền
của thành viên sở hữu 10% vốn điều lệ. Bởi vì, đối với các quyền không theo tỷ
lệ, không có sự chênh lệch quá khác biệt về lợi ích. Nhưng, đối với các quyền
được xác định trên cơ sở tỷ lệ sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần thì sẽ có sự
khác biệt về lợi ích tùy thuộc vào tỷ lệ sở hữu là bao nhiêu. Vì vậy ĐLCT càng
quy định chặt chẽ càng điều hòa được lợi ích cho mỗi thành viên hoặc cổ đông,
nhất là trong giai đoạn 90 ngày (hoặc có thể ngắn hơn theo thỏa thuận của các
thành viên hoặc cổ đông) rất khó để xác định quyền theo tỷ lệ và không theo tỷ
15


lệ. Do đó việc áp dụng Điều lệ để điều hòa lợi ích trong mối quan hệ giữa các

thành viên và cổ đông với nhau là vô cùng quan trọng.
Thành viên hoặc cổ đông có nghĩa vụ tuân thủ quy định của Điều lệ 11. Điều
lệ có thể quy định cụ thể quyền của thành viên hoặc cổ đông đối với thành viên
hoặc cổ đông vi phạm nghĩa vụ của Điều lệ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của mình, kể cả quyền khởi kiện trách nhiệm dân sự đòi bồi thường thiệt hại.
Hai là, Điều lệ điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên hoặc cổ đông với
công ty
Trên cở sở việc góp vốn hoặc mua cổ phần, thành viên hoặc cổ đông chính
là chủ sở hữu của công ty vì vậy họ có quyền tham gia vào quản lý công ty. Để
thực hiện quyền này thì các thành viên hoặc cổ đông thường quản lý thông qua
HĐTV hoặc HĐQT, sự điều hành của Ban giám đốc và Ban kiểm soát. Công ty
tồn tại và phát triển là nhờ vào sự dẫn dắt của những người này. Tuy nhiên
không phải lúc nào giữa thành viên hoặc cổ đông cũng có chung ý chí và quyền
lợi với các cơ quan quản lý nội bộ và người quản lý của công ty. Rõ ràng, cần
phải có một cơ chế điều hành và kiểm soát để thành viên hoặc cổ đông có thể
kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Chính vì thế
Điều lệ cần có quy định về quyền của thành viên hoặc cổ đông đối với các cơ
quan quản lý nội bộ và người quản lý để họ có nghĩa vụ tuân thủ các thủ tục và
yêu cầu trong quá trình hoạt động. Pháp luật cho phép Điều lệ có thể quy định
nhiều quyền hơn so với các yêu cầu của LDN, vì vậy Điều lệ chính là cơ sở để
cân bằng và kiềm chế quyền lực giữa các bên trong mối quan hệ giữa các thành
viên hoặc cổ đông với công ty.
Ba là, Điều lệ điều chỉnh quan hệ giữa công ty với các bên thứ ba
Bản Điều lệ ban đầu khi thành lập doanh nghiệp được soạn thảo và kí kết
bởi các thành viên đầu tiên sáng lập ra công ty. Những thành viên vào công ty
sau và các bên thứ ba giao dịch với công ty đều phải tuân thủ bản Điều lệ đó dù
họ không hề tham gia kí kết và thỏa thuận. Cụ thể (1) Điều lệ quy định cơ chế
11 LDN 2014, Khoản 3 Điều 51 về “Nghĩa vụ của thành viên” và Khoản 2 Điều 115 về “Nghĩa vụ của

cổ đông phổ thông”.


16


ủy quyền thay mặt công ty cho người đại diện theo pháp luật và người đại diện
theo ủy quyền xác lập và thực hiện các hợp đồng hoặc giao dịch với bên thứ ba,
đại diện cho công ty trong các thủ tục tố tụng hoặc làm việc với cơ quan nhà
nước. Điều lệ cũng cho phép chi nhánh hoặc văn phòng đại diện được tiến hành
một số hoạt động như đại diện được ủy quyền của công ty để thực hiện một phần
hoặc toàn bộ chức năng của công ty hoặc bảo vệ lợi ích cho công ty; (2) Điều lệ
quy định cụ thể và chi tiết thẩm quyền của HĐTV hoặc ĐHĐCĐ, HĐQT trong
việc giao dịch hoặc phê duyệt các hợp đồng, dự án kinh doanh của công ty với
bên thứ ba; (3) Điều lệ quy định trình tự, thủ tục và thứ tự phân chia tài sản của
công ty để thanh toán cho bên thứ ba (bao gồm cả chủ nợ) trong trường hợp
công ty phá sản hoặc giải thể.
Do đó, dù giữa công ty và các bên thứ ba không hề có thỏa thuận hay kí kết
vào bản Điều lệ ban đầu nhưng trên cơ sở 3 khía cạnh nêu trên, các bên có thể
lấy Điều lệ làm căn cứ áp dụng để bảo vệ quyền lợi và giải quyết khi xảy ra
tranh chấp.
1.1.3.2. Các nguyên tắc cơ bản khi soạn thảo một bản Điều lệ công ty
ĐLCT được hiểu như là “pháp luật áp dụng cho mỗi công ty”. Một Điều lệ
được xây dựng chặt chẽ thì không những có ý nghĩa về mặt điều hành quản lý
công ty mà còn có ý nghĩa trong kinh doanh, tạo niềm tin cho đối tác đầu tư. Vì
vậy, khi tham gia soạn thảo Điều lệ thì cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, ĐLCT không được làm trái lại với những quy định của pháp
luật hay xâm phạm quyền lợi của các bên thứ ba.
Đây là nguyên tắc đầu tiên và rất cơ bản khi soạn thảo ĐLCT. Pháp luật
cho phép Điều lệ được tự do quy định tuy nhiên các quy định này phải được xây
dựng trong khuôn khổ, hành lang pháp lý của LDN và pháp luật khác. Pháp luật
luôn có những quy định mở để Điều lệ có quy định điều chỉnh cho phù hợp với

tình hình hoạt động kinh doanh của công ty mình. Nhưng ĐLCT nếu có quy
định cũng không được phá vỡ những mức tối đa hay tối thiểu do luật định. Ví
dụ, tại Điều 143 LDN 2014 về “Hình thức thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ”

17


tại Điểm đ Khoản 2 có quy định “Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá
trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính
gần nhất của công ty, hoặc một tỷ lệ, giá trị khác nhỏ hơn do Điều lệ công ty
quy định”. ĐLCT được phép quy định một con số nhỏ hơn 35% chứ không thể
lớn hơn tỷ lệ này.
Thứ hai, ĐLCT như là một hợp đồng nhiều bên dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, tự do thỏa thuận để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức
quản lý, hoạt động của công ty.
Như vậy ĐLCT trước khi được xác lập phải trải qua các bước họp và đàm
phán, thỏa thuận những vấn đề cần được nêu ra trong Điều lệ. Bên cạnh các quy
định mà pháp luật đã thừa nhận thì ĐLCT phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ
khác của các bên cũng như cách thức thực hiện nó để chi tiết hóa khi áp dụng
vào thực tiễn. Ví dụ về nghĩa vụ góp vốn của cổ đông sáng lập, cổ đông cần góp
bao nhiêu vốn, góp vốn dưới hình thức nào : tài sản, tiền mặt hay quyền sử dụng
đất… cổ đông góp nhiều lần hay một lần qua phương tiện nào: trực tiếp hay
chuyển khoản ngân hàng, thời hạn cho việc góp vốn là bao lâu. Đối với các hình
thức góp vốn đặc biệt như góp bằng quyền sử dụng đất cần quy định thêm thời
hạn tiến hành làm thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho công ty…Về tổ chức
quản lý công ty, khi xây dựng cũng cần lưu ý, thảo luận đề ra rõ ràng về cơ cấu
quản lý công ty và thẩm quyền của người quản lý để tránh xảy ra tình trạng lạm
quyền hay tư lợi cá nhân gây thiệt hại cho công ty và thành viên hoặc cổ đông
khác. Đặc biệt đối với CTCP thì HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát cần phải
được ghi nhận trong Điều lệ, kèm theo là nội dung hoạt động, quyền hạn, nghĩa

vụ cũng như chỉ rõ ai là người đại diện theo pháp luật của công ty. Xác định
đúng và quy định rõ các vấn đề trong ĐLCT góp phần giảm thiểu tranh chấp nội
bộ công ty và làm cơ sở cho các bên thứ ba yên tâm khi đầu tư, hợp tác hay kí
kết làm ăn. Do đó, khi soạn thảo hoặc sửa đổi Điều lệ, các thành viên hoặc cổ
đông phải có sự thảo luận, cân nhắc từng vấn đề một để xây dựng được một bản

18


Điều lệ phù hợp nhất với điều kiện và tình hình hoạt động kinh doanh của công
ty mình.
Thứ ba, ĐLCT phải có đủ các nội dung chủ yếu theo quy định pháp luật.
Cụ thể là phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 25 LDN 2014
về (1) Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; tên, địa chỉ chi nhánh và văn phòng
đại diện (nếu có); (2) Ngành, nghề kinh doanh; (3) Vốn Điều lệ; tổng số cổ
phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ phần đối với CTCP; (4) Họ, tên, địa
chỉ, quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của các thành viên hợp danh đối với
CTHD; của chủ sở hữu công ty, thành viên đối với CTTNHH; của cổ đông sáng
lập đối với CTCP; phần vốn góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên đối với
CTTNHH và CTHD; số cổ phần, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần từng loại của
cổ đông sáng lập; (5) Quyền và nghĩa vụ của thành viên đối với CTTNHH,
CTHD; của cổ đông đối với CTCP; (6) Cơ cấu tổ chức quản lý; (7) Người đại
diện theo pháp luật đối với CTTNHH, CTCP; (8) Thể thức thông qua quyết định
của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ; (9) Căn cứ và phương
pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng cho người quản lý và Kiểm soát
viên; (10) Những trường hợp thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần
vốn góp đối với CTTNHH hoặc cổ phần đối với CTCP; (11) Nguyên tắc phân
chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh; (12) Các trường hợp giải
thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty; (13) Thể thức sửa đổi, bổ
sung ĐLCT.

Sở dĩ LDN bắt buộc Điều lệ phải có những quy định này vì đây là những
vấn đề cơ bản rất quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp. Thành viên, cổ đông sẽ nhìn vào bản Điều lệ để biết quyền lợi và nghĩa
vụ của mình. Người thứ ba đọc Điều lệ có thể xác định được công ty này hoạt
động ngành nghề gì, đại diện pháp luật là ai, thẩm quyền của công ty được ấn
định ra sao để có thể tin tưởng kí hợp đồng mà không sợ bị sai thẩm quyền.
Người quản lý hay thành viên Ban kiểm soát có thể căn cứ Điều lệ để biết trách
nhiệm, vai trò của mình là gì, mình được đãi ngộ ra sao? Hay nếu muốn trở
19


thành thành viên hoặc cổ đông của công ty, tìm hiểu các vấn đề về chuyển
nhượng phần vốn góp, cổ phần được tiến hành như thế nào thì các thành viên
hoặc cổ đông đều có thể dễ dàng tham chiếu nhanh chóng từ ĐLCT. Hay nói
ngắn gọn, bản ĐLCT chính là nơi các đối tượng có liên quan tìm thấy quyền lợi
và nghĩa vụ của mình12. Vì vậy, để đáp ứng tiêu chí đó thì Điều lệ tối thiểu phải
đảm bảo được những nội dung theo quy định tại Điều 25 LDN 2014.
Thứ tư, ĐLCT khi đăng kí doanh nghiệp phải thể hiện được sự chấp
thuận của tất cả các thành viên sáng lập.
Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp phải có họ, tên và chữ ký của những
người sau đây: Các thành viên hợp danh đối với CTHD; Chủ sở hữu công ty là
cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu công ty là tổ chức đối
với CTTNHH một thành viên; Thành viên là cá nhân và người đại diện theo
pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên là tổ chức đối với
CTTNHH hai thành viên trở lên; cổ đông sáng lập là cá nhân và người đại diện
theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của cổ đông sáng lập là tổ
chức đối với CTCP. Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng, nó thể hiện bản
Điều lệ được xây dựng là hoàn toàn dựa trên ý chí chấp thuận của tất cả những
người sáng lập ra công ty. Sau này khi có bất kì vấn đề gì phát sinh thì các thành
viên hoặc cổ đông cũng không lấy lí do là mình không hay biết về việc soạn

thảo Điều lệ để mà khởi kiện đòi bồi thường hay yêu cầu tuyên bố Điều lệ vô
hiểu.
Thứ năm, khi sửa đổi, bổ sung ĐLCT phải đảm bảo sự nhất trí của
thành viên đã sáng lập ra nó.
Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ phải được sự đồng ý và có họ, tên, chữ kí của
các thành viên sau: Chủ tịch HĐTV đối với CTHD; Chủ sở hữu, người đại diện
theo pháp luật của chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật đối với
CTTNHH một thành viên; Người đại diện theo pháp luật đối với CTTNHH hai
12 ĐLCT và những điều cần lưu ý, Bài viết được đăng tải tại website

/>
20


thành viên trở lên và công ty cổ phần. Bản Điều lệ được xây dựng và thông qua
bởi “cơ quan quyền lực nhất” của công ty đó là ĐHĐCĐ hoặc HĐTV, vì vậy ai
làm cho Điều lệ có hiệu lực thì chính những người đó phải đồng ý xác nhận sự
thay đổi của nó.
Khi thay đổi nội dung Điều lệ thì cần phải được thông qua với tỷ lệ thể hiện
ý chí của đa số cổ đông hoặc thành viên trong công ty tán thành. Và Điều lệ phải
được doanh nghiệp thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cũng như lưu giữ
tại trụ sở chính để mọi cổ đông hoặc thành viên dễ dàng có thể tiếp cận, trích
lục…
1.1.4. Bản chất của Điều lệ công ty
ĐLCT là một văn bản ghi nhận những Điều khoản mà các thành viên hoặc
cổ đông sáng lập đã thỏa thuận, tuy nhiên phạm vi áp dụng của nó thì không chỉ
gói gọn trong phạm vi dành cho các thành viên và cổ đông sáng lập đã thiết lập
ra Điều lệ ban đầu ấy. Chính vì tính chất đặc biệt đó mà việc hiểu đúng bản chất
pháp lý của Điều lệ là một vấn đề vô cùng quan trọng.
ĐLCT trước hết có thể xem là một bản hợp đồng và bản hợp đồng này

không hoàn toàn được thiết lập và kí kết giữa tất cả các bên tham gia 13. Theo quy
định của Bộ luật dân sự thì hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ14. Như vậy, hợp đồng được thiết lập
khi có sự thỏa thuận giữa các bên và thỏa thuận đó phải làm phát sinh những
quyền và nghĩa vụ nhất định. Do đó có thể nhìn nhận Điều lệ như là một hợp
đồng được thỏa thuận giữa các thành viên hoặc cổ đông và nó làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên hoặc cổ đông và giữa thành viên hoặc cổ
đông với công ty. Bộ luật dân sự cũng thừa nhận loại hợp đồng giao kết vì quyền
lợi của bên thứ ba15. Người thứ ba ở đây là khái niệm pháp lý chỉ người không
giao kết hợp đồng, nhưng được hưởng quyền lợi do những người giao kết mang
13Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp các vấn đề pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản dân

trí, trang 230
14 Bộ luật dân sự 2015, Điều 385 về “Khái niệm hợp đồng dân sự”

21


lại cho mình16. Vì vậy mặc dù các bên thứ ba không tham gia kí kết vào Điều lệ
nhưng Điều lệ vẫn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ khi các bên xác lập và thực
hiện giao dịch với công ty cũng như là cơ sở để xác định hậu quả pháp lí và bồi
thường khi có thiệt hại xảy ra. Hay nói đúng hơn trong mối quan hệ giữa công ty
và bên thứ ba, Điều lệ có tính chất như một hợp đồng ủy quyền. Điều lệ là căn
cứ để xác định ai là người đại diện theo pháp luật để được ủy quyền xác lập,
thực hiện hợp đồng hoặc giao dịch với bên thứ ba. Điều lệ cũng là cơ sở ghi
nhận những quy định về việc cho phép chi nhánh hoặc văn phòng đại diện hành
động như đại diện ủy quyền của công ty trong thực hiện một số hoặc toàn bộ
chức năng của công ty hoặc bảo vệ lợi ích của công ty.
Điều lệ điều chỉnh mối quan hệ giữa ba nhóm đối tượng cơ bản đó là (1)
thành viên hoặc cổ đông, (2) công ty và (3) các bên thứ ba. Thế nhưng bản Điều

lệ ban đầu được ký kết và thiết lập lại không có mặt tất cả ba nhóm đối tượng
trên. Bản Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp được ký bởi thành viên hợp danh
của CTHD, Chủ sở hữu công ty hoặc các thành viên đầu tiên của CTNHHH, cổ
đông sáng lập của CTCP. Cổ đông không phải là cổ đông sáng lập không cần
phải kí vào Điều lệ tại thời điểm công ty thành lập. Các thành viên hoặc cổ đông
tham gia vào công ty sau thời điểm công ty thành lập không cần kí vào ĐLCT
nhưng vẫn phải chấp hành Điều lệ và được hưởng các quyền và nghĩa vụ như
các thành viên hoặc cổ đông khác. Các bên thứ ba cũng không phải là một bên
tham gia thỏa thuận và kí kết Điều lệ với công ty. Thế nhưng Điều lệ lại là cơ sở
áp dụng điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên hoặc cổ đông, công ty và bên
thứ ba.

15 Theo quy định tại Khoản 5 Điều 402 Bộ luật dân sự 2005 thì loại Hợp đồng vì lợi ích của người thứ

ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng
lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Theo như hợp đồng này thì các bên giao kết đều phải thực hiện
nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó.
16 Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội (2013)

22


Chính vì những biện luận đó mà có thể nhận xét rằng ĐLCT có bản chất là
một loại “hợp đồng đặc biệt” được xác lập trên cơ sở các quy định của pháp luật
phát sinh không hoàn toàn dựa trên ý chí của công ty, các thành viên hoặc cổ
đông cũng như bên thứ ba nhưng lại có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên.
Sự đặc biệt này còn thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ. Đối với
hợp đồng thông thường thì việc sửa đổi hợp đồng phần lớn cần phải có sự đồng
ý của tất cả các bên kí kết. Đối với loại hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì
khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện,

các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ
trường hợp được người thứ ba đồng ý. Thế nhưng, với Điều lệ, việc sửa đổi
không yêu cầu phải có sự xác nhận của tất cả các bên hay sự đồng ý của bên thứ
ba nào mà chỉ cần có chữ kí của Chủ tịch HĐTV đối với CTHD; Chủ sở hữu,
người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật
đối với CTTNHH một thành viên; Người đại diện theo pháp luật đối với
CTTNHH hai thành viên trở lên và CTCP.
1.2. Một số quy định về Điều lệ công ty theo pháp luật Việt Nam
1.2.1. Một số quy định bắt buộc trong Điều lệ công ty
theo pháp luật Việt Nam
Là tài liệu nội bộ cơ bản và quan trọng trong điều chỉnh việc thành lập, tổ
chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải thể công ty; pháp luật cho phép các
doanh nghiệp được phép xây dựng Điều lệ trên nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa
thuận. Tuy nhiên, nội dung của Điều lệ phải được thiết lập trên cơ sở của LDN
chứ không được phép tùy nghi, duy ý chí. Ngoại trừ doanh nghiệp tư nhân,
CTHD, CTTNHH, CTCP đều phải có ĐLCT.
Các công ty khi muốn được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp thì
phải nộp dự thảo Điều lệ cho cơ quan đăng kí kinh doanh. Các công ty có thể
tham khảo Điều lệ mẫu tại cơ quan đăng kí kinh doanh để làm căn cứ khi soạn
thảo. Đối với công ty đại chúng thì Điều lệ phải được xây dựng trên cơ sở “tham

23


chiếu” Điều lệ mẫu của công ty đại chúng và không được trái với các quy định
của LDN. Trong một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cơ quan quản lý
nhà nước có thể ban hành các Điều lệ mẫu riêng biệt đối với từng ngành nghề để
áp dụng cho các công ty hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh có điều
kiện trên17. Vì thế, khi muốn xây dựng Điều lệ, công ty cần tìm hiểu và xem xét
kĩ lưỡng những quy định của LDN cũng như những Điều lệ mẫu áp dụng cho

từng loại hình doanh nghiệp hay trong một ngành nghề kinh doanh đặc thù.
LDN 2014 quy định mười ba nội dung bắt buộc với một bản ĐLCT bao gồm:
Tên và địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh và văn phòng đại diện
Tên công ty là nội dung bắt buộc và quan trọng đầu tiên mà LDN yêu cầu
ĐLCT phải quy định. Khi nộp dự thảo Điều lệ trong hồ sơ đăng kí kinh doanh,
thành viên hoặc cổ đông sáng lập cần nêu rõ tên công ty. Tên mà công ty lựa
chọn đặt không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của công ty đã đăng kí
trước trên phạm vi cả nước. Trước khi đăng ký tên doanh nghiệp, doanh nghiệp
có thể tham khảo tên các doanh nghiệp đã đăng ký trong Cơ sở dữ liệu quốc gia
về đăng ký doanh nghiệp.
Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc của doanh nghiệp trên
lãnh thổ Việt Nam. Do vậy địa chỉ trụ sở chính được quy định trong Điều lệ phải
trùng khớp với địa chỉ được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng kí doanh
nghiệp và địa chỉ trên thực tế. Có như vậy thì mới thuận tiện cho các đối tác giao
dịch kinh doanh, trao đổi giấy tờ hoặc tống đạt các tài liệu tố tụng, tài liệu của
cơ quan quản lý nhà nước.
Chi nhánh và văn phòng đại diện. Tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đều có quyền thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện. Chi nhánh được
thực hiện các hoạt động có mục đích sinh lời trong phạm vi những ngành, nghề
mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, không phải bất cứ ngành,
nghề nào được đăng ký bởi doanh nghiệp, chi nhánh cũng được phép hoạt động.
17 Ví dụ, Bộ tài chính ban hành mẫu Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán theo Thông tư số

227/2012/TT-BTC ngày 27 tháng 12 năm 2012 của Bộ tài chính hướng dẫn thành lập, tổ chức hoạt
động và quản lý công ty đầu tư chứng khoán.

24


Việc chi nhánh được thực hiện toàn bộ hay chỉ một phần chức năng là tùy theo

sự ủy quyền của doanh nghiệp. Còn Văn phòng đại diện là đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp theo uỷ quyền và bảo vệ các quyền và lợi
ích đó. Ngoài ra, văn phòng đại diện không được thực hiện các hoạt động kinh
doanh sinh lời nào khác. Vì vậy, Điều lệ cần liệt kê tất cả các chi nhánh và văn
phòng đại diện hiện tại của công ty. Điều lệ còn cần quy định chi tiết thêm về
ngành nghề cho phép chi nhánh hoạt động để làm cơ sở pháp lý đáng “tin cậy”
nhất cho đối tác và cơ quan quản lý. Nếu công ty có dự định thành lập chi nhánh
và văn phòng đại diện trong tương lại thì cũng nên có điều khoản dự trù cho
trường hợp này.
Ngành nghề kinh doanh
Ngành nghề kinh doanh được công ty đăng kí trong hồ sơ đăng kí doanh
nghiệp và được ghi nhận tại cổng thông tin quốc gia về đăng kí doanh nghiệp.
Điều lệ bắt buộc phải quy định đúng và rõ ràng về ngành nghề kinh doanh cũng
như là mô tả chi tiết về hoạt động của công ty đối với ngành nghề đã đăng kí.
Pháp luật cũng cho phép Điều lệ được phép quy định thêm về việc doanh nghiệp
có thể thực hiện hoạt động khác mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, đây vẫn
còn là một quy định bị bỏ ngõ và không có giá trị pháp lý trên thực tế.
Vốn điều lệ; tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ
phần
Điều lệ điều chỉnh vấn đề nội bộ trong công ty, điều hòa lợi ích giữa các
nhóm đối tượng thành viên hoặc cổ đông với nhau và với công ty. Do đó, các
quy định về vốn Điều lệ trong CTTNHH và CTCP là những quy định quan trọng
không thể thiếu. Riêng đối CTCP thì Điều lệ còn cần phải quy định công khai,
minh bạch về tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ phần.
Đầu tiên, về vốn điều lệ, thì việc ghi nhận mức vốn điều lệ là bao nhiêu tại
thời điểm thành lập công ty trong Điều lệ là một vấn đề hết sức cần thiết và ảnh
hưởng đến trách nhiệm của các thành viên hoặc cổ đông. Vốn điều lệ tại thời
điểm đăng kí doanh nghiệp là tổng giá trị tài sản do chủ sỡ hữu cam kết góp

25



×