Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nợ xấu, rủi ro đạo đức và điều tiết của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đỗ Công Huân

NỢ XẤU, RỦI RO ĐẠO ĐỨC VÀ ĐIỀU TIẾT CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đỗ Công Huân

NỢ XẤU, RỦI RO ĐẠO ĐỨC VÀ ĐIỀU TIẾT CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG

Tp. Hồ Chí Minh - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Nợ xấu, rủi ro đạo đức và điều tiết của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam” là công trình do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Thị Ngọc Trang.
Ngoài những tài liệu tham khảo đã được trích dẫn trong luận văn, tôi đảm bảo
các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn độc lập không sao chép từ bất kỳ
một công trình nào khác.
TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2017
Tác giả

Đỗ Công Huân


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC VIẾT TẮT
CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU ....................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu................................................................................2
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................2
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................3
1.6. Kết cấu của luận văn .............................................................................3
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN
CỨU ............................................................................................................................4

2.1 Nền tảng lý thuyết nghiên cứu...............................................................4
2.1.1 Khái niệm về nợ xấu của các Ngân hàng thương mại .......................4
2.1.2 Rủi ro đạo đức ...................................................................................6
2.1.3 Hệ thống ngân hàng thương mại và các quy định .............................7
2.2 Tổng quan các nghiên cứu trƣớc đó có liên quan tới bài nghiên cứu
...............................................................................................................................10
2.2.1 Các nghiên cứu trên thế giới ...........................................................10
2.2.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam ..........................................................12


CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
...................................................................................................................................15
3.1 Phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................................15
3.2 Dữ liệu nghiên cứu................................................................................15
3.3 Mô hình nghiên cứu .............................................................................16
3.3.1 Biến nghiên cứu...............................................................................16
3.3.2 Giả thuyết nghiên cứu .....................................................................17
3.3.3 Mô hình hồi quy ..............................................................................19
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢI THÍCH CÁC NHÂN
TỐ ẢNH HƢỞNG ...................................................................................................24
4.1 Thống kê mô tả .....................................................................................24
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến ..........................................................25
4.2 Kết quả thực nghiệm ............................................................................25
4.2.1 Ƣớc tính ngƣỡng ............................................................................27
Bảng 4.2 (a): Ước tính ngưỡng nợ xấu (1 ngưỡng)..................................27
Bảng 4.2 (b): Ước tính ngưỡng nợ xấu (2 ngưỡng) .................................28
Bảng 4.2 (c): Ước tính ngưỡng nợ xấu (3 ngưỡng)..................................29
Hình 4.1. Xây dựng khoảng tin cậy và “miền bác bỏ” (Tỷ số NPLs) ......30
4.2.2 Kết quả hồi quy..............................................................................30
Bảng 4.3: Phân loại các ngân hàng theo giá trị ngưỡng (tỷ lệ NPLs) ......31

Bảng 4.4: Kết quả hồi quy với tỷ số NPLs là ngưỡng .............................33
Bảng 4.5: Ước tính hiệu ứng ngưỡng của CAR .......................................35
Hình 4.2. Xây dựng khoảng tin cậy và “miền bác bỏ” (CAR) .................36
Bảng 4.6: Phân loại các ngân hàng theo giá trị ngưỡng (CAR) ...............36


Bảng 4.7: Kết quả hồi quy với CAR là ngưỡng .......................................37
Bảng 4.8: Sắp xếp ngân hàng theo 2 tiêu chí đo lường (CAR & NPL) ...38
4.3 Thảo luận các nhân tố ảnh hƣởng đến nợ xấu ..................................39
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH .............................40
5.1 Kết luận .................................................................................................40
5.2 Khuyến nghị ..........................................................................................41
5.3 Hạn chế của đề tài ................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1 Thống kê mô tả
Bảng 4.2 (a) Ước tính ngưỡng nợ xấu (1 ngưỡng)
Bảng 4.2 (b) Ước tính ngưỡng nợ xấu (2 ngưỡng)
Bảng 4.2 (c) Ước tính ngưỡng nợ xấu (3 ngưỡng)
Bảng 4.3 Phân loại các ngân hàng theo giá trị ngưỡng (tỷ lệ NPLs)
Bảng 4.4 Kết quả hồi quy với tỷ số NPLs là ngưỡng
Bảng 4.5 Ước tính hiệu ứng ngưỡng của CAR
Bảng 4.6 Phân loại các ngân hàng theo giá trị ngưỡng (CAR)
Bảng 4.7 Kết quả hồi quy với CAR là ngưỡng
Bảng 4.8 Sắp xếp các ngân hàng theo hai tiêu chí đo lường (NPL và CAR)



DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1 Xây dựng khoảng tin cậy và “miền bác bỏ” (Tỷ số NPLs)
Hình 4.2 Xây dựng khoảng tin cậy và “miền bác bỏ” (CAR)


DANH MỤC VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
BCBS – Basel Committee on Banking Supervison
IMF – International Moneytary Fund
IAS – International Acounting Standards
NPL – Non-performing loans: Nợ xấu
LGR – Loan growth rate: Tốc độ tăng trưởng tín dụng
DGR – Deposite growth rate: Tốc độ tăng trưởng tiền gửi
ER – Equipty ratio: Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
CAR – Capital Adequacy Ratio: Hệ số an toàn vốn


1

CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Thị trường tài chính là huyết mạch của nền kinh tế, trong đó kênh dẫn quan
trọng là hệ thống ngân hàng thương mại trong nước. Nền kinh tế có phát triển bền
vững lành mạnh hay không một phần rất quan trọng là sự phát triển lành mạnh của
hệ thống ngân hàng. Trong những năm gần đây vấn đề nợ xấu, rủi ro đạo đức của
ngân hàng đang nổi lên là vấn đề nhức nhối có ảnh hưởng tới sự phát triển của toàn
bộ ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng giai
đoạn từ 2009 đến 2016 là khá cao cụ thể năm 2009 là 2,5%, năm 2010 là 3%, năm
2011 là 3,3 %, năm 2012 tăng lên 4,08% và cuối năm 2016 về mức 2,46%. Mặt
khác vấn đề rủi ro đạo đức giai đoạn này cũng đáng báo động với quy mô và mức

độ ngày càng tăng, những vụ án chiếm đoạt tài sản, cho vay trái quy định gây thất
thoát thiệt hại cho nền kinh tế nhiều ngàn tỷ. Các ngân hàng thương mại hoạt động
bị âm vốn “insolvency” bị ngân hàng nhà nước mua lại với giá 0 đồng. Vấn đề điều
tiết của chính phủ cũng diễn ra khá quyết liệt với hàng loạt thông tư, nghị định về
xử lý nợ xấu, quản trị rủi ro. Do đó, nghiên cứu tác động của nợ xấu lên hành vi của
ngân hàng tại Việt Nam là vấn đề vô cùng quan trọng.
Ở Việt Nam gần đây có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề nợ xấu của hệ thống
ngân hàng thương mại tuy nhiên mới chỉ tập trung vào các yếu tố sức khỏe tài chính
nội tại của ngân hàng và nền kinh tế rồi đưa ra những giải pháp mà chưa thấy tập
trung vào yếu tố hành vi của nhà quản trị ngân hàng.
Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn trên, với mong muốn tìm hiểu
đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới nợ xấu, rủi ro đạo đức, sự điều tiết của ngân hàng
trung ương tới hệ thống ngân hàng thương mại nhằm đưa ra các hàm ý chính sách
cho cơ quan quản lý nhà nước, tôi đề xuất nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Nợ xấu,
rủi ro đạo đức và điều tiết của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam”.


2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu nợ xấu tác động như thế nào lên hành vi của
các nhà quản trị ngân hàng.
Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích các nhân tố tác động tới nợ xấu.
- Mức độ ảnh hưởng của nợ xấu lên hành vi nhà quản trị ngân hàng.
- Các công cụ điều tiết của ngân hàng nhà nước.
- Các hàm ý chính sách đối với cơ quan quản lý nhà nước.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Các nhân tố nào tác động đến nợ xấu của ngân hàng?
Liệu nợ xấu có ảnh hưởng đến hành vi của các nhà quản trị ngân hàng?

Chính sách điều tiết như thế nào để hạn chế hành vi chấp nhận rủi ro của các
ngân hàng?
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nợ xấu của các ngân hàng, rủi ro đạo đức, điều tiết của
ngân hàng trung ương.
Phạm vi nghiên cứu: do yêu cầu về dữ liệu của mô hình sử dụng nghiên cứu
và giới hạn về dữ liệu được công bố bởi các ngân hàng nên phạm vi bài nghiên cứu
là 24 ngân hàng thương mại tại Việt Nam hoạt động trong giai đoạn từ 2006 – 2016
(chi tiết xem phụ lục 01).
Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán và báo cáo thường
niên của các ngân hàng.


3

1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng mô hình hồi quy ngưỡng (Panel threshold regression) dựa trên
mô hình của Hansen 1999 để kiểm tra xem hành vi cho vay của các ngân hàng có
liên quan đến việc đạt đến một ngưỡng cụ thể của nợ xấu, và quan trọng hơn, liệu
các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao hơn có xu hướng áp dụng một chiến lược tích cực
cho vay hơn và nhiều rủi ro hơn hay không. Tác giả đưa ra giả thuyết rằng các ngân
hàng có tỷ lệ nợ xấu cao hơn thì nhận nhiều rủi ro hơn để bù đắp các khoản lỗ liên
quan đến nợ xấu và do đó nợ xấu sẽ gia tăng hơn nữa do sự tăng trưởng tín dụng
cao hơn. Ngoài nợ xấu, bài nghiên cứu này cũng xem xét tính hữu ích của tỷ số an
toàn vốn (CAR) là một biện pháp điều tiết thay thế được thúc đẩy bởi những thay
đổi pháp lý lớn gần đây ở Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu được xác định thông qua sử dụng phần mềm Stata 14.
1.6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm 5 chương, đó là:
Chương 1: Giới thiệu

Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp, dữ liệu nghiên cứu và thống kê mô tả
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và giải thích
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách


4

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC
NGHIÊN CỨU
2.1 Nền tảng lý thuyết nghiên cứu
2.1.1 Khái niệm về nợ xấu của các Ngân hàng thƣơng mại
Trên thế giới hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nợ xấu tuy nhiên nợ
xấu “Nonperforming loans” có thể được hiểu là các khoản nợ không thực hiện hoặc
thực hiện thanh toán gốc và lãi trễ so với kỳ hạn được chủ nợ quy định hoặc các
khoản nợ nghi ngờ bị mất vốn hay khả năng thanh toán của khách hàng. Trong đó
một số quan điểm về nợ xấu phổ biến được công nhận và sử dụng rộng rãi đó là:
Theo Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng (BCBS – Basel Committee on
Banking Supervison): Các khoản nợ được xem là không có khả năng chi trả khi
một trong hai hoặc cả hai sự kiện sau xảy ra: (i) Ngân hàng nhận thấy người vay
không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa có bất cứ hành động gì để cố
gắng thu hồi khoản nợ; (ii) Người vay đã quá hạn trả nợ gốc và lãi trên 90 ngày.
(Basel Committee on Banking Supervison, 2002).
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF – International Moneytary Fund): “Nợ
xấu bao gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc 90 ngày hoặc hơn; khi các
khoản lãi suất quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn
theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể nhận
thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả đầy đủ
(người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu cho đến
thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi

khoản thay thế. (IMF’s Compliation Guide on Financial Soundness Indicatiors,
2004).
Theo Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS – International Acounting
Standards): Thường đề cập đến các khoản nợ bị giảm giá trị (Impairred) thay vì sử


5

dụng thuật ngữ nợ xấu (NPL. Chuẩn mực kế toán IAS 39 công bố tháng 12 năm
1999 và sau 2 lần chỉnh sửa (lần 1 vào tháng 12 năm 2000 và lần 2 vào đầu tháng
12 năm 2003) được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005
chỉ ra rằng cần phải có bằng chứng khách quan để xếp hạng một khoản vay có dấu
hiệu bị giảm giá trị. Trong trường hợp nợ bị giảm giá trị thì tài sản được ghi nhận sẽ
bị giảm xuống do những tổn thất chất lượng do nợ xấu gây ra.
Cơ bản IAS 39 chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời
gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp này để đánh giá
khả năng trả nợ của khách hàng và là phương pháp phân tích dòng tiền trong tương
lai hoặc xếp hạng khoản vay. Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết
nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn.
Tại Việt Nam: khái niệm về nợ xấu xuất hiện lần đầu tiên tại quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
ra ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam.
Thông tư 02/2013/TT-NHNN thay thế cho Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN thì nợ xấu là những khoản nợ được phân loại
vào nhóm 3 (Nợ dưới chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng
mất vốn); các nhóm nợ trên có các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở
lên.
Kết luận: Như vậy theo các khái niệm về nợ xấu được nêu ra trên thế giới và
tại Việt Nam thì nợ xấu được xác định căn cứ trên hai yếu tố cơ bản đó là:

(i) Các khoản cho vay quá hạn thanh toán gốc và lãi từ 90 ngày trở lên;
(ii) Nghi ngờ về khả năng thanh toán đầy đủ gốc và lãi khoản vay của khách
hàng đối với khoản cho vay khi đến hạn.
Trong bài nghiên cứu nợ xấu được nhắc đến là tỷ lệ các khoản nợ thuộc nhóm
3, nhóm 4 và nhóm 5 trên tổng dư nợ cho vay.


6

2.1.2 Rủi ro đạo đức
Theo Dembe và Boden (2000) thì thuật ngữ moral hazard (rủi ro đạo đức)
được các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm Anh quốc đặt ra từ thế kỷ 17. Vào thập
niên 1960, các nhà kinh tế học Hoa Kỳ bắt đầu sử dụng thường xuyên thuật ngữ
moral hazard để chỉ tình trạng kém hiệu suất nảy sinh từ loại rủi ro như trên. Sau
này, thuật ngữ moral hazard được sử dụng trong bối cảnh nhấn mạnh các yêu tố tâm
lý hơn.
“Trong kinh tế học, rủi ro đạo đức xuất hiện khi một người chấp nhận nhiều
rủi ro hơn bởi vì một ai khác gánh chịu chi phí cho những rủi ro đó. Rủi ro đạo đức
có thể xuất hiện khi hành động của một bên có thể thay đổi để gây thiệt hại cho
người khác sau khi một giao dịch tài chính đã diễn ra. Một bên quyết định có bao
nhiêu rủi ro để thực hiện, trong khi một bên khác gánh chịu chi phí nếu mọi thứ trở
nên xấu đi, và một bên bị cô lập khỏi rủi ro khác với cách thức mà nó sẽ phải chịu
rủi ro”. (Collins Dictionary of Business: moral hazard. (n.d.) Collins Dictionary of
Business, 3rd ed.. (2002, 2005)).
Các giám đốc ngân hàng có thể có những khuyến khích hay động cơ để thực
hiện cho vay với rủi ro cao hơn so với mức tối ưu. Jensen và Meckling (1976) cho
rằng có hai loại vấn đề rủi ro đạo đức nảy sinh từ hành vi này.
Thứ nhất, đó là việc tìm kiếm đặc lợi của nhà quản lý, thực hiện khi các giám
đốc theo đuổi các lợi ích cá nhân của họ bởi việc đầu tư vào các dự án ưa thích hoặc
thông qua việc kiểm soát không đầy đủ những khoản vay.

Vấn đề rủi ro đạo đức còn lại nảy sinh từ sự mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và
các chủ nợ. Các cổ đông có thể muốn thực hiện những khoản vay rủi ro nhưng cuối
cùng lại chuyển những rủi ro này đến những người gửi tiền.
Lý thuyết Jensen và Meckling (1976) hàm ý rằng cả hai vấn đề rủi ro đạo đức
trên đều dẫn đến tốc độ tăng trưởng nợ vay (tín dụng) cao hơn và một lượng lớn các
khoản nợ xấu.


7

Dĩ nhiên, rủi ro đạo đức không quan sát trực tiếp được nhưng có thể được suy
ra từ việc quan sát hành vi của ngân hàng. Như đã được nhấn mạnh ở trên, một
trong những lý do chính của vấn đề rủi ro đạo đức là chấp nhận rủi ro quá mức
trong cho vay.
2.1.3 Hệ thống ngân hàng thƣơng mại và các quy định
Trước năm 1975 Việt Nam tồn tại hai ngân hàng trung ương một ở Miền Bắc
xã hội chủ nghĩa (Ngân hàng Quốc gia Việt Nam sau đổi thành Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam) và một ở Miền Nam cộng hòa (Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
cộng hòa).
Thời kỳ 1975-1985 là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế độ cũ ở
miền Nam; thu hồi tiền cũ ở cả hai miền Nam- Bắc; phát hành các loại tiền mới của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân
hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực
hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Giai đoạn 1986 1990 đứng trước thực trạng khó khăn trì trệ trong kinh tế và hệ thống tài chính cả
nước hệ thống ngân hàng đã bắt đầu có những cải cách đầu tiên, làm tiền đề cho
việc hình thành và phát triển một hệ thống Ngân hàng Việt Nam một cách căn bản
và toàn diện hơn.
Tháng 3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định
hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh. Tháng

5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sự ra
đời của 2 Pháp lệnh ngân hàng đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống
Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Trong đó, cấp 1 là Ngân hàng Nhà
nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và ngân hàng. Và cấp 2 là các ngân hàng kinh doanh thuộc
lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng


8

trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân
hàng thực hiện như ngân hàng cổ phần, liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại
diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, Quỹ tín dụng nhân dân và
công ty tài chính.
Từ năm 1990 đến nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
NHNN tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003), Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010 và các nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN (Nghị định số 88/1998/NĐ-CP ngày
02/11/1998, Nghị định số 52/2003/NĐ-CP ngày 19/5/2003, Nghị định số
96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008, Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013),
làm rõ hơn địa vị pháp lý của NHNN, đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm vụ
của NHNN với tư cách là ngân hàng trung ương, thực hiện các chức năng về quản
lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một ngân hàng trung ương là thực thi
chính sách tiền tệ và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tính đến thời điểm 31/12/2016 Việt Nam có 31 NHTMCP trong nước, 2 NH
chính sách, 4 NHTM Nhà nước, 8 NHTM 100% vốn nước ngoài, 2 NHTM liên
doanh, 1 Ngân hàng hợp tác xã với trên 2.600 chi nhánh và phòng giao dịch trên

khắp 64 tỉnh thành cả nước.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, sau hơn 30 năm chúng ta đã đạt
được nhiều thành tựu, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Hệ thống ngân hàng cũng không nằm ngoài sự phát triển và hội nhập đó,
những quy định và cải cách liên tục phù hợp với thông lệ và quy định quốc tế, tạo
sự an toàn lành mạnh cho hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính đã được đưa ra.
Cụ thể là năm 1998 ban hành hai luật về ngân hàng là bước tiến trong củng cố, hoàn
thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Năm 1999, Ngân hàng Nhà nước ban
hành Quyết định 297/1999/QÐ-NHNN5, quy định CAR là 8%, nhưng phương pháp


9

tính đơn giản và chưa phản ánh chính xác tinh thần Basel I. Năm 2005, Ngân hàng
Nhà nước ban hành Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN, theo đó CAR vẫn là 8%,
nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Basel I. Năm 2010, cơ
quan này ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II. Ngày 20/11/2014,
Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN (có hiệu lực từ
1/2/2015), tạo lập chuẩn mực mới về quản trị, an toàn hoạt động ngân hàng với các
quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn, hạn chế cấp tín dụng; tỷ lệ khả
năng chi trả; tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và
dài hạn; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi.
Việt Nam chưa phải là thành viên của Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng, do
đó không bị ràng buộc bởi thời hạn phải tuân thủ các Hiệp ước Basel. Tuy nhiên,
trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành nhiều văn bản luật
và quy định theo định hướng Basel II.
Đặc biệt, nhằm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam theo các
thông lệ và chuẩn mực quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã xác định lộ trình triển khai
tuân thủ Basel II. Theo đó, kể từ tháng 2/2016, 10 ngân hàng gồm: BIDV,

VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank,
Sacombank và VIB thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu
chuẩn Basel II cho đến cuối năm 2018. Sau giai đoạn này, Basel II sẽ được áp dụng
rộng rãi tại các ngân hàng thương mại còn lại.
Khi hệ thống ngân hàng phát triển thì việc ban hành những quy định càng trở
nên phức tạp hơn. Sự quản lý kém và việc chấp nhận rủi ro quá mức có thể gây ra
sự bất ổn nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng và góp phần vào việc gia tăng
khủng hoảng kinh tế. Sự xung đột lợi ích và rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân
hàng đang là mối đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam.


10

2.2 Tổng quan các nghiên cứu trƣớc đó có liên quan tới bài nghiên cứu
2.2.1 Các nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều bài nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm liên
quan tới nợ xấu, rủi ro đạo đức và điều tiết hệ thống ngân hàng thương mại và mối
quan hệ giữa chúng.
Về mối liên hệ giữa tăng trưởng tín dụng và nợ xấu đa phần các nghiên cứu
cho thấy sự tăng trưởng tín dụng có tác động tích cực (cùng chiều và ngược chiều)
tới tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng trong giai đoạn sau đó. Nổi bật trong số các nghiên
cứu đó là của Foos et al. (2010) tác giả gợi ý rằng sự tăng trưởng tín dụng đại diện
cho một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng. Qua việc nghiên
cứu hơn 10.000 ngân hàng ở Mỹ, Canada, Nhật và Châu Âu trong suốt giai đoạn
1997-2007, Foos et al cho rằng sự tăng trưởng tín dụng (Loan growth) dẫn đến môt
sự gia tăng các khoản lỗ (Losses) từ cho vay trong suốt ba năm liên tiếp sau đó, gây
nên một sự sụt giảm trong cả thu nhập từ lãi và tỷ lệ vốn.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng, nợ xấu và chấp
nhận rủi ro của các ngân hàng, đồng thời xem xét vấn đề rủi ro đạo đức, các nghiên

cứu cho thấy:
Cấu trúc sở hữu cổ phần của ngân hàng có ảnh hưởng tích cực đến hành vi
chấp nhận hay e ngại rủi ro của ngân hàng: nếu cổ đông sở hữu ngân hàng thì sẽ
chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong hoạt động so với nhà quản lý sở hữu ngân hàng.
Demirguc-Kunt (1989), Barr et al. (1994), Gorton and Rosen (1995),
Berger and Udell (1994) and Shrieves and Dahl (2003) đã nghiên cứu sâu hơn về
mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng, nợ xấu và sự chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng. Phần lớn trong bài nghiên cứu cũng xem xét về vấn đề rủi ro đạo đức, hành vi
chấp nhận rủi ro của các ngân hàng trong khuôn khổ cấu trúc sở hữu cổ phần. Cụ
thể: Saunder et al. (1990) phát hiện rằng cổ đông kiểm soát các ngân hàng thì có
khuynh hướng thực hiện nhiều rủi ro hơn so với những nhà quản lý kiểm soát ngân


11

hàng. Demsert and Strahan (1997) tìm thấy về mối quan hệ dương và không tuyến
tính giữa các thước đo rủi ro thị trường và mức sở hữu của nhà quản lý (cổ phần
thuộc nhà quản lý). Jia (2009) cho thấy hoạt động cho vay bởi các ngân hàng cổ
phần thì thận trọng hơn so với hoạt động cho vay bởi các ngân hàng thuộc sở hữu
nhà nước ở Trung Quốc. Zhou (2014) cho thấy sự đa dạng hóa trong cấu trúc thu
nhập của các ngân hàng Trung Quốc giúp giảm thiểu không đáng kể tổng rủi ro của
ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu của giai đoạn trước đó có ảnh hưởng tích cực lên hành vi trong
giai đoạn tiếp theo của nhà quản lý ngân hàng, nếu tỷ lệ nợ xấu cao thì nhà quản lý
thận trọng có xu hướng hạn chế những hoạt động mang nhiều rủi ro trong khi với
những nhà quản lý khác lại là một động cơ để thúc đẩy việc cho vay nhiều rủi ro
hơn để giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu.
Bernanke và Gertler (1986) chỉ ra rằng những khoản nợ xấu có thể đưa đến
các hành vi khác nhau của các ngân hàng dưa theo sự ưa thích hay khẩu vị rủi ro
của họ. Các ngân hàng thận trọng thường có xu hướng cẩn trọng hơn khi họ đối mặt

với mức độ gia tăng của các khoản nợ xấu. Tuy nhiên khi tỷ lệ nợ xấu quá cao, cả
cổ đông và các nhà quản lý ngân hàng đều có sự khuyến khích rõ ràng để dịch
chuyển các rủi ro. Eisdofer (2008) cho rằng các doanh nghiệp trong tình trạng kiệt
quê tài chính sẽ có hành vi chuyển dịch rủi ro nhiều hơn. Xem xét các ngân hàng ở
Mỹ, Koudstaal và Wijinbergen (2012) tìm thấy danh mục cho vay có càng nhiều
vấn đề thì càng thúc đẩy các ngân hàng chấp nhận rủi ro cao. Bruche và Llobet
(2011) tranh luận khi các ngân hàng đối mặt với mối đe dọa phá sản, họ có xu
hướng đảo nợ xấu để gia tăng khả năng thu hồi.
Quy mô của ngân hàng cũng có ảnh hưởng tới nợ xấu và rủi ro đạo đức của
nhà quản lý, cụ thể khi các ngân hàng lớn thường có xu hướng tăng cường cho vay
dựa trên vị thế thị trường của mình. Tâm lý “quá lớn để sụp đổ” làm cho ngân hàng
có xu hướng chấp nhận thêm rủi ro bởi kỳ vọng được cứu trợ trong trường hợp mất
khả năng thanh toán.


12

Thái độ của ban lãnh đạo cũng quan trọng. Boyd và Graham (1998), Nier và
Baumann (2006) tranh luận rằng khi các ngân hàng cảm thấy “quá lớn để sụp đổ”
nhờ vào sức mạnh thị trường lớn của họ hoặc là kỳ vọng được cứu trợ trong trường
hợp mất khả năng thanh toán, thì vấn đề rủi ro đạo đức càng trở nên rõ rệt.
Soedarmono và Tarazi (2015) cho thấy rằng sức mạnh thị trường càng lớn trong
ngành ngân hàng có thể ngay lập tức dẫn đến sự không ổn định hơn trong hệ thống
ngân hàng ở các quốc gia Châu Á Thái Bình Dương. Kim et al. (2015) cũng cho
thấy rằng gia tăng trong sức mạnh thị trường của các ngân hàng lớn gây nên sự bất
ổn tài chính của các ngân hàng nhỏ ở các nền kinh tế Châu Á.
Bằng chứng từ các nghiên cứu trên chỉ ra mức độ nợ xấu (NPLs) có thể là một
yếu tố quan trọng quyết định hành vi của các ngân hàng đưa đến việc họ có những
hành vi khác nhau khi đối mặt với nợ xấu cao hơn mức chuẩn. Tác giả tin rằng mức
độ của nợ xấu có thể hữu ích trong việc xác định sự hiện diện của rủi ro đạo đức

trong ngành ngân hàng. Do vậy, bài nghiên cứu này xác định hành vi cho vay có rủi
ro và rủi ro đạo đức với điều kiện trên một mức ngưỡng của nợ xấu mà các ngân
hàng phải đối mặt.
2.2.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam vấn đề nợ xấu được nghiên cứu khá nhiều trong những năm gần
đây, tuy nhiên các bài nghiên cứu đa phần tập trung vào hai nhóm nhân tố chính tác
động tới nợ xấu của ngân hàng đó là: nhóm nhân tố vi mô (ROE, Tốc độ tăng
trưởng tín dụng, Quy mô ngân hàng, Tỷ lệ dự phòng rủi ro…) và nhóm nhân tố vĩ
mô (GDP, Tỷ lệ thất nghiệm, Lạm phát…) cụ thể như sau:
Nhóm nhân tố vi mô các nghiên cứu cho thấy Tốc độ tăng trưởng tín dụng có
mối tương quan âm với tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Ví dụ bằng việc nghiên cứu 9
NHTM niêm yết trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2006-2015 Phạm Thị Mỹ An.
(2016) sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS. Trong 10 biến của mô
hình tác giả đã đi đến kết luận khi các ngân hàng tăng cường cho vay làm tỷ lệ nợ


13

xấu giảm xuống. Kết luận tương tự cũng được đưa ra bởi Đoàn Thị Thanh Thủy
(2015) khi nghiên cứu 23 NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2014.
Quy mô ngân hàng có tương quan âm với tỷ lệ nợ xấu các nghiên cứu cho thấy
các ngân hàng có quy mô càng lớn thì độ vững mạnh tài chính càng cao, quy trình
kiểm soát cũng khá chặt chẽ nên làm giảm tỷ lệ nợ xấu. Điều này được tìm thấy
trong nghiên cứu của Phạm Thị Mỹ An. (2016).
Rủi ro đạo đức có tương quan dương đối với tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng, khi
mức độ quản lý của chủ sở hữu ngân hàng đối với các nhà quản trị giảm xuống thì
tỷ lệ nợ xấu trung bình sẽ tăng lên tương ứng. Điều này được thể hiện trong nghiên
cứu của Võ Thanh Bình. (2015) khi nghiên cứu 18 NHTM Việt Nam giai đoạn
2006-2014.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng có mối tương quan dương đối với nợ xấu của

ngân hàng, các nghiên cứu cho thấy khi ngân hàng có xu hướng tăng tỷ lệ dự phòng
rủi ro tín dụng của mình lên chứng tỏ họ nhận thấy nguy cơ hiện hữu hoặc tiềm tàng
của khả năng dẫn tới nợ xấu trong khoản cho vay của mình. Các nghiên cứu của
Phạm Thị Mỹ An. (2016), Nguyễn Thị Hồng Hà. (2016), Đoàn Thị Thanh Thủy.
(2015) đã đưa ra những kết luận tương đồng về mối tương quan này. Ví dụ sử dụng
mô hình tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM) để nghiên cứu các
yếu tố vĩ mô và vi mô tác động đến nợ xấu trên dữ liệu bảng của 23 NHTM Việt
Nam trong giai đoạn 2006 – 2014. Kết quả nghiên cứu của Đoàn Thị Thanh Thủy.
(2015) cho thấy quy mô ngân hàng, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng có mối tương
quan dương với tỷ lệ nợ xấu ngân hàng.
Đối với nhóm nhân tố vĩ mô có tác động tới tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cho
thấy tốc độ tăng trưởng GDP có mối tương quan âm đối với tỷ lệ nợ xấu, khi nền
kinh tế tăng trưởng càng cao thì tỷ lệ nợ xấu của các NHTM càng thấp. Điều này
được tìm thấy trong nghiên cứu của Phạm Thị Mỹ An. (2016), Nguyễn Thị Hồng
Hà. (2016).


14

Tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát có mối tương quan âm đối với nợ xấu của
NHTM khi thất nghiệp và lạm phát ở mức cao thì nợ xấu của ngân hàng gia tăng
với tỷ lệ nhất định. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hà. (2016), Đoàn Thị Thanh
Thủy. (2015) cho kết luận tương đồng.
Kết luận: Các nghiên cứu tại Việt Nam đến thời điểm hiện tại mới chỉ tập
trung vào phân tích các nhân tố vi mô thuộc về chỉ số sức khỏe tài chính của ngân
hàng, nhân tố vĩ mô thuộc về sức khỏe nền kinh tế mà chưa tập trung phân tích vào
mối quan hệ giữa hành vi nhà quản trị tác động đến nợ xấu như thế nào.
Mặt khác các bài nghiên cứu trước đó phần lớn sử dụng mô hình hồi quy bình
phương bé nhất OLS với tác động cố định và tác động thay đổi để xác định các
nhân tố có tác động tới tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Do đó, đóng góp của bài nghiên

cứu này tác giả sử dụng mô hình hồi quy ngưỡng trên dữ liệu bảng cân bằng để tập
trung vào phân tích hành vi của nhà quản trị ngân hàng trên ngưỡng nợ giai đoạn
trước có tác động như thế nào đến nợ xấu.


15

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN
CỨU
3.1 Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy ngưỡng dựa trên dữ liệu bảng để xác
định các vấn đề rủi ro đạo đức. Dữ liệu bảng được kết hợp từ thành phần dữ liệu
chéo và thành phần dữ liệu theo chỗi thời gian. Mô hình hồi quy ngưỡng được thiết
kế để chia các quan sát riêng lẻ vào các trạng thái (regimes) với điều kiện là giá trị
của một biến được xác định trước (biến ngưỡng). Mô hình hồi quy sử dụng trong
bài nghiên cứu dựa trên mô hình của Hansen (1999).
Các bƣớc chi tiết của nghiên cứu
Bước 1: Xác định bài toán nghiên cứu và hình thành giả thiết nghiên cứu
Bước 2: Thu thập dữ liệu
Bước 3: Xác định các biến
Bươc 4: Đề xuất mô hình hồi quy và chạy thực nghiệm
Bước 5: Thảo luận kết quả và đưa ra kết luận cho bài nghiên cứu
3.2 Dữ liệu nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu về nợ xấu, rủi ro đạo đức và điều tiết của hệ thống
NHTM từ năm 2006 đến năm 2016, các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu phải có
dữ liệu từ năm 2006 đến năm 2016. Vì mô hình hồi quy ngưỡng của Hansen (1999)
yêu cầu một bảng cân đối (balanced panel) nên tác giả đã phải bỏ đi một số ngân
hàng và quan sát từ mẫu. Bài nghiên cứu chỉ lựa chọn các ngân hàng thương mại
nội địa mà không lựa chọn ngân hàng thương mại nước ngoài hay liên doanh. Ngoài
ra các ngân hàng mà thiếu dữ liệu quan sát trong suốt giai đoạn 2006 – 2016 cũng bị

loại ra khỏi mẫu nghiên cứu. Cuối cùng bài nghiên cứu bao gồm mẫu quan sát là
một dữ liệu bảng bao gồm 24 ngân hàng thương mại cổ phần trong nước giai đoạn
từ 2006 – 2016 với 4 NHTM nhà nước và 20 NHTMCP với 264 quan sát. Mặc dù


16

phải bỏ đi một số tương đối các ngân hàng, tuy nhiên mẫu nghiên cứu vẫn đại diện
cho một phần quan trọng tỷ lệ tổng tài sản và tỷ lệ vốn hóa của các ngân hàng trên
toàn bộ thị trường Việt Nam nằm trong khoảng từ 70% đến 75%.
Dữ liệu được thu thập trên báo cáo tài chính của các ngân hàng. Danh sách và
giá trị tính các biến của các công ty trong mẫu nghiên cứu được nêu trong phần phụ
lục.
3.3 Mô hình nghiên cứu
3.3.1 Biến nghiên cứu
Căn cứ mục tiêu nghiên cứu của bài đặt ra, các biến và cách thức đo lường
biến trong bài nghiên cứu này dựa trên các lý thuyết và kết quả nghiên cứu thực
nghiệm về nợ xấu, rủi ro đạo đức và điều tiết của hệ thống NHTM được nêu ra
trong chương 2. Bài nghiên cứu này dựa vào nghiên cứu của Dayong Zhang et al.
(2014) về các NHTM niêm yết trên TTCK Trung Quốc. Zhang et al nghiên cứu tác
động của nợ xấu lên hành vi của 60 NHTM thành phố, 16 NHTM nhà nước và 11
NHTM nông thôn tại Trung Quốc giai đoạn 2006 – 2012. Theo đó, biến phụ thuộc
là tỷ lệ nợ xấu (nợ nhóm 3, 4, 5 trên tổng dư nợ) các biến giải thích bao gồm tốc độ
tăng trưởng tín dụng (LGR), tốc độ tăng trưởng tiền gửi (DGR), tỷ số vốn chủ sở
hữu (ER), hệ số an toàn vốn (CAR), quy mô ngân hàng (SIZE).
Biến phụ thuộc: Bài nghiên cứu sử dụng biến đo lường nợ xấu đó là
- Tỷ lệ nợ xấu (NPL): Tỷ lệ giữa giá trị nợ nhóm 3, 4, 5 trên giá trị tổng dư nợ:
(Nợ nhóm 3 + nhóm 4 + nhóm 5)/ Tổng dư nợ
Biến kiểm soát:
Các biến giải thích trong bài bao gồm:

- Tốc độ tăng trưởng tín dụng (LGR): Được tính bằng tỷ lệ giữa tổng dư nợ tín
dụng năm t trừ tổng dư nợ tín dụng năm t-1 trên tổng dư nợ tín dụng năm t-1:
(Total Loant – Total Loant-1)/Total Loant-1


×