A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Triết học là môn học rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông tại
Pháp, tất cả học sinh dù bất kì chuyên ban nào cũng bắt buộc học và thi môn học này.
Trong chương trình trung học phổ thông ( THPT) tại Việt Nam kiến thức nền tảng đầu
tiên về Triết học Mác-Lênin được giảng dạy lồng trong môn Giáo dục công dân (GDCD)
10 cụ thể là phần I “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học” với mục tiêu trang bị cho học sinh khả năng tư duy độc lập, khả năng vân
dụng kiến thức triết học vào cuộc sống, là một trong những động lực thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực của đất nước.
Tuy nhiên, kiến thức triết học lại mang tính khái quát, trừu tượng nên quá trình tiếp thu
của học sinh gặp khó khăn. Nhiều học sinh không hiểu và không thể diễn đạt được nội
dung kiến thức cơ bản, kết quả học tập, khả năng vận dụng kiến thức chưa tốt, học sinh
không yêu thích môn học. Bản thân là một giáo viên, tôi tìm kiếm, nghiên cứu một số
giải pháp hướng dẫn học sinh tiếp thu một cách hứng thú và có hiệu quả kiến thức triết
học ở môn GDCD lớp10- Phần I.
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta vẫn còn nghèo và lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới, chính vì vậy việc
trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học là cần thiết. Trước hết cần trang bị cho lứa
tuổi học sinh mới chập chững bước vào giai đoạn mới của cuộc đời hay nói đúng hơn là
học sinh lớp 10 một thế giới quan khoa học, một nhân sinh quan tiến bộ. Khi học sinh có
thế giới quan khoa học thì mới có cái nhìn đúng đắn về cuộc sống xung quanh, về quá
khứ, hiện tại và tương lai. Thế giới quan khoa học đó có được chỉ khi nào chúng ta trang
bị cho học sinh kiến thức về triết học Mác-Lênin. Triết học Mác-Lê nin là cơ sở khoa học
để lí giải những vấn đề thuộc về thế giới, vị trí của con người trong thế giới đó, giúp học
sinh lớp 10 nói riêng và con người nói chung lí giải những thắc mắc, những tranh cải như
về nguồn gốc ra đời của con người, con người có khả năng chinh phục cải tạo tự nhiên
một cách khoa học và đúng đắn nhất. Tuy nhiên, triết học là môn học mang tính khái quát
cao nên khá trừu tượng. Vì vậy, nếu giáo viên không nắm được đặc thù môn học, không
có cách giảng dạy phù hợp thì sẽ làm cho học sinh chỉ thấy cái khó hiểu, khô khan của
môn học, không thấy cái hay, cái hữu ích của nó nên dẫn đến việc chán học, định kiến với
môn học như: Triết học là những kiến thức “cao siêu huyền bí”, “những thứ dài miên
1
man với những cuốn sách dày cộm” gắn với nó là “các ông giáo sư đầu to mắt cận” nên
không cần thiết. Vậy, làm thế nào để môn học vốn khó khăn với người lớn, trở nên hấp
dẫn và có ý nghĩa với học sinh lớp 10 đó là vấn đề mà nhiều giáo viên giảng dạy môn
GDCD ở THPT suy nghĩ. Qua nhiều năm giảng dạy môn GDCD, đặc biệt là GDCD lớp
10- phần triết học, bản thân tôi đã đúc rút được “ Một số giải pháp hướng dẫn học sinh
tiếp thu một cách hứng thú và có hiệu quả kiến thức triết học môn GDCD lớp 10phần I”, đó là lí do tôi chọn đề tài này.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên sử dụng giải pháp hay, hợp lí, phù hợp nội
dung bài học gần gũi với cuộc sống vừa phù hợp với đối tượng học sinh sẽ có ý nghĩa và
tác động lớn đến việc dạy và học kiến thức triết học GDCD 10- Phần I ở trường THPT
+Thay đổi cách tiếp thu kiến thức của học sinh trong quá trình học tập: Từ lĩnh hội
kiến thức một cách thụ động, một chiều, chuyển sang chủ động tìm hiểu kiến thức và vận
dụng kiến thức để lí giải, giải quyết, xử lí các tình huống, vấn đề trong cuộc sống một
cách khoa học và có hiệu quả cao.
+Phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh trong quá trình học.
+Tạo niềm tin và sự khao khát đối với học sinh trong việc khám phá, tìm hiểu thế
giới khách quan và khả năng vận dụng những kiến thức về triết học lí một cách khoa học,
đúng đắn về thế giới vật chất, đồng thời học sinh bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo.
+ Giáo viên cảm thấy hạnh phúc và nỗ lực hơn trong quá trình giảng dạy khi học
sinh yêu thích môn học do mình phụ trách.
+ Luôn có ý thức trong việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ứng dụng công
nghệ thông tin và tìm kiếm những giải pháp hay, phù hợp với nội dung bài học và đối
tượng học sinh trong quá trình giảng dạy kiến thức phần triết học nói riêng và môn
GDCD nói chung.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
-Thực trạng của việc dạy và học kiến thức triết học GDCD lớp10- Phần I ở trường
THPT hiện nay.
-Giải pháp hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức triết học một cách hứng thú và có
hiệu quả.
2
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lí luận
Giáo dục công dân là môn học không thể thiếu trong chương trình học ở trường
THPT, đặc biệt là GDCD lớp10- Phần triết học. Kiến thức triết học ở chương trình
GDCD lớp10, cung cấp cho học sinh học một thế giới quan khoa học hay nói một cách dễ
hiểu là triết học sẽ giúp các em có cái nhìn, quan niệm đúng đắn về thế giới xung quanh,
về cuộc sống, các hiện tượng trong tự nhiên. Từ đó, các em có nhân sinh quan đúng đắn
để lựa chọn những biện pháp, giải pháp cụ thể để giải quyết, xử lí những tình huống,
những vấn đề trong thực tế một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, triết học Mác- Lênin còn
góp phần hình thành và phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực, trình độ tư duy; hình thành
những giá trị văn hóa, đạo đức, niềm tin của học sinh trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của đất nước. Triết học Mác-Lênin là môn học có nhiều vai trò trong chương
trình giáo dục, nhưng thực tế việc học và dạy của bộ môn này nói chung và kiến thức triết
học GDCD lớp10- Phần I nói riêng ở các trường THPT thực sự chưa hiệu quả.
Theo quan niệm của học sinh, triết học là những kiến thức cao siêu, huyền bí lại
khô khan thậm chí là “vớ vẫn” và “không cần thiết” đối với lứa tuổi của chúng mà chỉ
cần thiết cho các anh chị sinh viên, người làm công tác lãnh đạo, nghiên cứu.
Một số giáo viên chưa thấy tầm quan trọng của triết học đối với học sinh nên chưa
tâm huyết và nhiệt tình trong việc hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức triết học một
cách hiệu quả.
Nội dung kiến thức sách giáo khoa trình bày khó hiểu, mang tính khái quát, ví dụ
minh họa ít, không gần gũi với cuộc sống, tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 10 nên cũng ảnh
hưởng không ít đến hiệu quả học tập của học sinh và kết quả giảng dạy của giáo viên.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo, môn GDCD lớp 10 sẽ có
những kiến thức nền tảng đầu tiên về triết học Mác-Lênin, nhưng làm thế nào để kiến
thức vốn khó đối với các anh chị sinh viên trở thành kiến thức hấp dẫn và có ý nghĩa đối
với các em học sinh lớp 10, không phải là chuyện dễ.
Phần lớn ở các trường THPT giáo viên được đảm nhận công việc giảng dạy môn
học này là giáo viên không chuyên, kiến thức chuyên môn có hạn chế nhất định nên việc
hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức gặp khó khăn.
3
Một số giáo viên đào tạo đúng chuyên ngành thì hời hợt với việc giảng dạy, không
chịu khó nghiên cứu đầu tư bài giảng và nghiên cứu phương pháp dạy học phù hợp với
đối tượng học sinh nên giảng dạy máy móc, lệ thuộc vào sách giáo khoa, xa rời thực tế,
dẫn đến việc học sinh cảm thấy khó hiểu và chán khi tiếp thu kiến thức triết học.
Thiết bị, phương tiện và đồ dùng phục vụ cho công việc giảng dạy và học tập đối
với môn GDCD nói chung và kiến thức triết học nói riêng rất hạn chế.
Bản thân học sinh cũng có định kiến với môn học- đó là môn phụ không quan trọng
nên ít quan tâm, nghiên cứu đầu tư thời gian học, nếu có thì nhằm đối phó với giáo viên.
Xuất phát từ lí luận, thực tiễn của quá trình dạy học, theo tôi để mang lại hiệu quả
và sự hứng thú, say mê đối với học sinh khi tiếp thu kiến thức triết học giáo viên cần:
Hiểu rõ đặc thù của môn học, đặc biệt là kiến thức triết học Mác-Lênin trong môn GDCD
lớp10- Phần I.
Trong quá trình giảng dạy, cần tìm kiếm các giải pháp thiết thực với nội dung kiến
thức bài dạy, đồng thời phải phù hợp với học sinh lớp 10 để việc dạy và học kiến thức
triết học tốt hơn. Nếu các giải pháp đáp ứng yêu cầu trên, chắc chắn việc dạy và học môn
GDCD lớp 10- Phần triết học ở trường THPT có nhiều chuyển biến tích cực. Từ những
mong muốn trên, tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp hướng dẫn học sinh tiếp thu
một cách hứng thú và có hiệu quả kiến thức triết học GDCD lớp 10- phần I".
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
2.1. Biện pháp tiến hành
-Điều tra khảo sát từ quá trình học tập của học sinh ở trường THPT Bình DươngPhù Mỹ- Bình Định.
-Nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực, học hỏi kinh nghiệm dạy học của
đồng nghiệp, bạn bè và những người đi trước.
-Đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn của quá trình giảng dạy môn GDCD ở trường
THPT ( đặc biệt môn GDCD lớp 10).
2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015
4
B. NỘI DUNG
I. MỤC TIÊU
1. Thực trạng
Từ khi triết học ra đời đến nay, thế giới đã có nhiều thay đổi, song nhu cầu về hiểu
biết, say mê tìm tòi, khám phá về quy luật chung của giới tự nhiên, xã hội và con người
vẫn luôn thường trực ở mỗi con người, mỗi dân tộc và quốc gia. Tuy triết học không phải
là “khoa học của mọi khoa học”, cách thức phản ánh thế giới của triết học cũng khác
nhưng vai trò của nó không giảm mà ngược lại ngày càng trở thành công cụ sắc bén để
con người nhận thức và cải tạo thế giới, đúng như Các Mác nói: “Không có Triết học thì
không thể tiến lên phía trước”. Ở nước ta, Triết học Mác- Lênin góp phần tích cực vào
việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo, phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực có hiệu quả trong sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Theo đó, công tác dạy và học triết học ở các trường cao đẳng, đại học nói chung và
ở môn DGCD lớp 10- Phần I nói riêng đã được quan tâm, đổi mới cả về nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy, hình thức kiểm tra đánh giá để đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn đặt ra. Nhưng thực tế của việc dạy và học kiến thức về triết học, đặc biệt là kiến thức
triết học Mác-Lênin GDCD lớp10- phần I chưa thực sự có hiệu quả:
-Học sinh vẫn còn quan niệm triết học là những kiến thức chưa thực sự cần thiết
cho học sinh lớp 10. Nhưng vì nó là kiến thức bắt buộc trong chương trình nên phải học
để đủ điều kiện lên lớp, vì thế học sinh không thấy được cái hay và ý nghĩa của môn học
đối với mình.
-Giáo viên giảng dạy môn GDCD không phải chịu áp lực về chỉ tiêu, thi cử nên an
toàn và dễ dàng là nói và giảng những gì mà được viết trong sách giáo khoa. Từ đó giáo
viên vô tình làm mất dần sự tích cực, tự giác và sáng tạo của người học, khiến tiết học trở
nên nhàm chán và khô khan. Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy kiến thức triết học
giáo viên sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học không phù hợp với nội dung kiến thức.
*Nguyên nhân
Công tác dạy và học môn GDCD lớp10- Phần triết học ở trường THPT chưa tạo
được hứng thú và hiệu quả do nhiều nguyên nhân:
-Chương trình, nội dung SGK hiện hành đặt ra mục tiêu kiến thức quá cao, một số
không phù hợp với năng lực và tâm lí, đối tượng học sinh lớp10. Đặc biệt là kiến thức về
triết học ở lớp 10 mang tính khái quát trừu tượng làm cho học sinh khó hiểu khi đọc sách.
5
Ví dụ minh họa trong sách không phong phú, một số xa rời với cuộc sống, nên gây khó
khăn cho viêc dạy và học của giáo viên và học sinh.
-Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, giáo viên sử dụng phương pháp thuyết
trình, giảng giải là chính, chưa sử dụng và kết hợp có hiệu quả các phương pháp, kỹ thuật
dạy học theo hướng tích cực dẫn đến hiện tượng dạy học không phát huy tính tích cực, tự
giác của học sinh.
- Việc học thuộc lòng kiến thức triết học vừa không có tác dụng vừa khó đối với học
sinh lớp 10 nên các em cảm thấy bị áp lực. Trong thực tế hiện nay, cách thức kiểm tra,
đánh giá học sinh của bộ môn GDCD ở trường THPT vẫn còn nặng về học thuộc lòng
kiến thức.
-Bản thân người giáo viên được giao nhiệm vụ chưa làm tốt trách nhiệm của mình
trong giảng dạy. Một số giáo viên đào tạo chưa đạt chuẩn về chuyên môn, thiếu tâm
huyết với nghề nên trong quá trình giảng dạy không chịu khó nghiên cứu sách và tài liệu
có liên quan để phục vụ công việc giảng dạy, dẫn đến việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội
kiến thức không hấp dẫn và chưa có hiệu quả. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ giáo
viên giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THPT có thu nhập thấp so với giáo viên dạy các
môn học khác nên họ tập trung nghề phụ để tăng thu nhập, ít đầu tư chuyên môn.
-Học sinh chưa nhận thức đúng về giá trị của kiến thức triết học mang lại cho bản
thân trong cuộc sống thực tế.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài này khắc phục hạn chế của việc dạy và học kiến thức triết học ở môn GDCD
lớp 10- Phần I ở các trường THPT:
+Tạo sự hứng thú học tập cho học sinh, từ đó giúp các em say mê tìm kiếm, khám
phá tri thức khoa học và vận dụng tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
+Thay đổi quan niệm và cách học của học sinh đối với kiến thức triết học
+Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh, giúp học sinh thấy được lợi ích và ý nghĩa của môn học đối với bản thân.
+Thay đổi thái độ và phương pháp dạy học của giáo viên phù hợp với yêu cầu thực
tiễn và đối tượng học sinh hiện nay .
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP MỚI
1. Những giải pháp cụ thể hướng dẫn học sinh tíếp thu kiến thức triết học GDCD
lớp 10- Phần I.
6
1.1. Vận dụng kiến thức liên môn trong quá trình dạy kiến thức triết học.
Theo mục tiêu của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là “Giáo dục con người Việt
Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân”. Công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo những con
người toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mỗi môn
học trong trường phổ thông với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ.
Môn GDCD nói chung và kiến thức triết học Mác-Lênin ở lớp 10 nói riêng có mối quan
hệ rất chặt chẽ với các môn học khác. Vì vậy, để tạo sự hứng thú học tập đối với học sinh
và mang lại hiệu quả học tập cao, giáo viên nên vận dụng kiến thức các môn học liên
quan trong quá trình giảng dạy kiến thức triết học. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng
kiến thức của các môn học liên quan phải đảm bảo: Sử dụng kiến thức liên môn phải giúp
học sinh lĩnh hội được kiến thức cơ bản của bài học; gây hứng thú học tập cho học sinh
phải góp phần phát triển năng lực tư duy và kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh; sử
dụng kiến thức liên môn phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh, phù hợp yêu cầu
kiến thức của bài học. Giáo viên có thể sử dụng kiến thức liên môn để kiểm tra bài cũ,
giới thiệu bài mới, làm rõ cái khái niệm, quy luật trong triết học ở chương trình GDCD
lớp 10- Phần I.
Giáo viên sử dụng kiến thức môn Ngữ Văn (sử dụng thơ, ca dao hay tục ngữ) để
giới thiệu bài mới, làm rõ nội dung kiến thức đang cần tìm hiểu hay đặt câu hỏi để kiểm
tra kiến thức bài cũ của học sinh. Trong quá trình giảng dạy giáo viên khuyến khích học
sinh sưu tầm thơ, ca dao, tục ngữ minh họa cho nội dung kiến thức cần làm rõ vừa phát
huy tính tự giác, tích cực đối với người học, vừa giúp giáo viên tích lũy thêm kho tàng ca
dao tự ngữ để làm tốt hơn công việc dạy học của mình. Ví dụ kiểm tra kiến thức bài cũ
của học sinh ở Bài 1-Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng (GDCD
10).
Giáo viên kiểm tra kiến thức bài cũ của học sinh bằng cách đọc đoạn thơ:
“Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
(Nguyễn Du)
7
GV: Hãy cho biết đoạn thơ trên của Nguyễn Du nói về thế giới quan duy tâm hay
duy vật? Hãy cho biết thế nào là thế giới quan duy tâm?
Tạo không khí vui vẻ, thu hút sự tập trung đối với học sinh ngay từ lúc bắt đầu tiết
học, giáo viên dùng ca dao để giới thiệu bài mới.
“Gái một con trông mòn con mắt
Hai con, con mắt liếc ngang
Ba con cổ ngoảnh, răng vàng
Bốn con quần áo đi ngang khét mù
Năm con tóc rối tổ cu…. »
GV: Đoạn ca dao trên nói về vấn đề gì?
HS trả lời: Sự thay đổi của người phụ nữ một, hai con thì đẹp, gọn gàng thu hút
được sự chú ý của người khác, khi sinh quá nhiều con trở nên lượm thợm, xấu xí.
GV: Sự thay đổi đó cũng được gọi là vận động. Vậy vận động là gì? Vận động nào
được gọi là phát triển, chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề này qua bài 3- Sự vận động và phát
triển của thế giới vật chất.
Giáo viên giới thiệu bài 5, GDCD 10 bằng đoạn thơ trong bài Thêm một của nhà
thơ Trần Hòa Bình
“Thêm một chiếc lá rụng,
Thế là thành mùa thu.
Thêm một tiếng chim gù,
Thành ban mai tinh khiết
Dĩ nhiên là tôi biết
Thêm một lắm điều hay
Nhưng mà tôi cũng biết
Thêm một phiền toái thay…"
GV: Theo các em đoạn thơ trên nói về điều gì? HS trả lời, thông qua câu trả lời của
học sinh, giáo viên phân tích trong cuộc sống và giới tự nhiên chỉ cần thêm hay bớt một
chút ít là sự vật, hiện tượng có thể biến đổi thành cái khác. Tại sao lại như vậy, chúng ta
sẽ lí giải được vấn đề này thông qua bài 5: Cách thức vận động, phát triển của sự vật và
hiện tượng.
Giáo viên sử dụng thơ, ca dao hay tục ngữ để làm rõ nội dung kiến thức đang cần
tìm hiểu. Ví dụ bài 1- Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
8
Phương pháp luận biện chứng: Xem xét sự vật, hiện tượng trong sự ràng buộc tác
động qua lại, trong sự vận động và phát triển không ngừng.
“Bứt dây động rừng”,
“Môi hở răng lạnh”
“Mạ nhờ nước, nước nhờ mạ”
“Trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết”
“Trời còn khi nắng khi mưa, ngày còn khi sớm khi trưa nữa người”
“Người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong”.
Diễn tả mối quan hệ sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút làm cho chất của
sự vật, hiện tượng thay đổi (Bài 5- Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện
tượng)
“Mèo già hóa cáo”
“Góp gió thành bão, góp cây nên rừng”
“Tốt quá hóa lốp”
Tính kế thừa của phủ định biện chứng: Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện
tượng, cái mới ra đời từ cái cũ, cái có trước, nhưng nó không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà
chỉ gạt bỏ những yếu tố lạc hậu của cái cũ và giữ lại yếu tố tiến bộ để phát triển thành cái
mới. (Bài 6- Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng).
"Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh",
"Con ai mà chẳng giống cha, cháu nào mà chẳng giống bà giống ông",
“Giỏ nhà ai quai nhà nấy”
Kinh nghiệm, hiểu biết của con người suy cho cùng đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn
(Bài 7- Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức).
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”.
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”.
“Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”.
“Chuồng lợn hướng đông, thổ công hướng bắc”.
“Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang, mây kéo lên ngàn thì mưa như trút”
Bên cạnh đó, giáo viên có thể sử dụng kiến thức liên môn để làm ví dụ minh họa
giảng dạy nội dung kiến thức của bài học. Khi giáo viên dạy bài mới, đến phần nội dung
9
kiến thức cơ bản ngoài phần nội dung của sách giáo khoa GDCD trình bày, giáo viên có
thể làm rõ, bổ sung thêm kiến thức qua môn học khác. Ví dụ khi dạy mục a) Mặt đối lặp
của mâu thuẫn (Bài 4, GDCD lớp10- Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện
tượng) giáo viên vận dụng kiến thức môn Sinh học ( trong một sinh vật có quá trình đồng
hóa và dị hóa ), Vật lí (trong hạt nhân có điện tích âm và điện tích dương) để học sinh
hiểu rõ hơn về mặt đối lập của mâu thuẫn. Sách giáo khoa GDCD lớp 10 phần kiến thức
triết học, chỉ có kiến thức cơ bản, ít có ví dụ nên để học sinh thích thú, tiếp thu có hiệu
quả nội dung kiến thức bài học và có khả năng vận dụng kiến thức của bài học vào thực
tiễn cuộc sống, giáo viên cần dày công nghiên cứu kiến thức của các môn học có liên
quan để phục vụ cho bài học.
* Ví dụ minh họa cụ thể
Bài 5: Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng GDCD lớp 10
Để tiết học trở nên hấp dẫn và có hiệu quả giáo viên có thể dùng kiến thức liên môn:
Hóa học, Toán học, Vật lí, Lịch sử, Địa lí để làm rõ nội dung các khái niệm, quy luật khi
dạy bài này.
1) Chất
GV: Vận dụng kiến thức Hóa học làm ví dụ để hướng dẫn học sinh làm rõ khái niệm
chất.
GV hỏi: Dựa vào tính chất dưới đây hãy dự đoán tên của các kim loại ?
Tính chất
Tính chất
-Rắn
-Rắn
-Mềm, dễ uốn, dẫn nhiệt và điện tốt
Tên kim loại:
HS trả lời: Sắt, Đồng hay Vàng
-Mềm, dễ uốn, dẫn nhiệt và điện tốt
Tên kim loại:
GV nhận xét: Nếu chỉ dựa vào những tính chất trên, chúng ta chưa có thể khẳng
định được tên kim loại cụ thể.
GV cung cấp thêm hai tính chất tiếp theo của kim loại cần xác định tên
Tính chất
Tính chất
-Rắn
-Rắn
-Mềm, dễ uốn, dẫn nhiệt và điện tốt
-Mềm, dễ uốn, dẫn nhiệt và điện tốt
-Nguyên tử khối = 197
-Nguyên tử khối = 64
-Nhiệt độ nóng chảy: 1064 0 C
-Nhiệt độ nóng chảy : 1083 0C
GV: Dựa vào tính chất vừa cung cấp thêm hãy nêu tên của hai kim loại ?
HS: Vàng (Au) và Đồng (Cu)
10
GV: Dựa vào đâu mà các em biết được đó là Vàng và Đồng?
HS: Nguyên tử khối và nhiệt độ nóng chảy
GV: Nhiệt độ nóng chảy, nguyên tử khối của Vàng giúp chúng ta phân biết được
Vàng với kim loại khác gọi là chất của Vàng
GV: Chất là gì?
HS: Chất là khái niệm dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có của sự vật, hiện
tượng, tiêu biểu cho sự vật, hiện tượng đó, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác.
GV: Nhận xét, hướng dẫn học sinh ghi nội dung khái niệm chất.
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt khái niệm chất trong triết học và khái niệm
chất trong khoa học cụ thể, trong cuộc sống. Khái niệm chất trong triết học là để phân
biệt sự vật này với sự vật khác, còn chất thông thường dùng để chỉ vật liệu cấu thành sự
vật, chỉ độ tốt xấu hoặc giá trị của sự vật.
2) Lượng
GV: Sử dụng kiến thức môn Địa lí làm ví dụ để làm rõ khái niệm lượng
GV: Cho học sinh biết về những thông tin:
+ Diện tích lãnh thổ của nước ta: 331.698 km2
+Tăng trưởng kinh tế:
Năm 2010: 6,78%; năm 2011: 5,98%; năm 2012:5,03%; 2013: 5,4%; Năm 2014
khoảng 5.6%
+Thu nhập bình quân theo đầu người:
Năm 2010: 1224 USD; năm 2012: 1540 USD; năm 2013: 1960 USD.
GV: Những thông tin trên phản ánh điều gì của đất nước và nền kinh tế Việt Nam ?
HS: Phản ánh qui mô, tốc độ, trình độ phát triển của đất nước cũng như nền kinh tế.
GV: Những con số, đại lượng trên phản ánh mặt chất hay lượng của nền kinh tế
nước ta?
HS: Mặt lượng
GV: Lượng là gì?
HS: Lượng là khái niệm dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có của sự vật,
hiện tượng biểu thị trình độ phát triển, qui mô ( lớn, nhỏ), tốc độ vận động của sự vật,
hiện tượng.
GV bổ sung, lượng của sự vật, hiện tượng thường được biểu thị bằng con số, đại
lượng cụ thể. Tuy nhiên, có những sự vật, hiện tượng phức tạp, trừu tượng như tình cảm,
11
tri thức, lượng của nó không thể biểu thị bằng đại lượng, con số chính xác. Mỗi một sự
vật, hiện tượng đều có chất và lượng đặt trưng, đó là những thuộc tính vốn có của sự vật,
hiện tượng. Không có chất và lượng nằm ngoài sự vật, hiện tượng.
3) Quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất.
a) Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
GV: Vận dụng kiến thức của môn Vật lí để làm ví dụ minh họa.
Ở nhiệt độ binh thường, nước nguyên chất là chất lỏng (0 0C< t0C < 1000C); Từ
1000C trở lên nước ở trạng thái hơi; Nếu nhiệt độ của nước giảm từ 0 0C trở xuống nước
chuyển sang trạng thái rắn.
<0oC
Rắn
<100oC
Lỏng
Hơi
GV: Khi nhiệt độ của nước tăng dần từ (0 0C< t0C <1000C) thì cái gì của nước thay
đổi, cái gì chưa thay đổi ?
HS: Vận tốc của các phân tử nước, thể tích thay đổi (lượng của nước thay đổi), chất
của nước chưa thay đổi (nước vẫn là chất lỏng)
GV: Nhận xét, giải thích khoảng giới hạn từ (0 0C< t0C <1000C) lượng của nước
thay đổi, chưa làm cho chất của nước thay đổi gọi là độ của nước.
GV: Độ là gì?
HS: Độ là giới hạn mà trong đó lượng của sự vật, hiện tượng thay đổi chưa làm
cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi.
0oC 1oC 10oC
Điểm nút
99oC 100oC
20oC
Độ
Điểm nút
GV: Nếu nhiệt độ của nước hạ xuống từ t0C=00C trở xuống, nước chuyển sang trạng
thái rắn. Hay khi nhiệt độ của nước tăng lên t0C=1000C, nước từ thể lỏng chuyển sang thể
hơi. Như vậy, khi thay đổi nhiệt độ của nước đến điểm t 0C = 00C hay điểm t0C = 1000C
(lượng thay đổi) đã làm cho cái gì của nước thay đổi?
HS: Chất của nước thay đổi (Lỏng sang rắn, lỏng sang hơi).
GV: Tại điểm t0C = 00C và t0C= 1000C gọi là điểm nút, hãy cho biết điểm nút là gì?
12
HS: Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự biến đổi về lượng làm cho chất của sự
vật, hiện tượng thay đổi.
Qua phân tích sự thay đổi lượng của nước làm thay đổi chất của nước hãy cho biết
sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi chất của sự vật, hiện tượng?
HS trả lời
GV: Nhận xét, kết luận, hướng dẫn học sinh ghi bài- Sự biến đổi về lượng dẫn đến
sự biến đổi về chất.
GV có thể dùng kiến thức Toán, Hóa hóa học hoặc Lịch sử bổ sung ví dụ minh họa
về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi của chất.
+Dùng kiến thức môn Lịch sử: Phong trào cách mạng Việt Nam cũng là quá trình
thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất. Từ cao trào cách mạng 1930- 1931 đến cuộc
vận động dân chủ (1936- 1939), đến cao trào giải phóng dân tộc (1939- 1945), đến cách
mạng tháng tám 1945 đều là quá trình chuẩn bị về lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất
của xã hội Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng- từ nước thuộc địa nửa phong kiến(Chất
cũ) thành nước Việt Nam dân chủ cộng hòa(Chất mới).
+ Kiến thức Hóa học: Sự biến đổi của lượng vượt quá độ và đạt đến điểm nút sẽ
dẫn đến sự biến đổi về chất.
Trong dãy đồng đẳng của Mê tan (CH 4) chỉ cần thêm một lượng CH 2 thì hợp chất
này chuyển sang hợp chất khác: CH4+CH2→ C2H6 (Êtan )
+Kiến thức trong Toán học: Một HCN có chiều dài 4cm và chiều rộng 8cm
4cm
8cm
Hình 1
Chúng ta giữ nguyên chiều dài và giảm bớt chiều rộng 2cm nghĩa là lượng của
nhưng nó vẫn là HCN.
4cm
Hình 2
6cm
Nếu giảm chiều rộng bằng chiều dài thì hình chữ nhật chuyển thành hình vuông,
hoặc giảm chiều rộng bằng 0 thì hình chữ nhật sẽ biến thành đường thằng.
13
4cm
4cm
Hình 3
Hình 4
GV: Cho học sinh liên hệ vấn đề học tập của bản thân.
GV hỏi: Hiện tại ở HKI em là học sinh trung bình (chất), để trở thành học sinh khá
ở HKII em phải làm cách nào?
HS trả lời: Cố gắng học tập, đọc thêm sách, học hỏi bạn bè, tích lũy kiến thức thi
học kì II đạt điểm cao.
GV nhận xét, bổ sung: Muốn thay đổi kết quả học, thay đổi cuộc sống theo chiều
hướng tốt cần phải tích lũy kinh nghiệm, kiến thức và cần có thời gian, kiên trì nhẫn nại,
không được nóng vội, đốt cháy gian đoạn dẫn đến kết quả không tốt.
b) Chất mới ra đời bao hàm một lượng mới tương ứng.
GV ví dụ: Khi còn là học sinh THPT(Chất), lượng kiến thức bạn có ít, khả năng
nhận thức chậm (lượng). Sau ba năm cố gắng trong học tập, tích lũy kiến thức kết quả
bạn thi đậu tốt nghiệp THPT và đại học, bạn đã được công nhận là sinh viên (chất mới) .
GV: Tương ứng với chất mới (sinh viên) lượng kiến thức như thế nào mới phù hợp?
HS: Kiến thức, hiểu biết phải nhiều hơn trước, khả năng nhận thức phải nhanh…
GV: Cho học sinh tự rút ra kết luận của mục b.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có chất và lượng đặt trưng phù hợp.Vì vậy, khi chất mới
ra đời lại bao hàm một lượng mới để tao thành sự thống nhất giữa chất và lượng.
Như vậy, giáo viên lựa chọn, sử dụng kiến thức của các môn học có liên quan phù
hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức triết học sẽ làm cho học sinh
hứng thú và hiệu quả của việc dạy và học tốt hơn. Đồng thời qua phân tích ví dụ làm rõ
các qui luật, học sinh rút ra được bài học cho bản thân, vận dụng kiến thức tìm hiểu làm
thay đổi kết quả học tập và cuộc sống theo chiều hướng tốt.
1.2. Kết hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp nội dung kiến thức và
đối tượng học sinh.
Việc sử dụng hợp lí các phương pháp, kĩ thuật vào trong quá trình dạy học được
xem là một trong những biện pháp phát huy tôi đa hiệu quả của quá trình dạy học. Tuy
14
theo từng môn học mà giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp để đạt hiệu quả cao
trong quá trình giảng dạy. Điều 28, Luật giáo dục yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập
cho học sinh”.
Đối với kiến thức Triết học GDCD lớp10- phần I, lâu nay giáo viên thường dùng
phương pháp thuyết trình, giảng giải là chủ yếu nên không thể phát huy tính tự giác, sáng
tạo, khả năng tư duy độc lập của học sinh, đồng thời không đánh giá được khả năng lĩnh
hội và vận dụng kiến thức của học sinh. Chính vì vậy, để học sinh hăng hái trả lời các câu
hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước
vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ
động vận dụng kiến thức, kĩ năng về triết học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý
vào vấn đề đang học... Trong quá trình giảng dạy, kiến thức triết học Mác- Lênin ở lớp
10, giáo viên cần sử dụng các phương pháp dạy học tính tích cực như: Nêu vấn đề, thảo
luận nhóm, nghiên cứu trường hợp điển hình…và kết hợp các kỹ thuật dạy học phù hợp
với từng nội dung kiến thức của tiết, bài học và đối tượng học sinh.
Ví dụ minh họa cụ thể: Tiết 13, Bài 7: Thực tiiễn và vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức (3.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức).
Phương pháp, kĩ thuật dạy học giáo viên sử dụng: Nghiên cứu trường trường hợp
điển hình, thảo luận nhóm, nêu vấn đề, kĩ thuật trình bày một phút, kĩ thuật đặt câu hỏi.
Giáo viên sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình để hướng dẫn học
sinh làm rõ nội dung kiến thức thực tiễn là cơ sở của nhận thức, thực tiễn là động lực của
nhận thức.
a.Thực tiễn là cơ sở của nhận thức.
GV: Giải thích từ “cơ sở” được hiểu như “nguồn gốc”
GV: Dùng clip “Xuân về đi gác kèo ong” E:\Xuan ve di gac keo ong.flv (Báo tuổi
trẻ đưa tin) nội dung nói về hoạt động gác kèo để khai thác mật ong của người dân ở
rừng U Minh Hạ. Trước khi xem đoạn clip giáo viên lưu ý học sinh một vấn đề:
-Khai thác mật ong của người dân trong clip có phải là hoạt động thực tiễn không?
Thuộc hoạt động nào của hoạt động thực tiễn?
-Để khai thác mật có hiệu quả người dân trong clip phải làm gì?
15
-Những kinh nghiệm, hiểu biết của người dân trong clip có được từ đâu?
Học sinh xem đoạn clip và trả lời câu hỏi theo yêu cầu của giáo viên.
GV hỏi: Khai thác mật ong của người dân trong clip có phải là hoạt động thực tiễn
không? Thuộc hoạt động nào của hoạt động thực tiễn?
HS trả lời: Khai thác mật ong của người dân trong clip là hoạt động thực tiễn, thuộc
hoạt động sản xuất vật chất.
GV: Nhận xét
GV hỏi: Để khai thác mật có hiệu quả người dân trong clip phải làm gì?
HS trả lời:
-Chọn hướng gió, chọn nơi có ánh sáng phù hợp để gác kèo
-Kèo to để bầy ong lớn đáp xuống làm tổ
-Khi ong đáp kèo khoảng 20 ngày là thu hoạch
-Khi cắt tàng ong nên chừa lại một ít vì cắt hết ong sẽ bỏ tổ mà đi
GV: Nhận xét, bổ sung
GV hỏi: Những kinh nghiệm, hiểu biết của người dân trong clip có được từ đâu?
HS trả lời:
-Học hỏi từ người đi trước
-Kinh nghiệm, hiểu biết đó được rút ra từ quá trình khai thác mật của chính bản thân
người dân.
GV: Nhận xét, bổ sung
Hiểu biết, kinh nghiệm (nhận thức) của người dân có được nhờ học hỏi từ người đi
trước. Để có kinh nghiệm truyền lại cho thế hệ sau người đi trước cũng phải tiến hành
khai thác mật nhiều lần. Ngoài ra nhận thức của người dân có được từ chính quá trình
khai thác mật của họ - hoạt động thực tiễn.
GV hỏi: Từ phân tích trên, hãy giải thích vì sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức?
HS trả lời:
- Mỗi người, mỗi thế hệ không chỉ có những nhận thức do thực tiễn và kinh nghiệm
trực tiếp đem lại mà còn kế thừa tiếp thu những tri thức của thế hệ đi trước, của người
khác đem lại. Song, suy cho cùng nhận thức của con người đều nảy sinh từ thực tiễn.
-Thông qua hoạt động thực tiễn, giác quan con người ngày càng hoàn thiện, nhận
thức của con người ngày càng sâu sắc, đầy đủ.
GV: Nhận xét, kết luận hướng dẫn học sinh ghi bài
16
GV hỏi: Tìm một số câu ca dao, tục ngữ nói về kinh nghiệm của con người có được
thông qua hoạt động thực tiễn?(GV gợi ý trong sản xuất nông nghiệp)
HS trả lời:
-Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa
-Nhất giống, nhì phân, tam cần, tứ nước
b.Thực tiễn là động lực của nhận thức.
GV: Cho học sinh giải thích từ “động lực” được hiểu “thúc đẩy” và tiếp tục sử dụng
lại clip hoạt động gác kèo khai thác mật ong của người dân ở rừng U Minh Hạ để đặt vấn
đề.
GV hỏi: Để xua đuổi đàn ong đi và lấy được mật người dân phải làm cách nào?
HS trả lời: Người dân đốt lửa tạo khói
GV: Việc đem lửa vào rừng đốt để tạo khói, tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng. Cháy rừng
để lại hậu quả nghiêm trọng, đe đọa tính mạng, sức khỏe của con người và các loại động
thực vật quí hiếm. Yêu cầu thực tiễn đặt ra, phải làm cách nào vừa khai thác được mật
nhưng không gây cháy rừng.
GV hỏi: Từ thực tiễn đặt ra yêu cầu người dân phải làm gì để vừa khai thác được
mật vừa bảo vệ rừng?
HS trả lời: Không mang lửa vào rừng mà tìm cách khác an toàn hơn
GV: Nhận xét, bổ sung
Trước yêu cầu đó người dân đã nghĩ ra cách chế tạo bình phun khói khai thác mật
ong có hiệu quả, không gây cháy rừng (giới thiệu học sinh bình phun khói).
Trong thực tiễn cuộc sống, trên nhiều lĩnh vực con người tạo ra các loại máy móc,
thiết bị như điện thoại, máy tính... góp phần nâng cao, mở rộng hiểu biết của con người.
GV hỏi: Từ phân tích trên hãy lí giải tại sao nói thực tiễn là động lực của nhận thức?
HS trả lời: Thực tiễn luôn luôn vận động, đặt ra yêu cầu mới cho nhận thức và tạo
ra những tiền đề vật chất cần thiết thúc đẩy nhận thức phát triển.
GV: Nhận xét, kết luận và bổ sung ví dụ
17
Giáo viên vừa cho học sinh quan sát hình ảnh vừa giảng giải vấn đề để khẳng định
thực tiễn luôn vận động đặt ra yêu cầu mới nhờ đó mà nhận thức của con người ngày
càng phát triển.
Xe chạy bằng Pin hy
đrô
Để đi lại nhanh hơn con người đã nghĩ, chế tạo thành công các phương tiện giao
thông như xe máy, xe hơi... Khi sử dụng xe máy gặp tai nạn để lại hậu quả nghiêm trọng
như chấn thương sọ não, xe hơi khi xảy ra va đập cũng gây chấn thương cho con người.
Vấn đề đặt ra làm cách nào vẫn sử dụng xe máy, xe hơi nhưng khi xảy ra sự cố vẫn bảo
vệ con người. Con người đã suy nghĩ, nghiên cứu và đã tìm ra giải pháp đó là chế tạo mũ
bảo hiểm dành cho người đi xe máy, túi khí dành cho người đi xe hơi. Nhưng một vấn để
nữa đặt ra chất thải từ các phương tiện đó lại gây ra ô nhiễm môi trường, làm cách nào
con người vẫn sử dụng chúng để đi lại nhưng không gây ô nhiễm môi trường, buộc con
người phải suy nghĩ tìm ra nguồn nhiên liệu mới thay thế. Các nhà khoa học thuộc Đại
học Califomia Mỹ đã tìm kiếm nhiên liệu thay thế cho xăng, dầu đó là Pinhyđrô. Như
vậy thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu mới cho nhận thức, khi giải quyết được yêu cầu đó thì
hiểu biết của con người tăng thêm.
c.Thực tiễn là mục đích của nhận thức
GV sử dụng phương pháp nêu vấn đề kết hợp với kĩ thuật đặt câu hỏi
Để trở thành người lao động có trình độ cao con người cần phải học. Nếu con
người học mà chẳng để làm việc gì thì việc học đó không có giá trị và trở nên vô nghĩa.
18
GV hỏi: Làm gì để những tri thức mà con người học được thực sự có ý nghĩa? Ví
dụ?
HS trả lời để những tri thức mà con người học được thực sự có ý nghĩa con người
phải vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
GV: Nhận xét, cung cấp học sinh thông tin, hình ảnh học sinh vận dụng kiến thức đã
học chế tạo các loại máy móc phục vụ con người. Trần Ngọc Anh Tuấn và Lê Tùng Nam,
học sinh trường THPT Nguyễn Viết Xuân- Vĩnh Phúc vận dụng kiến thức bộ môn vật lí
để chế tạo thành công máy tách hạt bắp (ngô) giúp cho người dân tăng năng suất và giảm
thời gian trong quá trình sản xuất
Thiết bị tách hạt ngô của Trần Ngọc Anh Tuấn và Lê Tùng Nam, học sinh trường
THPT Nguyễn Viết Xuân- Vĩnh Phúc, đạt giải nhì cuộc thi sáng tạo năm 2014.
GV hỏi: Từ phân tích trên giải thích tại sao nói thực tiễn là mục đích của nhận thức?
HS trả lời: Tri thức khoa học chỉ có giá trị khi được vận dụng vào thực tiễn. Mục
đích cuối cùng của nhận thức nhằm cải tạo hiện thực khách quan phục vụ con người
GV:Nhận xét, hướng dẫn học sinh ghi bài.
GV: Cho học sinh liên hệ bản thân.
Mục đích của việc tiếp thu kiến thức của các em ở trường là để làm gì? Cho ví dụ
minh họa?( Gợi ý: Vận dụng kiến thức môn sinh học; môn GDCD).
HS trả lời: Vận dụng kiến thức môn sinh học để trồng rau sạch phục vụ bữa ăn gia
đình..
GV: Nhận xét, dẫn câu nói của Hồ Chí Minh: “Lí luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lí luận suông”. Vì vậy, lí luận phải gắn với thực tiễn và nhấn mạnh mục đích cuối
cùng của nhận thức là vận dụng vào thực tiễn.
d.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí
GV: Tổ chức thảo luận
19
GV: Chia học sinh lớp thành nhiểu nhóm nhỏ. Mỗi nhóm 2 học sinh cùng thảo luận
3 câu hỏi, sau khi thảo luận, nhóm làm nhanh nhất trình bày kết quả thảo luận trong vòng
một phút, các nhóm còn lại nhận xét, bổ sung.
GV: Đặt câu hỏi thảo luận
1/Thế nào là chân lí?
2/Có phải nhận thức của con người lúc nào cũng đúng không?
3/ Làm cách nào để biết nhận thức của con người là đúng hay sai? Cho ví dụ?
HS trình bày kết quả thảo luận
GV: Nhận xét, kết luận và hướng dẫn học sinh ghi nôi dung kiến thức
GV nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Thực tiễn có vai trò quan
trọng đối với nhận thức. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn của chân lí.
GV: Qua tìm hiểu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức em rút ra bài học gì cho
bản thân?
HS trả lời: Trong cuộc sống cần coi trọng thực tiễn, tham gia vào hoạt động thực
tiễn để nâng cao nhận thức. Đồng thời phải biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn
để phục vụ con người.
GV: Nhận xét, kết luận toàn bài.
Sử dụng hợp lí các phương pháp dạy học sẽ góp phần tạo nên sự hứng thú đối với
người học, qua đó phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình khám phá
tìm hiểu kiến thức. Đồng thời qua việc hiểu nội dung kiến thức học sinh rút ra bài học
kinh nghiệm cho bản thân, vận dụng kiến thức đã học để vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống.
1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) khai thác tư liệu, hình ảnh, clip, video
phù hợp khi dạy kiến thức triết học.
Song song với vận dụng các phương pháp dạy học tích cực như nêu vấn đề, phương
pháp làm việc theo nhóm, nghiên cứu trường hợp điển hình. Giáo viên cần ứng dụng
CNTT vào dạy học các bài có thể khai thác các tư liệu, hình ảnh, clip..làm cho tiết dạy
sinh động, thu hút được sự tham gia tích cực của học sinh và mang lại hiệu quả giảng dạy
cao. Trong quá trình thiết kế một bài giảng có ứng dụng CNTT để khai thác tư liệu, clip..
giáo viên xác định rõ mục tiêu bài dạy; xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm;
lựa chọn tư liệu, hình ảnh, clip, cần thiết phù hợp phục vụ bài dạy. Giáo viên phải nắm
20
vững nội dung cơ bản của bài học với nội dung có liên quan để có thể chủ động trong quá
trình hướng dẫn cho học sinh khai thác hình ảnh, tư liệu hay clip, thông qua đó học sinh
hứng thú và lĩnh hội nội dung kiến thức cần tìm hiểu. Ví dụ dùng hình ảnh về sự thay đổi
màu sắc của cây cối, thay đổi hình dáng của con người khi là trẻ con và lúc trường thành,
thay đổi của các núi băng ở Bắc Cực để làm rõ khái niệm vận động ở bài 3-Sự vận động
và phát triển của thế giới vật chất. GV dùng clip “Xuân về đi gác kèo ong” E:\Xuan ve di
gac keo ong.flv để khai thác nội dung mục a. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức và b.
Thực tiễn là động lực của nhận thức (Bài 7,GDCD10).
Ví dụ minh họa cụ thể ứng dụng CNTT khai thác hình ảnh, clip dạy một số nội
dung của tiết 9, bài 6: Khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng GDCD lớp 10.
GV giới thiệu bài mới bằng hình ảnh.
GV: Quan sát hình ảnh trên và cho biết hình ảnh đó nói về vấn đề gì?
HS trả lời, giáo viên nhận xét dẫn dắt học sinh vào bài, sự vật mới ra đời thay thế
thế cho sự vật cũ ở trình độ cao hơn, hoàn thiện hơn đó là khuynh hướng phát triển của
sự vật, hiện tượng. Để làm rõ vấn đề này, chúng ta sẽ tìm hiều bài 6- Khuynh hướng phát
triển của sự vật, hiện tượng.
1/ Phủ định biện chứng phủ định siêu hình
a/ Phủ định siêu hình
21
Để hiểu được như thế nào là phủ định siêu hình, giáo viên cho học sinh quan sát
hình ảnh sau .
GV hỏi: Nguyên nhân nào làm cho trứng, lúa bị phủ định (mất đi)? Sau khi bị phủ
định các sự vật trên có còn tồn tại, phát triển không?
HS: Do sự tác động của con người, máy móc làm cho các sự vật trên bị phủ
định(xóa bỏ). Sau khi bị phủ định các sự vật không tồn tại và phát triển.
GV: Nhận xét, phân tích do sự tác động từ bên ngoài làm sự vật hiện tượng bị xóa
bỏ gọi là phủ định siêu hình.
GV: Từ phân tích ví dụ trên hãy cho biết thế nào là phủ định siêu hình?
HS trả lời: Phủ định siêu hình là sự phủ định được diễn ra do sự can thiệp, tác động
từ bên ngoài, cản trở xóa bỏ sự tồn tại, phát triển tự nhiện của sự vật.
b/ Phủ định biện chứng
GV: Cho học sinh xem video trứng gà nở thành gà con, hạt nảy mầm.
E:\video_Gano_080410225437.flv ; E:\video_nay mam_080411084446.flv
22
Ở nhiệt độ bình thường, sau một khoảng thời gian trứng gà khỏe mạnh bị phủ định
(mất) thay vào đó là con gà con; hạt đậu bị phủ định thay vào đó cây giá con.
GV: Nguyên nhân nào làm cho quả trứng, hạt bị phủ định? Kết quả của sự phủ định?
HS: Do bản thân bên trong của quả trứng và hạt đậu, lượng đổi dẫn đến chất đổi.
Kết quả trứng mất thay vào đó là con gà con ra đời; hạt đậu mất thay vào đó cây giá xuất
hiện thay thế hạt đậu.
GV: Nhận xét, khẳng định phủ định trên gọi là phủ định biện chứng.
GV: Thế nào là phủ định biện chứng?
HS trả lời: Phủ định biện chứng là phủ định diễn ra do sự phát triển của bản thân sự
vật, hiện tượng, có kế thừa những yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ để phát triển sự vật,
hiện tượng mới.
GV: Nhận xét, hướng dận học sinh ghi bài
*Hai đặc điểm của phủ định biện chứng
+Tính khách quan:
GV: Tiếp tục sử dụng lại video về trứng gà nở và hạt nảy mầm
GV giải thích: Nguyên nhân làm cho hạt và trứng bị phủ định không phải do sự tác
động từ bên ngoài mà nằm ngay trong thân của quả trứng hạt đậu. Đó là kết quả của quá
trình giải quyết mâu thuẫn, lượng đổi dẫn đến chất đổi sự vật mới ra đời thay thế cái cũ
đó là tính khách quan của phủ định biện chứng.
GV: Hướng dẫn học sinh ghi bài
+Tính khách kế thừa
GV: Cho học sinh xem hình ảnh và phân tích về tục bắt dâu của người H’Mông xưa
và nay.
Xưa
Nay
GV phân tích: Tục bắt dâu là nét văn hóa độc đáo của người H’Mông ở vùng Tây
Bắc nước ta. Tuy nhiên, hiện nay xã hội thay đổi, tục bắt vợ ngày xưa mất thay vào đó
tục bắt vợ mới. Tuy nhiên, người H’Mông không xóa bỏ hoàn toàn tục bắt dâu ngày xưa
mà chỉ xóa bỏ những điều lạc hậu (Chờ cho cô gái đi rẫy, đi chợ một mình người con trai
23
nhờ bạn bè hay người thân bắt về và nhốt vào buồng nhà mình, ba ngày sau cho cô gái bị
bắt quay về nhà và buộc nhà gái cho cưới dâu), giữ lại những yếu tố tiến bộ. Ngày nay
tục bắt dâu chỉ là hình thức, thật sự trước khi bắt cô dâu, đôi nam nữ này đã tìm hiểu
nhau trước. Sau khi được sự đồng ý của cô gái, chàng trai chọn ngày đẹp trời, nhờ những
người bạn cùng đi với mình đến nhà cô gái và vào nhà cô gái gõ của và mời cô gái ra
ngoài để nói chuyện. Sau khi họ gặp nhau, nói chuyện xong, cô gái vào nhà thay bộ trang
phục đẹp và theo người con trai về nhà ở ba ngày, sau đó lễ cưới sẽ được tổ chức.
GV: Qua phân tích trên hãy cho biết như thế nào là tính kế thừa trong phủ định biện
chứng?Ví dụ?
HS trả lời: Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng cái mới ra đời không
phủ định sạch trơn cái cũ. Nó chỉ gạt bỏ những yếu tố lạc hậu, lỗi thời của cái cũ, đồng
thời giữ lại những yếu tố tích cực để phát triển thành cái mới.
Ví dụ văn hóa Việt Nam hiện nay ra đời phủ định văn hóa phong kiến. Văn hóa hiện
nay không phủ định hoàn toàn văn hóa phong kiến mà vẫn giữ lại nét đẹp trong văn hóa
thời phong kiến như các loại hình nghệ thuật truyền thống, các phong tục đẹp như thờ
cúng tổ tiên...
GV: Nhận xét, hướng dẫn học sinh ghi bài kết thúc tiết học.
Tóm lại ứng dụng CNTT để khai thác hình ảnh, tư liệu, clip.. phù hợp để phục vụ
cho bài giảng không chỉ tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập mà còn giúp
giáo viên hướng dẫn kiến thức triết học dễ hiểu, học sinh có thể hiểu và vận dụng kiến
thức để lí giải các vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến triết học.
1.4. Thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá học sinh trong quá trình học tâp.
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục
từ tiếp cận nội dung kiến thức sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái
gì thông qua việc học. Cùng với quá trình thay đổi nội dung chương trình, phương pháp,
hình thức dạy học, cần phải thay đổi về hình thức kiểm tra, đánh giá theo hướng phát
triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến
thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế. Đối với môn GDCD nói chung và kiến
thức triết học GDCD 10- phần I nói riêng có tính giáo dục và thực tiễn cao, đòi hỏi học
sinh cần phải vận dụng kiến thức của bài học vào cuộc sống và thực hành các chuẩn mực
bài học có sự thống nhất giữa nhận thức với hành vi, hạn chế việc học thuộc lòng, học
24
vẹt. Vì vậy, cần thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá, từ nặng về kiểm tra ghi nhớ, tái
hiện nội dung kiến thức đã học sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức, kỹ
năng, thái độ để giải quyết vấn đề là chủ yếu. Từ đó, học sinh nhận ra sự tiến bộ, hạn chế
của bản thân mà phấn đấu cố gắng hơn trong học tập. Trong kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh ở phần kiến thức triết học giáo viên ra đề cần lưu ý:
+ Câu hỏi phải phù hợp với trình độ tâm sinh lí của học sinh, từ ngữ sử dụng dễ
hiểu, mang tính phổ biến.
+ Câu hỏi kiểm tra phải gắn với thực tiễn và có ý nghĩa đối với cuộc sống của học
sinh và có thể phân loại được học sinh.
+Đảm bảo tính khách quan, trung thực, khoa học và toàn diện trong kiểm tra đánh
giá; chú ý hơn tới đánh giá quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm đến mức độ
hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học.
+Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để xây dựng đề kiểm tra.
+Hình thức đề kiểm tra 15 phút, kiểm tra một tiết và kiểm tra học kì kết hợp giữa
hình thức trắc nghiệm khách quan và tự luận.
+Trong quá trình kiểm tra đánh giá học sinh đảm bảo sự công bằng và cần có sự
phối hợp tham gia của học sinh (học sinh tự đánh giá, tập thể lớp đánh giá).
* Đối với kiểm tra miệng
Kiểm tra miệng, giáo viên tiến hành bằng nhiều cách như kiểm tra ở đầu tiết học,
kiểm tra trong quá trình dạy kiến thức mới có liên quan đến kiến thức cũ hay kiểm tra ở
cuối tiết dạy. Nội dung câu hỏi không chỉ để học sinh nhớ, tái hiện lại kiến thức đã học
như khái niệm, định nghĩa, mà giáo viên có thể dùng câu hỏi trắc nghiệm, hay câu hỏi
mang tính vận dụng kiến thức đã học để giải quyết, xử lí các tình huống trong cuộc sống
phù hợp. Giáo viên nên phân loại câu hỏi khi kiểm tra, câu hỏi dành cho học sinh trung
bình và câu hỏi dành cho học sinh khá giỏi, đánh giá, nhận xét có sự kết hợp giữa tập thể
học sinh và giáo viên.
Ví dụ 1:
* Kiểm tra bài cũ trong quá trình dạy kiến thức bài mới: Bài 6 “Khuynh hướng phát
triển của sự vật, hiện tượng” ở mục- Phủ định biện chứng mang tính khách quan, liên
quan đến kiến thức cũ (Mâu thuẫn là nguồn gốc vận động phát triển của sự vật, hiện
tượng).
25