A. GIỚI THIỆU CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG (GTGT):
Theo quan điểm của các nhà lập pháp, một cách tương đối thì giá trị tiêu dùng của cá nhân tỷ lệ với
thu nhập của họ. Để phân phối lại thu nhập xã hội nhà nước sẽ thu lại một phần thu nhập khi cá nhân tiêu
dùng sản phẩm theo một tỷ lệ xác định, tùy theo quốc gia, và tùy từng mặt hàng. Ở Việt Nam tỷ lệ xác
định đó thường là 10%.
Tuy nhiên việc thực hiện thu thuế trực tiếp của cá nhân tiêu dùng sẽ khó khăn hơn việc thu gián tiếp
thông qua người bán. Do đó nhà nước quy định, khi người bán bán hàng thì ngoài giá trị hàng hóa sẽ thu
thêm 10% của người mua.
Việc xác định một sản phẩm được mua vào là để tiêu dùng hay để tiếp tục quá trình sản xuất kinh
doanh cũng là một khó khăn. Để giải quyết vấn đề cần phải thu theo giá trị tăng thêm của hàng hóa ở mỗi
khâu của quá trình sản xuất. Nhà nước sẽ tạm thu khi một tổ chức, cá nhân mua hàng hóa nếu họ bán
hàng hóa ra họ sẽ được khấu trừ phần đã thu vào.
Ví dụ:
Người B mua 1 chiếc áo của người A với giá 1.000.000 Đ nhà nước sẽ thu thuế 1.000.000 x 10%
=100.000 Đ => người B phải trả cho người A số tiền 1.100.000 Đ. Người A giữ lại 1.000.000 Đ và nộp
vào ngân sách 100.000 (nộp hộ người B), sẽ xảy ra 2 trường hợp như sau:
•
•
TH1: Nếu là người B mua về để mặc thì họ chính là người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy nhà
nước đã thu được thuế từ người B.
TH2: Nếu người B đem bán chiếc áo (đã mua từ người A) cho người C với giá 1.500.000 đ thì
người B sẽ thu của người C thêm 150.000 Đ tiền thuế. Trong trường hợp này người B là người
kinh doanh và đã bị thu 100.000 đồng tiền thuế khi mua hàng của người A. Nhưng người C đã
đưa cho người B 150.000 Đ tiền thuế. Trước khi trả tiền thuế về nhân sách nhà nước, người B sẽ
tự động khấu trừ số tiền đã bị thu 100.000 Đ và chỉ nộp vào ngân sách 50.000 Đ.
- Trong trường hợp cả người A và người B đều không bị thu thuế
- Người C chịu tiền thuế là 150.000 Đ
- Nhà nước thu tiền thuế ở 2 giai đoạn:
i)
Giai đoạn 1 thực hiện thông qua người A thu hộ với giá trị 100.000 Đ
ii)
Giai đoạn 2 thực hiện thông qua người B là 50.000 Đ (=150.000 Đ-150.000 Đ)
Chúng ta quan sát thấy rằng phần thuế thu thông qua người B tỷ lệ với GTGT thêm
của hàng hóa do người B kinh doanh tạo ra = (1.500.000 Đ-1.000.000
Đ)*10%=500.000 Đ*10%=50.000 Đ.
500.000 Đ này chính là GTGT của hàng hóa và 50.000 Đ này gọi là thuế GTGT của
hàng hóa.
Đối với người B: phần thuế phải nộp thông qua người A gọi là thuế GTGT đầu vào,
phần thuế mà người B đã thu của người C gọi là thuế GTGT đầu ra.
Thuế GTGT phải nộp = thuế GTGT đầu ra – thuê GTGT đầu vào.
Như vậy có thể khái quát: Thuế GTGT là thuế mà người bán thu của người tiêu dùng
cuối cùng tương ứng với phần GTGT với một tỷ lệ do nhà nước quy định (gọi là thuế
suất thuế GTGT) của hàng hóa ở khâu sản xuất kinh doanh của người bán để nộp vào
ngân sách nhà nước hộ người tiêu dùng cuối cùng.
Đọc xong mục A chúng ta cần nắm được:
-
Thuế GTGT là gì?
Thuế GTGT đầu (thuế GTGT được khấu trừ) là gì?
-
Thuế GTGT đầu ra là gì?
“Khấu trừ” thuế GTGT là gì?- đơn giản là việc lấy số thuế đầu ra – số thuế đầu vào để xác
định thuế phải nộp :)
Thuế suất thuế GTGT là gì?
Bình luận thêm:
Đây là một sắc thuế thể hiện nghệ thuật thu thuế xuất sắc của nhà nước. Người bị thu
thuế với kiến thức hạn chế không hề cảm thấy bị nộp thuế. Người kinh doanh thu hộ không có
lý do chính đánh để phản đối sắc thuế mặc dù nó làm giá bán của họ bị tăng lên (người tiêu
dùng họ chỉ quan tâm tới giá sau thuế).
B. MỞ RỘNG THÊM
1. Vấn đề thuế suất:
Ở Việt Nam, thuế suất thuế GTGT thông thường là 10%. Để khuyến khích tiêu dùng trong một số
ngành trong định hướng phát triển kinh tế, nhà nước đã chủ động điều tiết bằng cách giảm thuế suất
thuế GTGT về mức 5% hoặc không thu thuế GTGT với một số mặt hàng (mặt hàng hàng không chịu
thuế GTGT) tiêu biểu sản phẩm trồng trọt chăn nuôi, dịch vụ y tế, hàng hóa viện trợ nhân đạo...
2. Vấn đề xuất khẩu:
Bản chất của thuế GTGT là đánh vào người tiêu dùng cuối cùng nên nhà nước không có lý do để
thu thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu. Mặt khác, nhà nước luôn ưu tiên cho xuất khẩu do đó khi
xuất khẩu hàng hóa doanh nghiệp sẽ không phải nộp thuế GTGT, được khấu trừ thuế GTGT đầu vào
đã bị doanh nghiệp bán thu hộ với số thuế phải nộp ở hoạt động khác (hoặc được nhà nước hoàn trả
lại thuế theo quy định).
3. Vấn đề nhập khẩu:
Do khó xác định mục đích người nhập khẩu nhập về để sản xuất hay tiêu dùng cho nên nhà nước
thu luôn trực tiếp thuế GTGT ở khâu này (không thể thu qua người bán do liên quan tới vấn đề lãnh
thổ). Nếu người nhập khẩu nhập hàng về để kinh doanh thì sẽ được khấu trừ như hàng hóa mua trong
nước.