Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

VẤN ĐỀ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA HY LẠP NGÂN HÀNG QUỐC TÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.92 KB, 18 trang )

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
------OOO------

VẤN ĐỀ NỢ NƯỚC NGOÀI
CỦA HY LẠP

GVHD: PGS.TS. Trương Quang Thông
Bộ môn: Ngân hàng quốc tế nâng cao
Thành viên nhóm 1:
y

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11/2017

1


MỤC LỤC
KHÁI QUÁT VỀ HY LẠP................................................................................... 1

I.
II.

KHỦNG HOẢNG NỢ TẠI HY LẠP................................................................3

2.1.

Thực trạng nợ Hy Lạp................................................................................... 3

2.2.


Diễn biến khủng hoảng nợ tại Hy Lạp...........................................................3

2.3.

Nguyên nhân.................................................................................................. 7

2.3.1.

Nguyên nhân nội tại................................................................................7

2.3.2.

Các nguyên nhân ngoại sinh....................................................................8

2.4.

2.4.1.

Đối với Hy Lạp......................................................................................10

2.4.2.

Đối với Eurozone và Thế giới................................................................11

2.5.
III.

Hậu quả....................................................................................................... 10

Vai trò Pháp, Đức và quan điểm của các nước EU khác..............................13

Kết Luận......................................................................................................... 14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................16

1


I.


KHÁI QUÁT VỀ HY LẠP
Tổng quan về Hy Lạp
Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu, là thành viên của khu vực đồng tiền
chung Châu Âu. Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2% EU, đóng góp
2.8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng 15360USD,
bằng khoảng 2/3 các nước phát triển trong Eurozone. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình là
10.2% (trong khi tỷ lệ này ở EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng
cao so với các nước trong EU.
Về Văn hóa: Hy Lạp là một trong những nền văn minh rực rỡ nhất thời cổ đại, có ảnh
hưởng sâu rộng đến nền văn minh quanh khu vực Địa Trung Hải. Đây là nơi ra đời của nền
dân chủ, triết học phương Tây và Thế vận hội Olympic. Năm 1821, nhân dân Hy Lạp đã nổi
dậy khởi nghĩa và giành lại độc lập cho dân tộc. Chính thống giáo Hy Lạp là tôn giáo chính
thức tại Hy Lạp, song thực tế người dân hoàn toàn có quyền tự do tôn giáo. Chính thống
giáo Hy Lạp chiếm tới 97% tổng dân số và phân bố rộng khắp toàn đất nước Hy Lạp. Hồi
giáo là tôn giáo phổ biến thứ hai với số tín đồ ước tính từ khoảng 98.000 đến 140.000
người, tập trung chủ yếu ở tỉnh Thrace. Cộng đồng Công giáo Rôma tại Hy Lạp có số tín đồ
ước tính khoảng 250.000 người. Còn đạo Tin Lành và Nhân Chứng Giê-hô-va đều có
khoảng 30.000 tín đồ. Cộng đồng theo Do Thái giáo trước kia rất đông tại Hy Lạp, nay chỉ
còn 5000 người và phân bố chủ yếu ở Thessaloniki.
Chính trị: Hy Lạp là một nước cộng hòa theo thể chế dân chủ đại diện. Tổng thống là

người đứng đầu đất nước và được lựa chọn bởi quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm. Tuy nhiên sau
cuộc sửa đổi hiến pháp vào năm 1986, quyền lực của tổng thống dã bị cắt giảm đáng kể và
bây giờ hầu như chỉ mang tính nghi thức. Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ Hy Lạp
và có quyền lực chủ yếu trong các công việc của quốc gia. Quốc hội Hy Lạp có tổng cộng
300 ghế. Những cuộc bầu cử quốc hội thường được tổ chức 4 năm một lần tuy nhiên tổng
thống có quyền giải tán quốc hội và tổ chức bầu cử sớm. Từ khi Hy Lạp quay trở về tiến
trình dân chủ từ năm 1975, Hy Lạp đã trở thành một quốc gia theo chế độ đa đảng. Hai đảng
có vai trò quan trọng nhất trên chính trường Hy Lạp là Đảng Dân chủ mới và Phong trào Xã
hội Chủ nghĩa Hy Lạp.
Kinh tế: Hy Lạp có nền kinh tế phát triển với khu vực kinh tế quốc doanh chiếm
khoảng 40% GDP. Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp năm 2016 như sau: dịch vụ chiếm 74,4%,
công nghiệp 20,6% và nông nghiệp 5,1%. Trong đó du lịch là ngành thế mạnh của Hy Lạp,
là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu, đóng góp 15% GDP. Bên cạnh đó, các ngành kinh tế khác
như ngân hàng, tài chính, viễn thông, sản xuất các thiết bị công nghệ cao cũng phát triển
mạnh, một ngành công nghiệp đóng tàu hùng mạnh. Ngoài ra thì có các ngành công nghiệp
quan trọng khác ở Hy Lạp là dệt, hóa chất, khai thác khoáng sản, chế biến thực phẩm.
Những chính sách cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên minh Châu Âu đã
thúc đẩy nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ, đồng thời nâng cao mức sống cho người
1


dân Hy Lạp. Chỉ số phát triển con người xếp thứ 22 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng thường
xuyên nằm ở mức cao nhất so với các nước trong Eurozone. Bình quân giai đoạn 2000 –
2009, GDP của Hy Lạp tăng trưởng khoảng 3.1%, Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Hy Lạp đạt 4,3%, cao hơn so với mức trung bình của Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, vào
năm 2010, Hy Lạp trải qua cuộc khủng hoảng tiền tệ nghiêm trọng, & lây lan sang các nước
khác như Bồ Đào Nha, Cộng hoà Ireland,...Hậu quả làm cho Hy Lạp phải gánh chịu những
bất ổn cũng như tổn thất về kinh tế lẫn chính trị cho đến hôm nay. GDP danh nghĩa của Hy
Lạp năm 2016 đạt 195.878 tỉ USD. GDP bình quân đầu người (GDP/người) của Hy Lạp là
18.104 USD/người vào năm 2016. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Hy

Lạp đạt 1% trong năm 2016, với mức tăng 96 USD/người so với con số 18.008 USD/người
của năm 2015. Lạm phát (CPI) đạt −0.7% (2016), thất nghiệp chiếm 23.3% (2016)
Hy Lạp là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, NATO,
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

Hy Lạp và Liên minh châu Âu (EU)
Liên minh châu Âu được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng
11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu dân, Liên minh
châu Âu chiếm khoảng 22% (16,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP danh nghĩa và
khoảng 17% (19,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP sức mua tương đương của thế
giới (PPP).
Liên minh châu Âu đã phát triển thị trường chung thông qua hệ thống luật pháp
tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do
của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU duy trì các chính sách chung về thương
mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa phương. 17 nước thành viên đã chấp
nhận đồng tiền chung (đồng Euro), tạo nên khu vực đồng Euro (Eurozone). Là tổ
chức quốc tế, Liên minh châu Âu hoạt động thông qua hệ thống chính trị siêu quốc
gia và liên chính phủ hỗn hợp. Những thể chế chính trị quan trọng của Liên minh
châu Âu bao gồm Ủy ban châu Âu, Nghị viện châu Âu Hội đồng Liên minh châu Âu,
Hội đồng châu Âu, Tòa án Công lý Liên minh châu Âu và Ngân hàng Trung ương
châu Âu.
Năm 1981, Hy Lạp trở thành một thành viên của Cộng đồng châu Âu (EC).
Năm 2001, Hy Lạp trở thành nước thứ 12 tham gia Khu vực các quốc gia sử dụng
đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), trước khi đồng tiền này bắt đầu lưu hành đầu
năm 2002.
Đến khi Hy Lạp khủng hoảng nợ, các nước Eurozone khác - lo sợ bị ảnh hưởng
nếu Hy Lạp vỡ nợ thì chi phí vay mượn của các nước khác trong Eurozone sẽ lên tới
mức không trụ được - cảm thấy họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ra tay
cứu trợ. Hy Lạp trở thành mắt xích yếu nhất của eurozone. Châu Âu không thể để Hy
2



Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đổ vỡ hệ thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền chung
và kéo theo nhiều quốc gia khác rơi vào hiệu ứng domino. Vì vậy, bộ ba, gồm Ủy ban
châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đã
đứng ra làm chỗ dựa.
II.

KHỦNG HOẢNG NỢ TẠI HY LẠP
II.1. Thực trạng nợ Hy Lạp
Hy Lạp ghi nhận khoản nợ chính phủ tương đương với 179%GDP của nước này vào
năm 2016. Nợ của Chính phủ đối với GDP ở Hy Lạp trung bình 97,36% từ năm 1980 đến
năm 2016, đạt mức cao nhất trong năm 2014 là 179,70% và thấp nhất là 22.60% năm 1980.
Biểu đồ: Nợ Công của Hy Lạp từ 2007 đến 2016 (%GDP)

Trong đó tổng số nợ Chính phủ Hy Lạp thì nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng chủ yếu
như sau:
Bảng: Nợ nước ngoài của Chính phủ Hy Lạp từ 2006-2016 (%GDP)
2
2
2
2
2
2
2
2
2
2
0
0

0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1
1
1
1
1
1
6
7
8
9
0
1
2
3
4
5
6
6

7
8
1
9
1
1
1
1
0,
6,
3,
4,
0
8,
2
3
3
3
1
1
2
2
0,
8
3,
2,
2,
7,
8
6

7
6
8
Nguồn: Eurostat
Hy Lạp tuyên bố vỡ nợ vào năm 2015, hiện có khối nợ nước ngoài khổng lồ
243 tỷ EURO (271 tỷ USD), trong đó Đức là chủ nợ lớn nhất. Một phần trong tổng
3


số nợ này là các khoản vay có được từ hai khoản bảo lãnh của chính phủ các nước
châu Âu và IMF dành cho Hy Lạp từ năm 2010, cũng như trái phiếu chính phủ Hy
Lạp do Ngân hàng Trung ương châu Âu và các ngân hàng trung ương khác nắm giữ.
II.2.
Diễn biến khủng hoảng nợ tại Hy Lạp.
Năm 2000, Hy Lạp gia nhập Eurozone: Tháng 6/2000, Hy Lạp được mời vào khu
vực đồng tiền chung. Sau khi gia nhập, nước này trở thành thành viên thứ 12 của eurozone,
bỏ đồng drachma để dùng euro. Để đạt chuẩn, nước này phải chứng minh có nền kinh tế
khỏe mạnh, đạt các tiêu chí về giá cả ổn định và tài chính công. Từ những ngày đầu gia
nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 1/2001 sau khi gây áp lực nhằm vượt qua
tiêu chuẩn nợ công 3% GDP của eurozone, Hy Lạp có một thời kỳ dài thâm hụt ngân sách.
Tăng trưởng GDP đạt 4,3% (2001 - 2007), cao hơn so với mức trung bình của eurozone là
3,1% nhưng chi tiêu chính phủ Hy Lạp tăng tới 87% trong khi mức thu chỉ tăng 37%.
Năm 2004, Hy Lạp tổ chức Olympic Athen
Giữa năm 2004, Hy Lạp chi tới 9 tỷ euro để tổ chức Olympic, biến Thế vận hồi mùa hè
2004 đã trở thành kỳ Olympic "đắt đỏ nhất" tại thời điểm đó. Tuy nhiên, những công trình
được xây dựng cho vận động viên, người hâm mộ và giới truyền thông sau đó lại hầu như
không được sử dụng và ngày càng xuống cấp, khiến nước này ngập chìm trong những
khoản nợ khổng lồ.
Olympic Athen được coi là nguyên nhân trực tiếp đẩy Hy Lạp vào cuộc khủng hoảng
nợ kéo dài cho đến tận hôm nay. Lạm chi cho Olympic đã làm tăng nợ công và thâm hụt

ngân sách của nước này. Sau công cuộc đầu tư "khủng" cho Thế vận hội Athens năm 2004,
Hy Lạp còn lại một ngân sách rỗng với tỷ lệ bội chi khoảng 8%, cao gấp gần 3 lần tiêu
chuẩn của eurozone.
Cuối năm 2004, Hy Lạp thừa nhận thổi phồng số liệu
Cuối năm 2004, Chính phủ Hy Lạp thừa nhận đã thổi phồng các số liệu điều kiện để
gia nhập eurozone, đặc biệt là thâm hụt ngân sách giai đoạn 2000 - 2003. Điều kiện của
eurozone là thâm hụt dưới 3% GDP. Tuy nhiên, sau một cuộc điều tra của cơ quan thống kê
Liên minh châu Âu – Eurostat, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp thừa nhận số liệu này chưa từng
dưới 3% từ năm 1999.
Năm 2008, Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, các ngành công nghiệp chủ đạo của Hy
Lạp đều bị ảnh hưởng mạnh. Ngành du lịch và vận tải biển đều có mức sụt giảm doanh thu
tới 15%. Nguồn thu để tài trợ ngân sách bị hạn chế, Chính phủ lại buộc phải tăng chi tiêu
công nhằm kích thích tăng trưởng. Tính đến tháng 1/2010, nợ công của Hy Lạp ước đạt 216
tỷ euro, nợ lũy kế bằng 130% GDP. Trong gần một thập kỷ, chính phủ Hy Lạp liên tục bán
trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD và đầu tư dàn trải vào cơ sở hạ tầng trong khi không
hề có kế hoạch trả nợ. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài khiến Hy Lạp dễ chịu
tổn thương khi niềm tin nhà đầu tư thay đổi.
Năm 2009, Chính phủ Hy Lạp bị hạ mức tín nhiệm
4


Cuối năm 2009, khi Chính phủ mới của nước này - tân thủ tướng George Papandreou
thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số liệu kinh tế không trung thực,
đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân sách của nước này năm 2009 là
13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã từng được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức
thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối với các nước thành viên EU. Tình trạng tiết kiệm
thấp và vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công vẫn diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn 20022007 là một trong những nguyên nhân giúp tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế lên
mức 4.2%/năm. Hàng loạt tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên
thị trường tài chính. Ngày 7/12/2009, S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A- với triển vọng

kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch cũng đánh tụt điểm số này từ A- xuống còn BBB+.
Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên tới con số 330
tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán dù Hy Lạp có thực
hiện được kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn
tăng lên mức 172% GDP.
Năm 2010, Hy Lạp đồng ý chính sách thắt lưng buộc bụng và nhận gói cứu trợ
đầu tiên
Tháng 3/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua gói chính sách thắt lưng buộc bụng, bao
gồm từ việc cắt giảm lương nhân viên nhà nước, ngừng trả lương hưu cho tới việc tăng thuế
với thuốc lá, rượu và xăng dầu. Các công đoàn đã phản ứng một cách mạnh mẽ với chính
sách này và tổ chức một loạt các cuộc biểu tình trên khắp Athens.
Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố gói
cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010, IMF
cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ euro (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp mà
IMF dành để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ euro (tương đương 13,98
tỷ USD). Những ngày cuối tháng 12/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách
với dự báo thâm hụt 9,1%. Định mức tín nhiệm quốc gia này tiếp tục bị đánh tụt về mức
BBB- của S&P. Một lần nữa, Quốc hội nước này lại điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách về
8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây, Hy Lạp rơi vào thời gian dài bất ổn xã hội
do làn sóng biểu tình phản đối của người dân.
Từ tháng 5/2010 đến tháng 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã mua
khoảng 45 tỷ euro trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra các khoản hỗ trợ thanh khoản mà
ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ vào tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ
euro vào tháng 5/2011. Hy Lạp tiếp tục bán trái phiếu để có tiền cho ngân sách. Lãi suất trái
phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 1/2010, lên
9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm vào tháng 7/2011.
Ngày 21/10/2011, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm chính sách mới bao gồm
tăng thuế, cắt giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lức nợ công lên tới 162%
GDP. Sau nhiều lần trì hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối
5



cùng của Châu Âu là Đức thông qua nhằm giúp đưa nợ công quốc gia này giảm về gần
121% GDP vào năm 2020.
Năm 2011, Hy Lạp được giảm nợ
Tháng 10/2011, Sau khi tổ chức nhiều cuộc đàm phán, lãnh đạo các nước châu Âu đã
đồng ý giảm nợ cho Hy Lạp do nước này vẫn đang tiếp tục gặp khó khăn về tài chính. Đổi
lại, các nhà đầu tư cá nhân sẽ chỉ được nhận 50% giá trị số trái phiếu Hy Lạp họ đang giữ.
Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm
khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và
Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens cũng bị một
hãng định mức tín nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần.
Năm 2014, Hy Lạp quay trở lại thị trường Trái phiếu
Tháng 4/2014, Hy Lạp quay trở lại thị trường trái phiếu sau 4 năm. Nhu cầu trái phiếu
kỳ hạn 5 năm của nước này đã khiến nhiều người gọi đây là "điểm bắt đầu của sự kết thúc"
cho hoạt động cứu trợ Hy Lạp, dù nhận định này vào thời điểm đó có vẻ còn quá sớm.
Năm 2015, Chính trị Hy Lạp thay đổi, Đảng Syriza phản đối chính sách thắt lưng
buộc bụng lên nắm quyền
Tháng 1/2015, Đảng Syriza - Đảng phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng tại Hy
Lạp được dẫn đầu bởi ông Alexis Tsipras đã giành chiến thắng, sau đó liên minh với đảng
cánh hữu - Đảng Hy Lạp Độc lập. Chính quyền mới đã cam kết gỡ sẽ bỏ các biện pháp thắt
lưng buộc bụng đang đè nặng lên Hy Lạp nhưng chính điều này lại khiến nhà đầu tư lo ngại
về khả năng Hy Lạp sẽ buộc phải rời bỏ khu vực đồng euro.
• Tháng 2/2015, Eurozone chấp thuận gia hạn gói giải cứu
Tháng 2/2015, Nhóm Bộ trưởng Tài chính các nước eurozone (Eurogroup) đã chấp
thuận gia hạn nợ thêm 4 tháng cho Hy Lạp, sau khi Chính phủ mới của nước này nộp đề
xuất cải tổ chính sách ngay trước thời điểm hết hạn. Các biện pháp này bao gồm việc kiểm
soát chi tiêu ngân sách, giảm tham nhũng và trốn thuế. Hy Lạp sau đó được yêu cầu thanh
toán cho các chủ nợ trong giai đoạn tháng 4 - tháng 6/2015, tuy nhiên Hy Lạp đã không thực
hiện được. Tháng 6/2015, Hy Lạp và bộ ba "chủ nợ" liên tiếp thất bại trong việc đàm phán

về các điều kiện cải tổ để nước này được nhận khoản cứu trợ cuối cùng trị giá7,2 tỷ euro,
khiến Athens gặp khó khăn trong việc thanh toán 1,5 tỷ eurocho Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
vào ngày 30/6, và sau đó là ECB vào tháng7. Nếu không trả nợ đúng hạn, Hy Lạp sẽ bị
tuyên bố vỡ nợ và có khả năng phải rời khỏi eurozone.
Tháng 6/2015, Hy Lạp tuyên bố không trả tiền cho IMF
Ngày 27/6/2015, Bước ngoặt đã xảy ra, Thủ tướng Alexis Tsipras kêu gọi cuộc trưng
cầu dân ý về các biện pháp thắt lưng buộc bụng của nhóm chủ nợ và ngay sau đó, eurogroup
đã từ chối bản kế hoạch gia hạn gói cứu trợ thêm một tháng mà Hy Lạp đã đề xuất. Lo ngại
hệ thống ngân hàng sụp đổ, người dân đổ xô rút tiền, Chính phủ còn phải áp dụng các biện
pháp kiểm soát vốn, đóng cửa ngân hàng, thị trường chứng khoán, hạn chế rút tiền mặt tại
ATM và giao dịch nước ngoài. Ngày 30/6/2015, Thủ tướng đưa ra tuyên bố trên sóng truyền
6


hình rằng Hy Lạp sẽ không trả tiền cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và tự tin rằng các lãnh
đạo châu Âu sẽ không ra tay để đẩy Hy Lạp ra khỏi eurozone. Ngay tối hôm đó, Hy Lạp
cũng gửi kèm một kế hoạch tái cấu trúc nợ, kèm đề xuất chương trình cứu trợ kéo dài 2 năm
từ Cơ chế Bình ổn châu Âu (ESM).
Ngày 1/7/2015, Hy Lạp chính thức bị tuyên bố vỡ nợ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
phát đi thông báo xác nhận quốc gia này không trả nợ theo đúng hạn định đã yêu cầu. Đây
là lần đầu tiên trong lịch sử, một nền kinh tế phát triển như Hy Lạp bị IMF kết luận như
vậy.Với tuyên bố này, Hy Lạp mặc nhiên không được quyền tiếp cận bất cứ khoản vay nào
của quỹ cho tới khi thanh toán xong nghĩa vụ nợ cũ. Thủ tướng Đức Angela Merkel tuyên
bố chỉ nối lại đàm phán khi nào Hy Lạp hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho IMF.
II.3.
Nguyên nhân.
II.3.1. Nguyên nhân nội tại.
II.3.1.1.Vay nợ nước ngoài và chi tiêu công không hiệu quả
Gia nhập khu vực đồng tiền chung Euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp
cận với thị trường vốn quốc tế. Dễ dàng hút vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ Hy Lạp đã

liên tục bán trái phiếu thu về hàng trăm tỷ euro. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp
tiến xa nếu Chính phủ có kế hoạch chi tiêu và trả nợ hợp lý. Nhưng Chính phủ chỉ biết chi
tiêu, mà phần lớn cho cơ sở hạ tầng mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.
Điển hình là công tác tổ chức Thế vận hội Olympic Athens 2004, một thế vận hội hoành
tráng và tốn kém nhất trong lịch sử (chi đến 12 tỷ Euro, cao hơn tới 10 tỷ so với dự kiến).
Chỉ riêng ngân sách quốc gia năm 2004 đã thâm hụt tới 6,1% so với GDP trong khi giới hạn
mà EU cho phép là 3%.
Bộ máy công quyền không ngừng lớn mạnh về số lượng, nhưng chất lượng, hiệu quả
công việc lại giảm đi rất nhiều. Theo Bộ Tài chính Hy Lạp, trong năm 2009, Bộ này đã
tuyển dụng tổng cộng khoảng 27.000 công chức mới, trong khi số lượng thực sự cần thiết
chỉ chiếm 2/3,lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người làm công ăn lương ở nước
này. Nhưng những người được gọi là công chức Nhà nước, dù làm ít hay nhiều vẫn được
hưởng mức lương khá cao so với mức lương bình quân ở những khu vực khác.
Tất nhiên, hậu quả là ngân sách Hy Lạp năm nào cũng bị bội chi. Thâm hụt ngân sách
liên tục tăng cao. Và đến năm 2009 đạt đến mức 12,7%. Với mức thâm hụt lớn như vậy làm
cho tổng số nợ quốc gia của Hy Lạp lên tới con số 300 tỷ euro vào năm 2009. Số nợ này
được coi là quá lớn, vì nó tương đương với 113,4% GDP một năm của Hy Lạp. Con số này
không chỉ làm Chính phủ Hy Lạp lo ngại mà ngay cả EU cũng phải vội vã tìm cách trợ giúp
để cứu vãn nền kinh tế Hy Lạp, tránh một sự phá sản Nhà nước có thể ảnh hưởng dây
chuyền tới tất cả các nước thành viên trong EU.
II.3.1.2.Nguồn thu của Ngân sách hạn chế do Tham nhũng, hối lộ, trốn thuế có hệ
thống
Hy Lạp là một trong những nước có nạn tham nhũng nghiêm trọng nhất EU. Dựa theo
CPI (chỉ số nhận thức tham nhũng) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), Hy Lạp đứng cuối
7


cùng, sau cả Rumani và Bungari. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp được ước tính
vào khoảng 8% GDP. Nói cách khác, khoảng hơn 50% số thâm hụt ngân sách năm 2009 của
Hy Lạp là do tham nhũng mà ra. Và điều thật nghịch lý, theo các nhà phân tích, chính sự trợ

giúp của EU trong những năm qua lại là “đòn bẩy” khiến tham nhũng ở Hy Lạp tăng lên
nhanh chóng. Chỉ tính trong vòng 3 thập kỷ kể từ khi Hy Lạp gia nhập EU, nước này đã
nhận được tổng cộng khoảng 300 tỷ euro tiền trợ cấp từ EU. Vậy mà, họ vẫn lâm vào cuộc
khủng hoảng nợ trầm trọng. Còn EU, lại một lần nữa phải “bơm tiền”.
Do tham nhũng, nhận hối lộ diễn ra tràn lan ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội nên
việc hối lộ cũng được coi là bình thường khi người dân quan niệm, đi hối lộ để “đôi bên
cùng có lợi”. Chỉ tính riêng trong năm 2009, tổng số tiền mà người dân Hy Lạp dùng để hối
lộ lên đến 800 triệu euro, trong đó phần lớn tập trung ở lĩnh vực y tế và xây dựng cơ bản.
Người dân thực hiện hành vi hối lộ để đạt được những mục đích của riêng họ còn giới kinh
doanh thì việc hối lộ là để có được những hợp đồng “béo bở” hay tiến hành đút lót để trốn
thuế, gia tăng thu nhập cho cá nhân và công ty. Theo giới nghiên cứu, tỷ lệ thất thoát thuế ở
Hy Lạp thuộc hàng lớn nhất châu Âu và cũng là con số khá cao trên thế giới khi hàng năm,
số tiền thuế thất thoát lên tới 25%. Chính Bộ Tài chính Hy Lạp cũng khẳng định, ở một
nước phát triển như Hy Lạp, với dân số hơn 11 triệu người nhưng lại chỉ có khoảng 15
nghìn người kê khai có mức thu nhập trên 100.000 euro/năm, quả là có vấn đề. Hy Lạp có
một hệ thống tài khóa khá ọp ẹp, trong đó nền kinh tế ngầm ước tính có quy mô tương
đương 20-30% nền kinh tế chính thức, và giá trị trốn thuế hàng năm có thể lên tới 30 tỷ
USD. Chỉ cần thu đủ thuế là đủ sức đưa thu chi của Athens trở lại với trạng thái cân bằng,
nhưng biện pháp đơn giản này xem ra vô cùng khó thực hiện
II.3.1.3.Cơ cấu vốn vay bất hợp lý: chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn
. Một điều đáng chú ý là sự chi tiêu lãng phí của Chính phủ Hy Lạp lại dựa trên cơ cấu
nợ bất hợp lý, khi mà hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả
trong năm 2010 là 16% tổng nợ. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp là 108,1, khoản nợ đến
hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày
19-5-2010. Khi các khoản vay ngắn hạn chưa phát huy được hiệu quả thì chính phủ lại lo trả
nợ. Điều này càng làm gia tăng áp lực nợ lên chính phủ.
Biểu đồ: Tỷ trọng nợ Công Hy Lạp theo kỳ hạn Tháng 4/2010

8



Tỷ trọng nợ Công Hy Lạp theo kỳ hạn
Tháng 4/2010
9.00%

16.00%

11.00%
22.00%

Dưới 1 năm
3 năm
5 năm
10 năm
15 năm
Khác

23.00%

19.00%

II.3.2. Các nguyên nhân ngoại sinh
II.3.2.1.Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các
quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn
và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối
với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức.Việc gia nhập
vội vã của Hy Lạp đã bộc lộ những mặt trái của nó. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên
hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào
cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ

thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao.
Theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng
hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách
chung của EU. Các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ
nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU còn các quốc gia nhỏ hơn, ở vị
trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa
nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình nên nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Ngoài
ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do
hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho
công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách.
II.3.2.2.Thiếu sót trong cơ cấu của Hiệp định Maastricht làm cho Chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa không thống nhất
Trong điều kiện nền kinh tế không có khủng hoảng, việc duy trì cam kết giữ mức thâm
hụt ngân sách nhà nước ở mức 3% GDP và tổng nợ công không được vượt quá 60% GDP
không gặp khó khăn gì đặc biệt. Nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm
2008, hầu hết các nước tham gia hệ thống đồng euro đã buộc phải phá rào trước cả hai điều
khoản nói trên để cứu nguy ngành ngân hàng, và qua đó, cứu nguy nền kinh tế. Đặc biệt,
9


đáng lo ngại là mức thâm hụt ngân sách của 4 nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ai Len, Hy
Lạp đã lên tới 9-14%, vượt xa quy định của Hiệp ước Maastricht.
Trước khủng hoảng, Hy Lạp có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trong khối EU nhờ tập trung
phát triển các ngành dịch vụ, ngân hàng, du lịch và địa ốc. Tuy nhiên, kinh tế ngầm chiếm
tới hơn 30% GDP và sản xuất kém phát triển nên nước này luôn phải nhập siêu. Khủng
hoảng nổ ra, nợ công lên tới 115% GDP (gấp đôi quy định của hiệp ước) và thâm hụt ngân
sách quốc gia là 14% GDP (cao hơn quy định 3,5 lần). Khả năng thanh toán nợ của Chính
phủ Hy Lạp bị nghi ngờ và các nhà đầu tư vội vã rút vốn khỏi Hy Lạp và không cho Chính
phủ nước này vay thêm tiền. Việc cam kết giảm thâm hụt ngân sách về mức 3% được xem
như bất khả thi do: thứ nhất, Hy lạp không thể hạ giá đồng euro để khuyến khích xuất khẩu,

thứ hai là Chính phủ không thể tự ý điều chỉnh lãi suất cơ bản để vực dậy nền kinh tế. Nếu
đứng ngoài khối euro, làm hai việc trên không khó đối với Hy Lạp.
Hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu
(ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách
tiền tệ theo mục tiêu lạm phát. Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định
đồng euro. Nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử
dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển. Các quốc gia
thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách
tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung.
Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần
có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là
rào cản đối với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc
vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính
của từng quốc gia quyết định. Quyết định của Bộ Tài chính phụ thuộc vào chính sách tài
khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn như Hy Lạp,
thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành
trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng
nợ do mất khả năng chi trả là một điều hoàn toàn có thể dự đoán trước được.
II.4.
Hậu quả
II.4.1. Đối với Hy Lạp.
GDP giảm mạnh: cuối năm 2009, khi khủng hoảng nợ công xảy ra làm cho các nhà
đầu tư lo ngại về khả năng trả nợ của Hy Lạp và họ ồ ạt rút vốn ra khỏi thị trường Hy Lạp
nên GDP giảm xuống còn 330 tỷ đô và giảm mạnh qua các năm còn 194.86 tỷ đô năm 2015.
Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng: khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt
đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước
đã chi ra trong những năm gần đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư,
kìm hãm sự phục hồi kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn đến tình trạng việc làm
giảm, thất nghiệp gia tăng. Từ sau khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp từ 7% năm 2008 tăng

10


mạnh qua các năm và đạt cao nhất là 28% năm 2013. Mặc dù giai đoạn sau có giảm xuống
nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn duy trì mức cao hơn 20%.
Nợ Chính phủ gia tăng: nợ chính phủ tăng mạnh sau thời gian khủng hoảng đạt mức
kỷ lục vào năm 2014 vào khoảng 370 tỷ đô. Nợ chính phủ trên GDP từ 103.1% tăng mạnh
qua các năm đạt mức cao nhất vào năm 2014 khi nợ chính phủ chiếm 179,7% trên GDP.
Ngân sách chính phủ luôn ở tình trạng thâm hụt mạnh trong giai đoạn khủng hoảng
đạt mức cao nhất là 15.1 % GDP năm 2009. Tuy có sự giúp đỡ của các gói cứu trợ, các
chính sách của Hy Lạp nhưng ngân sách chính phủ vẫn không thoát khỏi tình trạng thâm hụt
của mình. Năm 2014, mức thâm hụt ngân sách chính phủ là 3.7% GDP thấp nhất trong thời
kỳ khủng hoảng nợ do thị trường trái phiếu chính phủ 5 năm tăng trưởng , tuy nhiên không
lâu sau đó tăng lên 5.9% năm 2015 khi Hy Lạp tuyên bố vỡ nợ.
Khả năng thanh toán:
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng quyết định không tăng trần hỗ trợ thanh
khoản khẩn cấp cho các ngân hàng Hy Lạp, sau khi nước này bị tuyên bố vỡ nợ. Hiện các
ngân hàng Hy Lạp vẫn đóng cửa và hạn chế số tiền có thể rút từ ATM mỗi ngày là 60 euro.
Việc Hy Lạp đang tiến gần đến bờ vực phá sản và có nguy cơ rời khỏi Eurozone, tuy nhiên
không có gì đảm bảo nền kinh tế của Hy Lạp có thể khởi sắc. Ngân hàng Trung ương Hy
Lạp đã vẽ ra một bức tranh hết sức ảm đạm về viễn cảnh kinh tế nước này sau khi ra khỏi
khối, đó là: chìm vào suy thoái sâu, thất nghiệp tăng vọt và thu nhập của người dân giảm
sút. Các khoản tiết kiệm của người dân Hy Lạp sẽ bị mất giá, trong khi nước này sẽ càng
khó vay vốn trên thị trường nợ quốc tế, khiến cho việc hồi phục kinh tế càng trở nên xa vời.
Giá trái phiếu giảm, lãi suất trái phiếu tăng
Từ năm 1998 đến năm 2011 Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình 5,21 %,
đạt mức cao lịch sử 11,39 % trong tháng 12 năm 2010 và một mức thấp kỷ lục 3,23% trong
tháng 9 năm 2005. Lãi suất trái phiếu của Hy Lạp thời gian gần đây tăng cao vì khủng
hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, do đó chính phủ cần huy động vốn để trả nợ
buộc phải phát hành trái phíếu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu

chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động
được người mua. Vào tháng 04/2010, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P, Moody’s và
Fitch Rating đã hạ bậc trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống mức rủi ro cao. S&P ước tính
trong trường hợp Hy Lạp mất khả năng thanh toán, nhà đầu tư có thể mất 30-50% giá trị
khoản đầu tư. Ngay lập tức sau đó lợi tức trái phiếu chính phủ Hy Lạp đã tăng mạnh. Điều
này đã khiến cho chính phủ Hy Lạp gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động vốn trên
thị trường tài chính quốc tế để tái cấu trúc các khoản vay.
II.4.2. Đối với Eurozone và Thế giới
Tuy Hy Lạp chỉ là một quốc gia nhỏ bên bờ Địa Trung Hải, nền kinh tế nhỏ so
với đa số các nước khác trong khu vực đồng tiền chung châu Âu nhưng cuộc khủng
hoảng này có ảnh hưởng không nhỏ tới tính ổn định và thậm chí số phận của đơn vị
tiền tệ châu Âu. Mặt khác, nó còn ảnh hưởng đến quá trình nhất thể hóa một Liên
11


minh châu Âu (EU) với 27 thành viên. Hệ lụy là Eurozone có thể bị tan vỡ và đồng
euro sẽ không thể tồn tại. Khủng hoảng nợ công của của Hy Lạp nói chung và nợ
nước ngoại nói riêng cũng có khả năng lây lan thành một đợt rối loạn tài chính toàn
cầu mới.
- Ảnh hưởng xấu tới tình hình các nước trong khối liên minh EU
Khủng hoảng ở Hy Lạp là một trong những nguyên nhân khiến cho sự phục hồi
đồng tiền chung Châu Âu chậm hơn, đã khiến giới đầu tư bắt đầu nghi ngờ độ tin cậy
của một số nền kinh tế thuộc khu vực đồng euro như Bồ Đào Nha, Italia, Ailen và
Tây Ban Nha đều có các khoản thâm hụt tài chính lớn. Nợ công tại các nước này,
thấp nhất cũng là 59,5%, cao nhất là 115,2%% GDP.
Những quốc gia nắm giữ trái phiếu do chính phủ Hy Lạp phát hành có thể bị
mất 50% hoặc mất trắng, ảnh hưởng xấu đến ngân sách của các chủ nợ như Pháp,
Đức, Thụy Sĩ,…Điều này cho thấy các nước trong khu vực cũng đang ngập trong nợ
và tình trạng thâm hụt đến mức đáng báo động. Khu vực đồng tiền chung Châu Âu
có mối quan hệ mật thiết với nhau giữa các thành viên từ đó khủng hoảng ở Hy Lạp

là bắt đầu cho các cú sốc khác về nợ do chịu tác động nặng nề từ khủng hoảng tài
chính như các quốc gia Ireland, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Hai quốc gia cũng
đang trên bờ khủng hoảng là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong đó Tây Ban Nha có
tổng nợ là 1100 tỷ đô la Mỹ gấp bốn lần món nợ của Hy Lạp còn Bồ Đào Nha thì có
tổng nợ là 206 tỷ đô la Mỹ. Các quốc gia đều có các món nợ chồng chéo lẫn nhau
ngay cả những quốc gia đứng đầu vốn là chỗ dựa vững chắc cho cả khu vực như
Pháp và Đức cũng đứng trước nguy cơ tàn phá của bão nội công.
Tình hình chính trị xã hội bất ổn ở các nước trong khối liên minh Châu Âu xảy
ra những cuộc tranh luận sôi nổi. Từ lâu nay, hệ thống phúc lợi xã hội Châu Âu – xây
dựng sau chiến tranh thế giới lần thứ II – được coi như một viên đá tảng của việc chia
sẻ phồn vinh nhằm ngăn ngừa xung đột tương lai. Nhưng hệ thống lý tưởng đó đang
bị đe dọa bởi làn sóng nợ nần đang bộc lộ ngày càng lớn. Hậu quả là do một thời gian
dài “vung tay quá trán” đã khiến nhiều nước châu Âu, bị thủng chiếc túi “ngân sách”
và buộc phải cắt giảm chi tiêu nhằm tránh một cuộc đổ vỡ dây chuyền.
- Tác động đến thị trường tài chính và ngân hàng Châu Âu
Trước nguy cơ Hy Lạp có khả năng bị khai trừ khỏi EU điều này khiến cho
những ngân hàng Châu Âu phải bối rối trước những khoảng nợ của quốc gia. Một số
quốc gia có tình trạng tài chính không ổn định, họ có thể bán tháo các khoảng đầu tư
tại các nước mà họ bị mất tiền buộc các nước này phải trá giá cao hơn nếu tiếp tục
vay tiền. Điều này khiến cho các khoảng nợ ngày càng chồng chất, các quốc gia này
rơi vào vòng xoáy nợ nần và tình trạng này có thể lan sang các nước khác nữa.
Từ cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài ở Hy Lạp dẫn đến các cuộc nợ công ở
Châu Âu khiến giá trái phiếu bị sụt giảm và lợi tức tăng cao. Các nhà đầu tư hạn chế
đổ vốn vào ngân hàng Châu Âu do các ngân hàng đang giữ các trái phiếu chính phủ
12


điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu là các ngân hàng khó khăn trong vấn đề thanh
khoản, doanh số cho vay của các ngân hàng giảm kể cả cho vay lẫn nhau đồng thời
làm tăng lượng tiền gửi tại ngân hàng trung ương Châu Âu. Ngày 9/6/2008 lượng

tiền mặt tại ngân hàng trung ương Châu Âu tăng kỉ lục 369 tỷ euro. Từ đó nguồn vốn
bị ứ đọng, nhiều định chế tài chính Châu Âu tiếp tục lệ thuộc vào nguồn tài trợ từ các
ngân hàng trung ương làm các ngân hàng trong khối liên minh Châu Âu đang đứng
trước nguy cơ mất thanh khoản và rủi ro vỡ nợ cao.
-Tác động đến đồng Euro:
Do tác động nặng nề của sự suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 và thâm hụt tài
chính tại Hy Lạp thì đồng Euro phải chịu tác động kép. Cuộc khủng hoảng nợ của Hy
Lạp làm đồng tiền Euro liên tục giảm giá so với đồng USD và một số đồng tiền mạnh
khác đồng thời tác động mạnh đến thị trường chứng khoán Châu Âu và thị trường tài
chính toàn cầu. Trong suốt khoảng thời gian 2009-2010, cuộc khủng hoảng đã khiến
niềm tin các nhà đầu tư vào đồng tiền Euro ngày càng giảm. Đến tháng 7/2010, Euro
đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với GBP và 20% so với JPY, tỷ giá
Euro/USD trượt thẳng về mức thấp nhất trong thời kỳ khủng hoảng.
Dự trữ ngoại hối bằng Euro trên phạm vi toàn cầu cũng sụt giảm đáng kể do
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Hy Lạp.Theo báo cáo chính thức của IMF thì
đến quý II năm 2010 thì tỷ lệ dữ trữ của USD tăng từ 61,7% lên 62,1% và đồng Yên
Nhật tăng từ 3,1%lên 3,3% nhưng đồng Euro giảm còn 26,5% so với 27,2% trong
quý I.
II.5.
Vai trò Pháp, Đức và quan điểm của các nước EU khác.
Khủng hoảng tại Hy Lạp là thách thức đầu tiên cho Eurozone trong quá trình phát triển
thành một “siêu quốc gia” của mình. Khi Hy Lạp mất khả năng trả nợ nước ngoài thì khu
vực đồng tiền chung Châu Âu sẽ bị ảnh hưởng, điều này phải có người đứng ra chịu trách
nhiệm giải cứu chính là nước Đức và Pháp, hai nước có nền kinh tế lớn và mạnh nhất Châu
Âu. Đức và Pháp là hai quốc gia đầu tàu trong khối liên minh Châu Âu, luôn là chỗ dựa cho
các quốc gia khác trong khu vực. Đức là nước đông dân nhất và cũng là cường quốc kinh tế
mạnh nhất ở châu Âu. Đức đóng vai trò bản lề quan trọng trong việc giúp EU tìm ra lối
thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế, nhất là khi việc đó trùng với lợi ích quốc
gia của Đức. Thêm nữa, tầm ảnh hưởng của Đức không chỉ gói gọn trong những vấn đề kinh
tế và tài chính hay cải cách chính trị mà còn mở rộng sang lĩnh vực chính sách an ninh và

ngoại giao. Đức luôn có ngân sách thặng dư là do tiêu xài đúng mực mà thậm chí là tiết
kiệm còn Hy lạp thì ngược lại tiêu xài hoang phí. Nên theo quốc gia này thì việc cứu Hy
Lạp sẽ tạo ra những hệ lụy và bất công đối với các quốc gia khác.
Chính vì vậy, Đức thể hiện quan điểm rất cứng rắn, Thủ tướng Đức Angela Merkel
tuyên bố rằng Đức sẽ không chống lưng cho trái phiếu euro do các chính phủ phát hành.
Đồng thời thể hiện quan điểm Hy Lạp muốn được cứu trợ thì cần phải thực hiện chính sách
thắt lung buộc bụng, và cũng bỏ ngỏ khả năng Hy Lạp sẽ rời khỏi Eurozone.
13


Trong Khi Đức đã từng có ý định để Hy Lạp rời khỏi Eurozone thì Pháp ra sức tìm
kiếm giải pháp để Hy Lạp ở lại. Theo quan điểm của Tổng thống Pháp thì nhiệm vụ của các
quốc gia lớn là phải đảm bảo cho Hy Lạp ở lại trong Eurozone, và cần tìm kiếm sự đồng
thuận thông qua đàm phán, Pháp sẽ đấu tranh cho điều đó chứ không muốn sử dụng quyền
phủ quyết hay những biện pháp nặng nề.
Mặc dù đối lập nhau về quan điểm, nhưng cả Đức và Pháp đều nhấn mạnh rằng Hy
Lạp cần phải cải cách để có thể giải ngân gói cứu trợ lần thứ 3. Tuy nhiên, trong khi Đức tỏ
ra cứng rắng thì Pháp lại cảnh báo về một nguy cơ thất bại trong việc đạt được một thỏa
thuận có thể tác động tiêu cực đến toàn bộ Eurozone. Nước Pháp đã từng thừa nhận rằng
nếu Hy Lạp không thể ở lại thì Pháp cũng có thể rơi vào tình cảnh tương tự. Tổng thống
Pháp đang bị áp lực lớn từ cánh tả là Đảng xã hội của ông trong việc thể hiện rằng ông đang
nỗ lực tối đa để giúp cho Hy Lạp. Tuy nhiên Thủ tướng Đức lại muốn một vai trò cứng rắn
hơn bởi bà đang lãnh đạo Phe Bảo Thủ. Ngoài ra, Đức cũng muốn thể hiện vị trí của mình
tại EU, chi tiêu tiêu dùng đang trên đà tăng trưởng tại nền kinh tế lớn nhất Châu Âu này.
Để nhận được gói cứu trợ thứ 3, tháng 07/2015, thủ tướng Hy Lạp chấp nhận yêu cầu
của Đức là bán 50 tỷ euro tài sản quốc gia vào một quỹ ủy thác ở Luxemboug do Ngân hàng
Phát triển quốc gia Đức quản lý để bán dần khối tài sản này và chấp nhận việc Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF) quản lý chặt chẽ việc thực thi gói cứu trợ 86 tỷ euro, đồng nghĩa với việc
chính quyền Athens đánh mất quyền tự chủ để nhận gói cứu trợ này. (theo Reuters)
Thỏa thuận "lịch sử" cứu vãn kịch bản Grexit (Hy Lạp rời eurozone) được dư luận

trong nước và quốc tế hoan nghênh.
Chủ tịch Quốc hội liên bang Đức Norbert Lammert cho biết Quốc hội Đức sẽ biểu
quyết việc triển khai các cuộc đàm phán chính thức về gói cứu trợ thứ 3 cho Hy Lạp vào
sáng ngày 17-7. Nhưng trước đó, Quốc hội Hy Lạp phải thông qua các biện pháp cải cách
như đã thống nhất với các đối tác eurozone.
Thủ tướng Ý Matteo Renzi hoan nghênh kết quả đạt được sau các cuộc đàm phán kéo
dài và căng thẳng tại Brussels (Bỉ). Các cuộc đàm phán nhiều lần tưởng như đổ vỡ nhưng
cuối cùng đã tìm được lối thoát cho cuộc khủng hoảng Hy Lạp.
Trong khi đó, Thủ tướng Tây Ban Nha Mariano Rajoy đánh giá thỏa thuận với Hy Lạp
là mang tính "cân bằng" và có thể giúp khôi phục nền kinh tế Hy Lạp cũng như củng cố
eurozone. Tổng Thư ký Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) Jens Stoltenberg
cũng hoan nghênh thỏa thuận giữa Hy Lạp và châu Âu, coi sự ổn định của nước này là cần
thiết với an ninh của các nước thành viên trong khối.
III.
Kết Luận.
Nghiên cứu về nợ công nói chung hay nợ nước ngoài nói riêng thì những
nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng của nó để từ đó có được những giải pháp phù
hợp trong việc quản lý nợ công và ngăn ngừa khủng hoảng nợ công là vấn đề cấp
bách và cần được thực hiện ngay. Bài học về Hy Lạp sẽ là tấm gương tốt cho
14


chính phủ Việt Nam trong quản lý ngân sách, nợ công và ra các quyết định liên
quan định hướng đúng đắn cho con đường phải đi sau này. Một số biện pháp giúp
Việt Nam ta hạn chế rơi vào khủng hoảng nợ công hay nợ nước ngoài thì Việt
Nam ta nên thực hiện:
Tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế
Tăng năng suất , cải thiện năng suất lao động bằng cách nâng cao kiến thức, kỹ
năng nghề cho người lao động để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tăng cường khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường đối thoại xã hội, nâng cao

năng lực và vai trò của đại diện công đoàn tại cấp cơ sở, phát huy được tiếng nói của
mình trong các vụ tranh chấp, đình công của người lao động.
Tiếp tục hoàn thiện các thể chế và xây dựng khung pháp lý, thực hiện thu chi ngân
sách một cách hợp lý nhất.
Hoàn thiện Luật quản lý nợ công
Đảm bảo an toàn, bền vững nợ như tăng cường quản lý giám sát chi tiêu công,
tăng cường công tác quản lý rủi ro.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4.
5.
6.
7. />8.
9.
10.
11.
12. />13.
14.
15.
16.
17. Hồ sơ sự kiện, Chuyên san của Tạp chí Cộng Sản, Số 126, 30/07/2010.
18. A short guide to the euro, Euro Commission, 2006.
19. The European Union budget at a glance, Euro Commission, 2010.
20. Frederic S. Mishkin; Economics of Money, Banking, and Financial Markets, 7th
edition.
21.Frederic S. Mishkin and Stanley G. Eakins; Financial Markets and Institutions,
fourth edition.

22. Jeff Madura; Financial Markets and Institutions, 7th edition.
23. TS Nguyễn Đức Hưởng (Chủ biên); 2010; Khủng hoảng Tài chính toàn cầu- Thách
thức với Việt Nam.
24. Pascal Fontaine; Europe in 12 lessons; 2006; Euro Commission.

16



×