BỘ GIÁO DỤC và ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHĂN NUÔI – THÚ Y
****************
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
XÁC ĐỊNH THỜI GIAN VÀ LƯỢNG NƯỚC TỐI ƯU ĐỂ
LẮNG GẠN CHẨN ĐOÁN MỘT SỐ GIUN SÁN PHỔ BIẾN
Ở LOÀI NHAI LẠI
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN ÁNH CHUNG
Lớp: DH06TY
Ngành: Thú Y
Niên khóa: 2006 – 2011
Tháng 8/2011
BỘ GIÁO DỤC và ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHĂN NUÔI – THÚ Y
****************
NGUYỄN ÁNH CHUNG
XÁC ĐỊNH THỜI GIAN VÀ LƯỢNG NƯỚC TỐI ƯU ĐỂ
LẮNG GẠN CHẨN ĐOÁN MỘT SỐ GIUN SÁN PHỔ BIẾN
Ở LOÀI NHAI LẠI
Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu cấp bằng Bác sĩ thú y
Giáo viên hướng dẫn
TS. LÊ HỮU KHƯƠNG
Tháng 08/2011
i
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Họ tên sinh viên thực tập: NGUYỄN ÁNH CHUNG
Tên khóa luận tốt nghiệp: “Xác định thời gian và lượng nước tối ưu để lắng gạn
chẩn đoán một số giun sán phổ biến ở loài nhai lại”.
Đã hoàn thành luận văn theo yêu cầu của giáo viên hướng dẫn và các ý kiến nhận
xét đóng góp của Hội đồng chấm thi tốt nghiệp khóa 32.
Giáo viên hướng dẫn
(ký tên)
TS. Lê Hữu Khương
ii
LỜI CẢM TẠ
Chân thành cảm ơn
Ban giám hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh và ban
chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Toàn thể quý thầy cô của khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình truyền đạt kiến
thức và kinh nghiệm cho tôi trong suốt những năm vừa qua.
TS. Lê Hữu Khương đã hết lòng hướng dẫn và động viên để em hoàn thành
tốt khóa luận tốt nghiệp.
Chị Dương Tiểu Mai đã giành nhiều thời gian để hỗ trợ và tạo mọi điều kiện
thuận lơi cho tôi thực hiện đề tài này.
Xin cảm ơn
Gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh chia sẻ, giúp đỡ và động viên tinh thần
giúp tôi hoàn thành tốt khóa luận.
iii
TÓM TẮT
Đề tài “Xác định thời gian và lượng nước tối ưu để lắng gạn chẩn đoán
một số giun sán phổ biến ở loài nhai lại” được thực hiện từ tháng 2/2011 đến tháng
6/2011, tại phòng thực hành Ký sinh trùng trường Đại học Nông Lâm Thành phố
Hồ Chí Minh.
Có bốn loại trứng giun sán phổ biến của loài nhai lại được chọn để tiến hành
thí nghiệm là trứng sán lá gan (Fasciola gigantica), sán lá dạ cỏ (Fischoederius
elongatus), sán lá tuyến tụy (Eurytrema pancreaticum) và giun xoăn dạ múi khế
(Mecistocirrus digitatus).
Nội dung thực hiện nhằm xác định thời gian để dung dịch phân lắng, lượng
nước đổ bỏ sau mỗi lần thay nước và số lần thay nước để ứng dụng trong phương
pháp lắng gạn xét nghiệm phân được thuận lợi nhất.
Tỷ lệ trứng trung bình thu được trong nước sạch sau 5 phút để lắng của sán
lá tuyến tụy là cao nhất (85 %), kế đến là sán lá dạ cỏ (71,33 %) và giun xoăn dạ
múi khế (71 %), thấp nhất là sán lá gan (67,33 %). Hầu như số trứng của bốn loại
giun sán thu được sau khi lắng ở phút thứ tư và thứ năm là rất ít.
Sau mỗi lần thay nước, mực nước đổ bỏ để số trứng thất thoát thấp nhất là ½
mực nước ban đầu. Các chất cặn bã trong phân bò có thời gian lắng tối đa là 12
phút trong nước. Sau 3 phút tỷ lệ chất lắng đạt 20 % và tăng dần (5 phút là 40 %, 8
phút 60 %).
Kết quả ứng dụng trong xét nghiệm mẫu phân bò chứa trứng bốn loại giun
sán trên cho thấy theo qui trình tiện lợi nhất là 3 lần thay nước với ½ cột nước đổ bỏ
trong 1 lần thay nước và thời gian mỗi lần để lắng là 4 phút.
iv
MỤC LỤC
TRANG
Trang tựa .................................................................................................................... i
Xác nhận cửa giáo viên hướng dẫn ............................................................................ ii
Lời cảm tạ.................................................................................................................. iii
Tóm tắt ...................................................................................................................... iv
Mục lục........................................................................................................................v
Danh sách các bảng .................................................................................................. vii
Danh sách các hình.................................................................................................. viii
Chương 1 MỞ ĐẦU ..................................................................................................1
1.1 Đặt vấn đề .............................................................................................................1
1.2 Mục đích................................................................................................................2
1.3 Yêu cầu..................................................................................................................2
Chương 2 TỔNG QUAN ..........................................................................................3
2.1 Đặc điểm một số trứng giun sán thường gặp trên loài nhai lại .............................3
2.1.1 Trứng sán lá gan .................................................................................................3
2.1.2 Trứng sán lá dạ cỏ ..............................................................................................3
2.1.3 Trứng sán lá tuyến tụy........................................................................................4
2.1.4 Trứng giun xoăn dạ múi khế ..............................................................................4
2.2 Các phương pháp xét nghiệm phân .......................................................................5
2.2.1 Phương pháp trực tiếp ........................................................................................5
2.2.2 Phương pháp lắng gạn ........................................................................................5
2.2.3 Phương pháp phù nổi .........................................................................................7
2.2.4 Đếm trứng giun sán ..........................................................................................10
2.3 Một số công trình nghiên cứu về giun sán ký sinh trên loài nhai lại ..................11
2.3.1 Sán lá gan .........................................................................................................11
2.3.2 Sán lá dạ cỏ ......................................................................................................12
2.3.3 Sán lá tuyến tụy ................................................................................................13
2.3.4 Giun xoăn dạ múi khế ......................................................................................13
v
Chương 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................15
3.1 Thời gian tiến hành .............................................................................................15
3.2 Địa điểm tiến hành ..............................................................................................15
3.3 Đối tượng khảo sát ..............................................................................................15
3.4 Dụng cụ ...............................................................................................................15
3.5 Nội dung nghiên cứu ...........................................................................................15
3.5.1 Nội dung 1 ........................................................................................................15
3.5.2 Nội dung 2 ........................................................................................................17
3.5.3 Nội dung 3 ........................................................................................................19
3.5.4 Nội dung 4 ........................................................................................................20
3.6 Phương pháp thực hiện........................................................................................22
3.6.1 Chuẩn bị ...........................................................................................................22
3.6.2 Phương pháp đếm trứng ...................................................................................23
3.6.3 Xử lý số liệu .....................................................................................................23
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..............................................................24
4.1 Kết quả thí nghiệm trên dung dịch nước chứa trứng ..........................................24
4.1.1 Số trứng giun sán lắng theo thời gian ..............................................................24
4.1.2 Số trứng giun sán thất thoát theo thời gian lắng ..............................................28
4.2 Thời gian lắng của chất cặn bã trong phân bò ....................................................32
4.3 Kết quả xét nghiệm trên mẫu phân bò nhiễm giun sán .......................................33
4.3.1 Kết quả xét nghiệm phân tìm trứng sán lá gan ................................................34
4.3.2 Kết quả xét nghiệm phân tìm trứng sán lá dạ cỏ ..............................................35
4.3.3 Kết quả xét nghiệm phân tìm trứng sán lá tuyến tụy .......................................37
4.3.4 Kết quả xét nghiệm phân tìm trứng giun xoăn.................................................38
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ...................................................................41
5.1 Kết luận ...............................................................................................................41
5.2 Đề nghị ................................................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................42
PHỤ LỤC .................................................................................................................45
vi
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1 Số trứng sán lá gan lắng theo thời gian trong dung dịch chứa trứng.........24
Bảng 4.2 Số trứng sán lá dạ cỏ lắng theo thời gian trong dung dịch chứa trứng ......25
Bảng 4.3 Số trứng sán tuyến tụy lắng theo thời gian trong dung dịch chứa trứng ...26
Bảng 4.4 Số trứng giun xoăn lắng theo thời gian trong dung dịch chứa trứng .........27
Bảng 4.5 Số trứng sán lá gan thất thoát theo thời gian lắng và mực nước đổ bỏ .....28
Bảng 4.6 Số trứng sán lá dạ cỏ thất thoát theo thời gian lắng và mực nước đổ bỏ...30
Bảng 4.7 Số trứng sán tuyến tụy thất thoát theo thời gian lắng và mực nước đổ bỏ 30
Bảng 4.8 Số trứng giun xoăn thất thoát theo thời gian lắng và mực nước đổ bỏ .....31
Bảng 4.9 Tỷ lệ chất cặn trong phân bò lắng theo thời gian ......................................33
Bảng 4.10 Số trứng sán lá gan thu được trong mẫu phân .........................................34
Bảng 4.11 Số trứng sán lá dạ cỏ thu được trong mẫu phân ......................................36
Bảng 4.12 Số trứng sán lá tuyến tụy thu được trong mẫu phân ..... Error! Bookmark
not defined.
Bảng 4.13 Số trứng giun xoăn thu được trong mẫu phân .........................................38
vii
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1 Các bước tiến hành nội dung 1...................................................................16
Hình 3.2 Các bước tiến hành nội dung 2...................................................................18
Hình 3.3 Các bước tiến hành nội dung 4...................................................................21
Hình 3.4 Cốc lắng gạn ...............................................................................................22
Hình 3.5 Đĩa petri đếm trứng ....................................................................................23
Hình 4.1 Trứng sán lá gan trong phân.......................................................................35
Hình 4.3 Trứng sán tuyến tụy trong phân .................................................................38
Hình 4.4 Trứng giun xoăn trong phân.......................................................................39
viii
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Cho đến nay, lắng gạn là một phương pháp cơ bản và thường được ứng dụng
trong việc xét nghiệm phân nhằm phát hiện trứng của các loại giun sán phổ biến
trên thú nhai lại . Phương pháp này tiến hành dựa vào nguyên lý trứng có tỷ trọng
cao hơn dung dịch nước muối bão hòa sẽ được lắng gạn bằng nước sạch. Tuy nhiên,
một trong những hạn chế của nó là tiêu tốn khá nhiều thời gia n thực hiện. Để khắc
phục nhược điểm này thì việc loại bỏ lớp cặn bã lơ lửng ở phần nước bên trên
vào
thời điểm thích hợp sẽ man g lại hiệu quả cao hơn trong quá trình lắng gạn . Vì vậy,
nếu thời gian thực hiện quá dài thì các chất cặn này sẽ lắng nhiều xuống đáy làm
cản trở việc quan sát trứng dưới kính hiển vi . Ngược lại, với thời gian lắng gạn quá
ngắn sẽ làm thất thoát một lượng trứng đáng kể dẫn đến kết quả không còn chính
xác nữa.
Theo Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương
(1997), thời gian lắng gạn của
một số loại trứng là tr ong khoảng 10 – 15 phút và theo Foreyt (2001) thời gian lắng
gạn của một số loại trứng là 10 phút. Tuy nhiên, các tác giả chưa đưa ra con số cụ
thể về tỷ lệ trứng lắng theo thời gian cũng như tỷ lệ trứng thất thoát trong quá trình
lắng gạn.
Xuất phát từ vấn đề trên , chúng tôi tiến hành việc xác định thời gian lắng tối
ưu và lượng nước đổ bỏ thích hợp của một số giun sán phổ biến trên thú nhai lại ,
nhằm đạt k ết quả cao trong chẩn đoán, cũng như tiết kiệm thời gian k hi ứng dụng
phương pháp lắng gạn trong việc xét nghiệm phân tìm trứng của các loại giun sán
1
ký sinh trên loài nhai lại. Được sự đồng ý của B ộ môn Bệnh lý – Ký sinh thuộc
Khoa Chăn Nuôi Thú Y trường Đại Học Nông Lâm , dưới sự hướng dẫn của TS. Lê
Hữu Khương chúng tôi tiến hành đề tài: “Xác định thời gian và lượng nước tối ưu
để lắng gạn chẩn đoán một số giun sán phổ biến ở loài nhai lại” trên cơ sở các
mẫu vật đã được bộ môn Bệnh lý – Ký sinh thu thập và bảo quản tại phòng thí
nghiệm Ký sinh trùng trong những năm gần đây.
1.2 Mục đích
Làm cơ sở ứng dụng trong phương pháp lắng gạn xét nghiệm phân tìm trứng
giun sán ở loài nhai lại đạt hiệu quả cao.
1.3 Yêu cầu
-
Xác định thời gian lắng của trứng các loại giun sán thường gặp trên thú nhai lại.
-
Xác định tỷ lệ chất cặn bã lắng (lượng chất lắng) trong phân bò.
-
Chọn thời gian để lắng, lượng nước đổ bỏ và số lần thay nước thích hợp nhất.
2
Chương 2
TỔNG QUAN
2.1 Đặc điểm một số trứng giun sán thường gặp trên loài nhai lại
2.1.1 Trứng sán lá gan
Hình dạng
Fasciola gigantica
Trứng sán hình bầu dục, hai đầu thon đều, đầu nhỏ hơn có nắp, bên trong
chứa tế bào phôi xếp kín vỏ trứng, vỏ mỏng, màu vàng nhạt, kích thước 0,125 –
0,177 mm x 0,060 – 0,104 mm.
Chu trình phát triển
Trứng theo phân ra ngoài gặp điều kiện thuận lợi như nhiệt độ khoảng 22oC,
lượng oxy đầy đủ, ẩm độ và ánh sáng thích hợp thì trong trứng sẽ hình thành
miracidium, sau đó miracidium phá vỡ vỏ trứng ra ngoài bơi lội trong nước. Chúng
chui vào vật chủ trung gian là ốc nước ngọt (giống Limnaea) rồi rụng lông và trở
thành sporocyst. Trong hệ thống tuần hoàn của ốc, sporocyst sinh sản vô tính cho ra
5 – 10 redia định vị ở các cơ quan như gan và tụy, tại đây chúng gia tăng kích thước
rồi redia sinh sản vô tính cho ra 15 -20 cercaria. Cercaria thành thục tự chui ra khỏi
ốc, bơi lội trong nước và rụng đuôi hóa thành metacercaria bám vào cây cỏ dưới
nước hay gần nước. Sau khi đi vào cơ thể trâu bò metacercaria sẽ trở thành sán
trưởng thành.
2.1.2 Trứng sán lá dạ cỏ
Hình dạng
Fischoederius elongatus
Trứng có kích thước 0,129 x 0,065 mm, hình bầu dục, màu xám nhạt, đầu to
đầu nhỏ, đầu nhỏ có nắp, vỏ dày, bên trong có chứa tế bào phôi nằm rải rác
3
Chu trình phát triển
Trứng theo phân ra ngoài sau 11 – 12 ngày nở thành miracidium bơi trong
nước tự tìm ký chủ trung gian. Miracidium xâm nhập vào ốc sau khi tìm được vật
chủ trung gian thích hợp rồi tạo nên sporocyst. Bằng sinh sản vô tính, một sporocyst
cho ra 9 -10 redia và một redia lại cho ra 16 – 20 cercaria. Sau khi chui ra khỏi ốc,
cercaria rụng đuôi tạo thành kén adolescaria bám vào cây cỏ dưới nước. Gia súc ăn
cỏ có adolescaria, ấu trùng đi vào đường tiêu hóa, đến ruột rồi trở lại dạ cỏ phát
triển thành sán trưởng thành.
2.1.3 Trứng sán lá tuyến tụy
Hình dạng
Eurytrema pancreaticum
Trứng màu vàng nâu, không đối xứng, một đầu có nắp. Ở trứng già, bên
trong đa phần hình thành miracidium. Kích thước 0,04 – 0,05 mm x 0,023 –
0,034 mm.
Chu trình phát triển
Quá trình phát triển của trứng cần hai ký chủ trung gian, thứ nhất là ốc trên
cạn và ốc nước ngọt, ký chủ trung gian thứ hai là các loài châu chấu và dế. Sau khi
theo phân ra ngoài qua ống dẫn tụy, trứng xâm nhập vào gan tụy của ký chủ trung
gian thứ nhất rồi tạo ra sporocyst, sau 1 năm sporocyst sẽ tạo ra nhiều cercaria.
Cercaria xâm nhập tiếp vào ký chủ trung gian thứ hai tạo thành metacercaria ở cơ
sau 3 tuần. Ký chủ cuối cùng ăn phải ký chủ trung gian thứ hai sau 2 – 3 tháng sẽ
phát triển thành sán trưởng thành ở ống dẫn tụy.
2.1.4 Trứng giun xoăn dạ múi khế
Hình dạng
Mecistocirrus digitatus
Trứng có hình ovan, kích thước 0,101 – 0,120 mm x 0,051 – 0,063 mm, có
hai màng mỏng bao bọc.
4
Chu trình phát triển
Giun cái đẻ trứng, trứng được bài xuất cùng với phân ra ngoài, sau 24 – 48
giờ trứng nở ra ấu trùng 1 (L 1 ). Ba ngày sau ấu trùng lột xác lần thứ nhất để thành
L 2 , ấu trùng lột xác lần thứ hai sau năm ngày để thành L 3 có khả năng gây nhiễm.
L 3 có hai màng mỏng bao bọc và hoạt động mạnh hơn L 1 và L 2 . Tùy theo điều kiện
ngoại cảnh thích hợp L 3 sẽ trở thành ấu trùng gây nhiễm rồi chúng đi qua thức ăn và
nước uống vào đường tiêu hóa của vật chủ. Sau ba ngày ấu trùng xâm nhập vào
niêm mạc dạ múi khế. L 3 có thể bò lên cây cỏ, sống ở đất ẩm, giọt sương, lá cây…
Khi gia súc ăn phải ấu trùng vào dạ múi khế sẽ lột xác hai lần nữa, ấu trùng 4 và 5 ở
trong niêm mạc, sau đó thoát ra niêm mạc và phát triển thành trưởng thành sau
2 – 3 tuần.
2.2 Các phương pháp xét nghiệm phân
2.2.1 Phương pháp trực tiếp
Phương pháp trực tiếp được thực hiện nhanh và rất đơn giản so với hầu hết
các phương pháp xét nghiệm phân. Chỉ cần lấy mẫu phân bằng hạt đậu cho lên
lame, nhỏ vài giọt nước muối sinh lý rồi trộn đều, sau đó gạt cặn sang một bên là có
thể quan sát dưới kính hiển vi dưới độ phóng đại 100 lần. Tuy nhiên, phương pháp
này chỉ đạt hiệu quả đối với những con vật nhỏ, có lượng phân thải ra trong một lần
ít và tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng cao. Ví dụ như cầu trùng gà chủ yếu xảy ra trên gà từ
2 – 3 tuần tuổi, chúng thường thải theo phân một lượng lớn noãn nang, vì vậy có thể
dùng phương pháp trực tiếp trong trường hợp này. Đối với đại gia súc có khối lượng
phân thải ra trong một lần lớn, trứng ký sinh thường phân tán rải rác với mật độ
không cao thì phương pháp trực tiếp không có giá trị trong xét nghiệm.
2.2.2 Phương pháp lắng gạn
Phương pháp lắng gạn rất đơn giản, được thực hiện dựa vào nguyên lý tỷ
trọng của trứng cao hơn tỷ trọng của nước, do đó trứng sẽ lắng xuống đáy. Hiện
nay, có rất nhiều dung dịch được sử dụng rộng rãi trong phương pháp này như lắng
gạn với nước sạch hay nước cất (phương pháp lắng gạn thông thường),
5
ether formalin và formaldehyde iodin. Vì vậy, tùy thuộc vào mục đích xét nghiệm
và hiệu quả kinh tế mà lựa chọn dung dịch thích hợp.
Theo Nguyễn Thị Lê (1996) phương pháp này có thể thực hiện với mẫu phân
sau khi đã xét nghiệm trứng giun tròn và sán dây bằng phương pháp phù nổi, sau đó
dùng phương pháp lắng gạn để xét nghiệm trứng sán lá và giun đầu gai.
2.2.2.1 Phương pháp lắng gạn thông thường
Đây là một trong những phương pháp lắng gạn cơ bản nhất đạt hiệu quả
kinh tế cao và rất dễ thực hiện. Dung dịch được sử dụng trong phương pháp này là
nước cất hay nước sạch. Lấy 10 – 20 gam phân tươi cho vào cốc thủy tinh, thêm
nước sạch vào cốc (1 phân/ 10 nước) khuấy đều rồi lọc qua rây có khoảng 81 lỗ/
cm2 sang một cốc có đáy hẹp miệng rộng với thể tích là 250 ml. Cho nước sạch vào
cốc đến vạch 250 ml, khuấy đều rồi để yên trong 5 – 10 phút. Sau đó đổ bỏ 2/3
lượng nước trong cốc, tiếp tục đổ nước sạch vào và để yên. Lặp lại cho đến khi
nước trong thì đổ bỏ phần nước trên chừa lại khoảng 5 – 10 ml ở đáy cốc cho ra đĩa
petri và kiểm tra dưới kính hiển vi. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là
tốn nhiều thời gian để thực hiện, trứng rất dễ bị thất thoát trong quá trình lọc và lắng
gạn, vì vậy đòi hỏi phải tỉ mỉ và cẩn thận.
2.2.2.2 Phương pháp lắng gạn với ether formalin
Phương pháp này được Ritchie đưa ra 1948 (Lương Văn Huấn và Lê Hữu
Khương, 1997) dựa trên phương pháp lắng gạn thông thường, nhưng sử dụng dung
dịch formol 10% và ether.
Ưu điểm của phương pháp là phát hiện được nhiều loại trứng giun sán. Khối
lượng phân dùng trong xét nghiệm không cần nhiều, vì dung dịch ether formalin có
tỷ trọng thấp nên trứng lắng nhanh, giảm thất thoát trứng khi lắng gạn. Ngoài trứng
của sán lá, sán dây phương pháp còn phát hiện được trứng của Schistosoma,
Ancyloatoma, Trichoephalus, Ascaris và noãn nang của Protozoa. Tuy nhiên, các
bước thực hiện phương pháp khá phức tạp hơn phương pháp lắng gạn thông thường.
6
Sau khi cho 1 gam phân vào dung dịch, khuấy đều, lọc và ly tâm với tốc độ
200 vòng/ phút trong 1 – 2 phút, kết quả cuối cùng thu được trong ống ly tâm có
bốn lớp rõ rệt. Hút phần cặn cuối cùng ở đáy ống ly tâm cho lên lá kính quan sát
dưới kính hiển vi với độ phóng đại 100 lần.
2.2.2.3 Phương pháp lắng gạn với formaldehyde iodin
Phương pháp này được thực hiện tương tự như phương pháp trên, nhưng sử
dụng dung dịch methionate iodin formaldehyde. Blagg (1955) (Lương Văn Huấn và
Lê Hữu Khương, 1997) cho biết phương pháp này có thể phát hiện được hầu hết các
loài giun sán. Trứng giun sán dễ phát hiện một phần do dung dịch iodin làm nền
giúp ta dễ dàng tìm thấy trứng, nhưng mặt khác phương pháp này lại khá phức tạp
vì cần nhiều thời gian để pha chế dung dịch methionate iodin formaldehyde và ít
hiệu quả kinh tế.
Mặc dù có rất nhiều dung dịch được sử dụng trong phương pháp lắng gạn,
tuy nhiên nước sạch vẫn là lựa chọn được ưu tiên cho phương pháp xét nghiệm này
bởi rất dễ tìm thấy trong mỗi phòng thí nghiệm và có hiệu quả kinh tế cao.
2.2.3 Phương pháp phù nổi
Phương pháp này dựa vào nguyên lý sử dụng nước muối bão hòa có tỷ trọng
lớn hơn trứng giun sán, noãn nang nguyên bào nhưng thấp hơn những cặn bã trong
phân, do đó trứng và noãn nang sẽ được đẩy lên trên bề mặt dung dịch. Đây là
phương pháp tập trung trứng thường được sử dụng nhất do có nhiều ưu điểm nổi bật
như dễ thực hiện, tiết kiệm được nhiều thời gian, hạn chế thất thoát trứng, có thể
phát hiện được phần lớn trứng giun tròn và noãn nang nguyên bào. Đặt phiến kính
mỏng lên miệng lọ cho vừa tiếp xúc với dung dịch phân để trứng bám vào, để yên
20 – 30 phút rồi lấy phiến kính ra đậy lên một lá kính sạch và quan sát dưới kính
hiển vi với độ phóng đại 100 lần. Có rất nhiều loại muối bão hòa được dùng trong
phương pháp phù nổi như NaCl, ZnSO 4 , MgSO 4 , dung dịch đường, dung dịch
glycerin … Những dung dịch này thường có tỷ trọng từ 1,2 đến 1,3 cao hơn so với
tỷ trọng của trứng nên trứng sẽ nổi nhanh trong dung dịch. Nếu dung dịch có tỷ
7
trọng quá thấp số trứng sẽ nổi ít hoặc không nổi, ngược lại dung dịch có độ nhớt cao
trứng nổi chậm, cặn bã của phân lại nổi nhiều. Thời gian nổi của trứng cũng là yếu
tố quan trọng. Nếu để trứng giun sán ngâm trong dung dịch phù nổi quá lâu trứng
có thể bị méo mó hoặc biến dạng. Tùy theo tỷ trọng của trứng và tỷ trọng của dung
dịch được sử dụng mà thời gian nổi của trứng sẽ khác nhau.
2.2.3.1 Phương pháp phù nổi với NaCl bão hòa
Đây là phương pháp xét nghiệm cơ bản nhất trong các phương pháp phù nổi
được Willis cho ra đời năm 1921 (Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương,1997). Các
bước tiến hành khá đơn giản. Lấy 1 – 2 gam phân cho vào cốc có chứa sẵn dung
dịch NaCl bão hòa (khoảng 25 ml) rồi khuấy đều và lọc qua rây có 81 lỗ/ cm sang
một cốc khác. Đổ dung dịch vào lọ có miệng hẹp (để trứng tập trung lại) đến
đầy miệng lọ, sau đó nhẹ nhàng đặt phiến kính lên miệng lọ và để yên trong 30
phút. Lấy phiến kính ra đặt vào khoảng giữa tấm kính và kiểm tra dưới kính
hiển vi.
Kỹ thuật Willis đơn giản, có thể thực hiện ngay trong lọ đựng phân. Tuy
nhiên muốn thu kết quả tốt thì cần lấy lượng phân vừa phải và phiến kính phải sạch
không nhờn. Khi đặt phiến kính tiếp xúc với dung dịch chú ý không để dung dịch
tràn ra ngoài làm thất thoát trứng hoặc dung dịch không tiếp xúc với phiến kính thì
trứng sẽ không bám vào được. Ngoài ra, phải khuấy thật đều dung dịch có chứa
phân, thời gian chờ cho trứng nổi lên cũng phải vừa đủ. Trứng sẽ không nổi
hết trong thời gian quá ngắn, ngược lại thời gian quá dài sẽ khiến trứng chìm
trở lại.
2.2.3.2 Phương pháp phù nổi với dung dịch đường
Năm 1923, Sheather (Sloss và Russer, 1987) đề nghị dùng dung dịch đường
(454 gam/ 355 ml nước ấm) trong phương pháp xét nghiệm phân. Dung dịch đường
có khả năng làm nổi được nhiều loại trứng giun tròn cũng như noãn nang nguyên
bào. Tuy nhiên, phương pháp này không thể làm nổi một số trứng sán dây, trứng
các loại sán lá và trứng giun đầu gai. Sán dây thường thải những đốt sán theo phân
8
ra ngoài, do đó có thể quan sát những đốt sán trong phân bằng mắt thường. Sán lá
và giun đầu gai có thể phát hiện dễ dàng bằng phương pháp lắng gạn thông thường.
Khi khuấy lọc phân trong dung dịch nên khuấy nhẹ nhàng, tránh tạo những bọt khí
làm cản trở khả năng quan sát dưới kính hiển vi.
2.2.3.3 Phương pháp phù nổi với dung dịch MgSO 4 bão hòa
Năm 1975, Spencer và Monroe (Hygiene, 1979) cho biết khi sử dụng các
dung dịch phù nổi khác nhau sẽ cho kết quả xét nghiệm trứng Toxocara canis khác
nhau. Trên cùng một mẫu phân, cùng một thời gian để trứng nổi lên, dung dịch cho
kết quả tốt nhất là MgSO 4 bão hòa cộng với 5% potassium iodin, tỷ trọng dung dịch
là 1,2. Với tỷ trọng cao hơn NaCl bão hòa nên ưu điểm của MgSO 4 bão hòa là có
thể xét nghiệm được nhiều trứng giun hơn, ví dụ trứng Metastrongylus.
Phần lớn trứng giun sán khi thải ra có khả năng tồn tại trong môi trường đất
sét khô, đất phù sa và trong chất bẩn. Sự tích trữ của giun sán ở môi trường
bên ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho người và gia súc nhiễm giun sán. Ngoài
xét nghiệm phân, phương pháp phù nổi với MgSO 4 còn có thể xét nghiệm mẫu
đất cát.
2.2.3.4 Phương pháp phù nổi với dung dịch ZnSO 4 bão hòa
Phương pháp cũng dựa trên nguyên tắc trứng nổi lên trên bề mặt dung dịch,
lấy phần dung dịch nổi lên kiểm tra dưới kính hiển vi. Dung dịch được sử dụng là
ZnSO 4 bão hòa có tỷ trọng là 1,18 (386 gam/ lít nước). Sau khi lấy phiến kính ra
khỏi dung dịch phù nổi, nhỏ một giọt iodin lên phiến kính, như vậy trứng giun sẽ dễ
dàng phát hiện hơn trên nền iodin khi quan sát dưới kính hiển vi.
2.2.3.5 Phương pháp Fulleborn
Cho 10 gam phân và 200 ml dung dịch NaCl bão hòa vào cốc, khuấy đều và
để yên 45 phút, sau đó dùng một que cấy có đầu uốn vòng (đường kính của vòng
uốn là 1cm), hớt phần nổi lên trên mặt nước cho lên tấm kính, kiểm tra dưới kính
9
hiển vi với độ phóng đại 100 lần. Nếu có nhiều bã nổi lên thì hớt cho sang một cốc
khác, đổ nước muối bão hòa vào đợi lắng rồi hớt phần mặt để xem.
Đây là một trong những phương pháp phù nổi dễ làm và rẻ tiền. Nguyên tắc
của phương pháp này là lợi dụng dung dịch muối ăn (NaCl) bão hòa có tỷ trọng lớn
hơn tỷ trọng trứng giun sán làm cho trứng nổi lên trên bề mặt dung dịch. Phương
pháp Fulleborn rất tốt cho việc phát hiện trứng giun tròn, trứng sán lá cơ quan sinh
sản gia cầm và Oocyst cầu trùng.
2.2.4 Đếm trứng giun sán
Với mục đích ước lượng số trứng giun sán trong 1 gam phân, từ đó suy ra số
giun sán trong cơ thể gia súc nên phương pháp này chỉ có giá trị tương đối, vì
không thể xác định chính xác số lượng giun sán. Do số lượng trứng đẻ ra của giun
sán non và trưởng thành khác nhau cũng như tỷ lệ đực cái trong quần thể giun sán
đã làm sai lệch kết quả. Phương pháp này thường dùng để đánh giá hiệu lực tẩy trừ
giun sán của một số thuốc trên cá thể gia súc. Có hai phương pháp đếm trứng hiện
nay là phương pháp Stoll và phương pháp McMaster.
2.2.4.1 Phương pháp McMaster
Phương pháp này có độ chính xác cao hơn phương pháp Stoll nhờ vào buồng
đếm McMaster. Buồng đếm gồm hai buồng nhỏ, mỗi buồng có sáu vạch kẻ, khoảng
cách giữa hai vạch vừa với chiều ngang của vi trường, do đó việc đếm trứng sẽ dễ
dàng hơn và cũng hạn chế đếm sót trứng. Chiều dài và chiều rộng của một buồng
đếm là 1 cm cùng với chiều cao là 0,15 cm, do đó thể tích của buồng đếm là 0,15
ml. Phương pháp McMaster có thể đếm được trứng hầu hết các loại giun sán nên
hiện nay được sử dụng rất phổ biến, nhất là để đếm trứng trước và sau khi sử dụng
một loại thuốc tẩy giun sán nhằm đánh giá hiệu lực của loại thuốc đó.
10
2.2.4.2 Phương pháp Stoll
Các bước thực hiện phương pháp này tốn khá nhiều thời gian, nhưng chỉ đảm
bảo độ chính xác tương đối và có thể áp dụng trong việc ước lượng số giun sán của
nhiều loài.
Cho 5 gam phân vào ống có vạch đo, đổ thêm dung dịch NaOH N/10 tới
vạch 75 ml, khuấy đều rồi lọc qua rây. Sau đó hút 0,15 ml dung dịch vừa lọc được
cho vào giữa phiến kính và tấm kính để đếm trứng. Số trứng đếm được nhân với
100 sẽ biết được số trứng có trong 1 gam phân. Số trứng và ấu trùng trong 1 gam
phân càng nhiều thì số giun sán trong cơ thể gia súc càng lớn. Độ chính xác của
phương pháp này không cao vì khó có thể quan sát hết, dễ bị trùng lắp vi trường và
đếm sót trứng.
2.3 Một số công trình nghiên cứu về giun sán ký sinh trên loài nhai lại
2.3.1 Sán lá gan
Lê Thanh Hòa (2007) xét nghiệm hệ gen của các loài sán lá gan và cho biết
Việt Nam hiện nay có loài F. gigantica và một dạng trung gian mang hệ gen của cả
loài F. gigantica và F. hepatica. Ở Việt Nam trâu nhiễm cao hơn bò. Tỷ lệ nhiễm có
khuynh hướng tăng dần từ các tỉnh phía Nam ra phía Bắc. Tuổi gia súc càng lớn thì
tỷ lệ nhiễm càng tăng.
Năm 2001, Lê Hữu Khương, Nguyễn Văn Khanh và Huỳnh Hữu Lợi khảo
sát 2483 gan trâu và 1886 gan bò từ lò mổ thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ
23 tỉnh thuộc 7 vùng sinh thái của Việt Nam. Kết quả có ba loài sán lá gan được tìm
thấy: Fasciola gigantica, Fasciola hepatica và Paramphistomum explanatum,
7 vùng sinh thái của Việt Nam đều có sự phân bố của Fasciola. Tỷ lệ nhiễm có
xu hướng tăng dần từ Nam ra Bắc loài P.explanatum chỉ tìm thấy trên trâu với tỷ
lệ nhiễm thấp nhất (1,71 %) và được phân bố ở vùng ven miền trung và
miền Bắc.
Sau khi khảo sát 60 trâu, 40 bò tại lò mổ tập trung thương mại Củ Chi, Tạ
Ngọc Liên (2002) đã ghi nhận tỷ lệ nhiễm như sau: sán lá dạ cỏ trên trâu là 100 %,
11
trên bò là 60 %, sán lá gan trên trâu là 68 %, bò nhiễm 55 %, sán lá tuyến tụy trên
trâu và bò đều là 30 %.
Trong mười loài giun sán được tìm thấy sau khi mổ khám 60 bò tại lò mổ
trâu bò thuộc thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, Bùi Thị Kim
Lý (2007) cho biết tỷ lệ nhiễm Fasciola gigantica là cao nhất (63,33 %).
Theo Phạm Thị Tứ (2008), đã ghi nhận tỷ lệ nhiễm Fasciola gigantica là cao
nhất (31 %) trong ba loài giun sán tìm được sau khi khảo sát trên 100 bò ở Thành
Phố Tuy Hòa.
Tỷ lệ nhiễm Fasciola gigantica tại một số cơ sở giết mổ thuộc huyện Ninh
Hải, Ninh Phước và Thành Phố Phan Rang – Tháp Chàm – tỉnh Ninh Thuận được
Tạ Đình Sang (2009) ghi nhận như sau: bò nhiễm 42 %, trên dê nhiễm 34 % và trên
cừu là 26 %.
Có bốn loài sán lá được Phạm Văn Bảo (2009) tìm thấy khi mổ khám 80 cừu
tại lò mổ xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận với tỷ lệ nhiễm như sau:
Fasciola gigantica 25 %, Fischoederius elongatus 7,50 %, F. japonicus 7,50 % và
Paramphistomum cervi 8,75 %
2.3.2 Sán lá dạ cỏ
Theo Lê Hữu Khương, Nguyễn Văn Khanh và Nguyễn Tin (2000), tỷ lệ
nhiễm của các loài sán lá trên 20 cừu được khảo sát ở Ninh Thuận có kết quả như
sau: Paramphistomum cervi 75 %, Paramphistomun sp. 40 %, Cotylophoron
cotylophum 35 %, Fischoederius elongatus 35 %, F. japonicus 25 % và
Fischoederius sp. 45 %.
Tại điểm giết mổ thuộc thị trấn Hồng Ngự, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp, Huỳnh Ân Giao (2002) đã mổ khám 60 con bò. Tác giả có năm loại sán lá và
một số loài giun tròn chiếm tỷ lệ như sau: Fischoederius elongatus 71,42 %, F.
japonicus 57,14 %, Fasciola gigantica 28,57 %, Paramphistomum cervi 51,42 %,
P. explanatum 25,71 %, Setaria digitata 57,14 %.
12
Bằng phương pháp xét nghiệm phân, Đoàn Trung Kiên (2003) đã ghi nhận
sán lá dạ cỏ chiếm tỷ lệ 40,45 % trong tổng số 576 bò sữa được khảo sát tại 88 hộ
chăn nuôi gia đình thuộc huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Theo Nguyễn Thị Kim Loan (2004), trong sáu loại ký sinh trùng đường ruột
được tìm thấy tại một số trại bò thuộc Thành phố Hồ Chí Minh thì sán lá dạ cỏ là
loài có tỷ lệ nhiễm cao nhất (59,28 %), kế đến là sán lá gan (19,52 %).
Năm 2005, Lê Thái Thuận mổ khám trên 36 bò tại lò giết mổ tập trung thị
trấn Dĩ An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tác giả cho biết tỷ lệ nhiễm của sán lá
dạ cỏ như sau: Fischoederius elongatus 69,44 %, F. japonicus 16,66 %,
Ceylonocotyle dicranocoelium 19,44 %, Paramphistomum gracile 22,22 %, P. cervi
19,44 %.
2.3.3 Sán lá tuyến tụy
Ba loài sán lá tuyến tụy được Lê Quốc Việt (2002) tìm thấy sau khi mổ khám
75 bò có nguồn gốc từ tỉnh Nghệ An, Bình Thuận và Đồng Nai với tỷ lệ nhiễm như
sau: E. dajii 20 %, Eurytrema pacreaticum 24 % và E. coelomaticum 25,33 %.
Tạ Ngọc Liên (2002) đã tìm thấy ba loài sán lá tuyến tụy ký sinh trên trâu bò
được giết mổ tại trung tâm thương mại Củ Chi và ghi nhận tỷ lệ nhiễm như sau
Eurytrema pancreaticum 13 %, E. coelomaticum 33 % và E.dajii 18 %.
Năm 2004, Trần Anh Nhân mổ khám 150 bò có nguồn gốc từ tỉnh Đồng
Tháp, Bình Dương và Phú Yên. Tác giả đã định danh được 11 loài giun sán, trong
đó các loài sán lá chiếm tỷ lệ như sau sán lá gan 24,66 %, sán lá dạ cỏ 38 %, sán lá
tuyến tụy 6,66 %.
2.3.4 Giun xoăn dạ múi khế
Tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế tại lò mổ Dĩ An và Hóa Nhật thuộc tỉnh
Bình Dương được Lâm Vĩnh Bình (2002) ghi nhận sau khi mổ khám 405 bò có
nguồn gốc khác nhau là Mecistocirrus digitatus 22,47 %, Setaria digitata 34,81 %,
Elaeophora poeli 3,70 %.
13
Theo Phạm Văn Dũng (2003), sau khi mổ khám 160 bò tại lò mổ thị trấn Dĩ
An có nguồn gốc từ tỉnh Bình Dương và Đồng Tháp thì có 68 bò nhiễm
Mecistocirrus digitatus, không tìm thấy loài Haemonchus contortus và H. similis. Ở
Bình Dương, tác giả đã khảo sát 70 bò và tỷ lệ nhiễm Mecistocirrus digitatus là
43,33 %.
Qua mổ khám 38 bò có nguồn gốc từ Vĩnh Long Huỳnh Thanh Vũ (2003)
cho biết qua thì tỷ lệ nhiễm Mecistocirrus digitatus là 21,10 %, không tìm thấy loài
Haemonchus contortus và Haemonchus similis. Ở Trà Vinh, tác giả khảo sát 22 bò
có 12 bò nhiễm Mesitocirrus digitatus và 1 bò nhiễm Haemonchus contortus. Ngoài
ra tác giả còn khảo sát trên 4 trâu ở Bình Thuận thì có 3 trâu nhiễm Mecistocirrus
digitatus.
Bằng phương pháp mổ khám trên 60 bò có nguồn gốc thuộc huyện Mỏ Cày,
tỉnh Bến Tre Phạm Khắc Phục (2005) cho biết tỷ lệ nhiễm Mecistocirrus digitatus
là 15 %, không tìm thấy Haemonchus contortus và H. similis.
Tại tại lò mổ tư nhân quận 7 Trần Trúc Anh (2006) cho biết tỷ lệ nhiễm giun
xoăn dạ múi khế trên dê là cao nhất (72,22 %), kế đến là cừu (51,58 %), bò (44,44
%) và thấp nhất là trâu (51.58 %) sau khi đã mổ khám 8 trâu, 54 bò, 54 dê và
54 cừu.
Tóm lại, qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy loài nhai lại ở nước ta
thường nhiễm các loài giun sán phổ biến là sán lá dạ cỏ (Paramphistomum,
Fischoederius), sán lá gan (Fasciola), sán lá tuyến tụy (Eurytrema) và các loài giun
xoăn dạ múi khế (Mecistocirsus, Haemonchus). Để chẩn đoán khi thú còn sống,
phương pháp thường được áp dụng hiệu quả nhất là lắng gạn phân để tìm trứng các
loài giun sán này.
14
Chương 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian tiến hành
Từ tháng 2/2011 đến tháng 6/2011.
3.2 Địa điểm tiến hành
Phòng thực hành ký sinh trùng Trường Đại Học Nông Lâm.
3.3 Đối tượng khảo sát
Các loại trứng giun sán thường gặp trên loài nhai lại gồm:
Ba loại trứng sán lá
-
Trứng Fasciola gigantica (sán lá gan)
-
Trứng Fischoederius elongatus (sán lá dạ cỏ)
-
Trứng Eurytrema pancreaticum (sán lá tuyến tụy)
Một loại trứng giun tròn
-
Trứng Mecistocirrus digitatus (giun xoăn dạ múi khế)
3.4 Dụng cụ
- Cốc lắng gạn
- Kính hiển vi
- Tỷ trọng kế
- Đĩa petri đếm trứng
3.5 Nội dung nghiên cứu
3.5.1 Nội dung 1: xác định thời gian lắng của trứng bốn loại giun sán thường gặp
trong dung dịch chứa trứng bằng phương pháp lắng gạn với nước sạch ở phòng thí
nghiệm.
Chỉ tiêu theo dõi: xác định số trứng lắng theo thời gian trong dung dịch chứa trứng.
15
Nguyên lý
Trong môi trường nước trứng giun sán có tỷ trọng cao sẽ từ từ lắng xuống
đáy theo thời gian. Sau mỗi 1 phút trứng giun sán ở đáy cốc được thu thập và được
đếm dưới kính hiển vi để xác định số lượng trứng trong từng thời điểm.
Các bước tiến hành
Chuẩn bị 5 cốc lắng gạn.
(1) Hút 1 ml dung dịch trứng giun sán đã chuẩn bị sẵn (chứa 100 trứng giun
hoặc sán) cho vào cốc thứ nhất.
(2) Thêm nước sạch đến vạch 250 ml.
(3) Khuấy đều bằng đũa thủy tinh, sau khi rút đũa ra để yên trong 35 giây cho
nước không còn dao động và bắt đầu xác định thời gian lắng gạn.
(4) Sau phút đầu tiên đổ phần nước phía trên của cốc thứ nhất sang cốc thứ hai,
chỉ chừa lại 10 ml ở đáy cốc. Lại thêm nước sạch vào cốc thứ hai cho đến vạch
250 ml, khuấy đều và chờ sau 1 phút thì đổ phần nước phía trên qua cốc thứ ba. Cứ
như vậy lặp lại thao tác này cho đến cốc thứ năm.
(5) Phần nước ở đáy mỗi cốc được đổ ra đĩa petri và quan sát dưới kính hiển vi
để đếm số lượng trứng thu được trong từng thời điểm.
Thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Cách tính
Số trứng giun sán đếm được ở phần cặn của cốc 1 chính là số trứng lắng sau
phút thứ nhất. Tương tự như vậy số trứng lắng ở phút thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ
năm tương ứng từ cốc 2 đến cốc 5. Sau 3 lần lập lại thí nghiệm chúng tôi tính được
số trứng trung bình thu được theo thời gian. Tổng số trứng của năm cốc chính là số
trứng thu được sau 5 phút lắng gạn.
Hình 3.1 Các bước tiến hành nội dung 1
16