■ 3rd, 3
/ị0 L - Í Ĩ I L
Bộ G IÁ O D Ụ C VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI H Ọ C MỞ - BÁN C Ô N G TP, HỒ CH Í MINH
KHOA ĐÔNG NAM Á HỌC
N G U YỄN ĐỨC SƠN
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT
PHILIPPINES
( LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI H ỌC C H U Y Ể N NGÀNH VĂN HÓA
ĐÔNG NAM Á KHÓA 1991 - 1995 )
[TBK?M6ĐẬI HOC Má TP.HCM
THƯ VIỆN
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. NGUYÊN TẤN ĐẮC
TP. HỒ CH Í MINH
1995
LỜI NÓI ĐẨU
Đông Nam Á hiện đang là một khái niệm được rất nhiều người
quan tâm và muốn tìm hiểu.Trên thực tế đã có nhiều vị giáo sư,' chuyên
gia, học giả, những người đã và đang từng chút mở ra cánh cửa vào thế
giới Đông Nan Á đó. Cùng hưởng ứng tham gia hoạt động nghiên cứu
này còn có một sô" không ít sinh viên thuộc khoa Đông Nam Á Học. Tôi
cũng thuộc trong sô" đó, người thực hiền luận văn này. Đầu tiên với hy
vọng luận văn sẽ được xem như một công trình sưu tập và nghiên cứu
làm phong phú hơn cho ngân hàng thông tin về Đông Nam Á. Và để được
đánh giá về khả năng qua những kiến thức đã thu thập sau bôn năm học
tập, luận văn đựơc thực hiện không ngoài mục đích hoàn tất học trình cử
nhân khoa Đông Nam Á Học của trường Đại Học Mở - Bán Công Thành
Phô" Hồ Chí Minh.
Trong luận văn này, vân đề được đưa ra đều thuộc về văn hóa nghệ thuật và chỉ giđi hạn trong phạm vi một nước thuộc Đông Nam Á là
Philippines mà thôi. Chọn Philippines làm trung tâm thể hiện không phải
là không có lý do.Vì những thông tin về đất nước này râ"t ít thâ"v xuất hiện
trên các sách báo ; ngay cả một tạp chí có tính chất chuyên môn về Đông
Nam Á như : tạp chí “Việt Nam - Đông Nam Á Ngày Nay” (Vietnam Southeast Asia Today) lại cũng hiếm khi có những bài nói về Philippines
(trong khi những bài nói về Thailand* Singapore, Malaysia, Indonesia thì
thật nhiều). Cho nên, việc che bđt lỗ hổng đó, theo tôi là một việc nên
làm. Trong khi thực hiện luận văn, tôi cô" chú ý xem xét đến phong tục
tập quán, hoạt động tín ngưỡng, mô hình sản xuâ"t thuyền thông, những
.nghi lễ, và các hình thái nghệ thuật của một sô" dân tộc bản địa tiêu biểu
và nổi bật của Philippines. Để hiểu rõ hơn. tôi còn tiến hành khảo sát
những tiên triển trong văn hóa - nghệ thuật Philippines qua từng thời kỳ
bị Tây Ban Nha và Mỹ thông trị. Sau khi đã trình bày về văn hóa - nghệ
thuật bản địa, văn hóa- nghệ thuật ngoại lai và những phản ứng từ phía
chính phủ cũng như nhân dân Philippines, tôi đã cô" gắng đưa ra vài ý
kiến riêng nhằm góp phần phát triển sự nghiệp văn hóa nước nhà để mọi
người cùng tham khảo.
Thật tình mà nói, quyết định thực hiện một luận văn về Philippines
quả là một sự mạo hiểm. Tự tôi nhận thấy, nếu bắt tay vào nghiên cứu.
khó khăn sẽ gặp trước tiên và thường xuyên là tài liệu tham khảo,yếu tố
quan trọng nhất để có thể hoàn thành luận văn. Đa phần tài liệu được sử
dụng trong luận văn này được viết bằng tiếng nước ngoài như Anh, Pháp,
Nhật, hơn nữa lại không tập trung. Ngoài ra, một số tư liệu về Philippines
tôi sử dụng là kết quả thu thập được từ chuyến tham quan Philippines tám
ngày hồi trung tuần tháng bảy năm 1995. Luận văn được hình thành qua
việc xử lý những tài liệu, tư liệu trên bằng phương pháp lịch sử, phương
pháp dựa theo những biểu hiện của từng dân tộc, và không loại trừ
phương pháp dựa theo các loại hình nghệ thuật của Philippines.
Tập luận văn này, như một cố gắng giải quyết một phần nào những
thắc mắc về Đông Nam Á và mong rằng những cô" gắng sẽ không trở
thành vô ích.
Dù đã thật nhiều nổ lực nhưng, chắc rằng hãy còn nhiều hạn chế
và thiếu sót. Kính mong quí thầy cô tận tình chỉ dạy thêm ngỏ hầu tôi
được vững chân tiếp bước theo con đường nghiên cứu của các bậc tiền
bốì .
Trân trọng
Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 8/1995
sv. NGUYỄN
ĐỨC SƠN
M Ụ C LỤ C
LỜI NÓI ĐẦU
01
LỜI CẢM TẠ
03
PHẨM I : GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ PHILIPPINES
04
A. Thông tin địa lý - điều kiện tự nhiên
04
B. Dân cư
05
c . Ngôn ngữ
05
D. Tôn giáo
05
E. Nhà nước - Hành chính
06
F. Tiền tệ
06
G. Đôi nét về lịch sử hình thành và phát triển của Philippines
06
I. Magellan và hành trình quanh thế giới
07
II. Philippines dưới sự cai trị của thực dân Tây Ban Nha.
08
III. Philippines dưới ách thông trị của Hoa Kỳ
09
IV. Philippines trong chiến tranh thế giới thứ n
10
H. Vị trí của Philippines trong khu vực Đông Nam Á
PHẦN II: MHỮNG THÀNH.Tựu VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT CỦA PHILIPPINES.
A. Văn hóa - nghệ thuật bản địa
11
12
12
I. Văn hóa - nghệ thuật Negritos
13
II. Văn hóa - nghệ thuật Indonesians
14
1. Văn hóa - nghệ thuật của các dân tộc nhóm Samal
15
l.a. Samal
15
l.b. Tagbanuwa
16
1. c. Mangyan
17
2. Văn hóa - nghệ thuật của các dân tộc nhóm Ifugao
2. a. ưugao
- Tổ chức xã hội
17
17
18
- Tín ngưỡng và văn hóa - nghệ thuật
■
*
19
2.b. Bontok
20
2.C. Bagobo
22
2.d. Ilongot
23
- Đời sông kinh tế
23
- Tín ngưỡng và văn hóa - nghệ thuật
24
2.e. Kalinga
25
- Tổ chức xã hội
25
- Tín ngưỡng và văn hóa- nghệthuật
26
3. Văn hóa - nghệ thuật của các dân tộcnhóm Tagalog
28
3.a. Visaya
28
3.b. Bũkidnon
29
3.C. Tagalog
30
3.d. Moro
31
B. Di sản vãn hóa - nghệ thuật Philippines từ nền văn minh Phương Tây.
32
I. Những biểu hiện văn hóa - nghệ thuật Philippine dưới thời Tây Ban
Nha cai trị
32
*■
1. Đạo Cơ Đốc, tài sản kế thừa to lớn nhât của Tây Ban Nha
32
2. Thực phẩm - trang phục.
33
3. Mẩu tự Latin và tiếng Tây Ban Nha
34
4. Văn học
34
5. Kịch nghệ
36
6. Âm nhạc
37
7. Kiên trúc
38
8. Hội họa
39
9. Điêu khắc
39
n . Những biểu hiện văn hóa - nghệ thuật Philippine dưới thời Mỹ
thuộc Philippine.
1. Nền Dân Chủ, tài sản kế thừa to lớn nhât của Mỹ
40
' 40
2. Thực phẩm - Trang phục
40
3. Những tiên bộ về giáo dục dưđi thời Mỹ thuộc
41
4. Sự khuếch trương Anh ngữ
42
5. Tiếng Anh trong văn học Philippines
42
6. Văn học bản ngữ
43
7. Kịch nghệ
44
8. Mỹ thuật
45
9. Âm nhạc
46
PHẦN III: KẾT LUẬN
47
A. Nhận xét về văn hóa - nghệ thuật Philippines
B. Bài học kinh nghiệm
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
47
49
52
80
X
PHẨN í
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ PHILIPPINES
A. THÔNG TIN ĐỊA LÝ - ĐIÊU KIỆN T ự NHIÊN
Philippines là một bộ phận của quần đảo Malay ( Malay
Aachipilago), đảo Borneo nằm cách nó khoảng 24 dặm về phía Tây
Nam, và cách đảo Formosa ( Taiwan) China chưa đến 100 dặm về phía
Bắc. Philippines là một đảo quốc thuộc loại có nhiều đảo nhất trên thế
giđi. Hơn Indonena cũng là một quốc gia Đông Nam Á (vđi hơn 3000
đảo), Philippines hình thành từ một quần thể của 7.107 đảo lớn nhỏ,
trong sô" đó chỉ cỏ 2773 đảo có tên và 462 đảo lđn hơn một dặm vuông.
Đảo Luzon được xem là đảo lđn nhất trong số các đảo thuộc quần đảo
Philippines, vđi diện tích là 40.420 dặm vuông. Ngoài ra còn một sô" đảo
lổn khác, như Mindanao, Mindoro, Samar, Palawan, Leyte, Negros,
Bohoh, Paney, Cebu. Quần đảo này trên bản đồ hay trên địa cầu. vị trí
được xác định từ 4°23' - 21°25' vĩ bắc, trải dài từ Nam Trung Quốc đến
bắc đảo Boméo khoảng 1.850km; từ 116°-127° kinh đông khoảng
1.107km.
Tổng diện tích Philippines là 299.404 km. Cũng như một sô" nước
Đông Nam Á khác là đảo quốc nhưng, Philippines là quốc gia duy nhâ"t
ở Đông Nam Á không có biên giới đất liền với bất kỳ một nưđc nào
khác. Như vậy, xét trong các nước Đông Nam Á, ngược lại với
Philippines, Laos không có biên giới biển. Philipines có khí hậu nhiệt
đổi - gió mùa, nóng ẩm và mưa nhiều. Do ẩm độ cao và mưa rải rác từ
tháng sáu đến tháng mười một nên thực vật các loại phát triển râ"t tố t.
Do Philippines nằm trên vùng kết cấu địa tầng luôn luôn giao
động, nên trên đâ"t nước này, dân chúng phải chịu nhiều thiệt hại nặng
nề mà nguyên nhân là do các vụ thiên tai như: núi lửa, lũ lụt, động đâ"t,
sóng thần. Hơn thế nữa, Philippines được xem là chiếc lá chắn cho phần
Đông Nam Á lục địa trước những đợt áp thấp nhiệt đới thường xuyên có
hàng năm trên vùng biển Thái Bình Dương. Bởi thế Philippines luôn là
nước bị thiêt hại về người và của nhâ"t ở Đông Nam Á khi có những đợt
áp thấp nhiệt đổi.
4
B. DÂN C ư
Thông kê năm 1992 cho biết, dân sô" Philippines khoảng
64.260.000 người.trong sô" đó, sô"ng ở thủ đô là 7.929.000 người, riêng
khu vực thành phô" Manila là 1.848.800 người. Các cư dân chủ yếu ở
Philippines là những ngươi Malay, người Hoa, người Mỹ, người Tây Ban
Nha, trong đó người Malay chiếm đa sô". Ngoài ra, các dân tộc khác có
sô" lượng không đáng kể .
c. NGÔN NGỮ
Ở Philippines có râ"t nhiều ngôn ngữ, nhưng tiếng Anh, như là
ngôn ngữ phổ biến, hiện đang được khoảng 60% người sử dụng. Tuy
nhiên, những người có khả năng hiểu thấu đáo thực sự thì không nhiều
như vậy. Ớ Philippines, trong các ngôn ngữ dựa trên yếu tô" truyền
thông, không có ngôn ngữ nào có sức mạnh. Ngay cả tiếng Tagalog
đang được dùng nhiều và đã được chọn làm quốc ngữ của Philippines
cũng chỉ là tiếng mẹ đẻ của 24% dân sô". Do đã cô" gắng hết mức nên
hiện nay, tỉ lệ đó cũng gần khoảng 1/2 dân sô". Đó là kết quả ba mươi
mây năm nổ lực.
Bâ"t châ"p mọi cô" gắng, hướng bâ"t lợi vẫn quay về bộ phận muôn
phát triển tiếng Tagalog. Bởi vì, một mặt, do việc tiến hành phổ cập
quốc ngữ đã bị chậm trễ; mặt khác ở chôn học đường, tiếng Anh vẫn
được sử dụng thường xuyên. Hơn nữa, ngay tại Manila, nơi được xem là
phổ biến nhất, cũng chỉ có dâu hiệu mạnh mẽ ở mỗi hạt Bulacan.
Không dừng lại ở đó, trong hoạt động của giới luật, hoặc trong
lĩnh vực xuâ"t bản sách báo, tiếng Anh vẫn tiếp tục được chuộng dùng.
Cho nên ở Philippines có một thực trạng là: tiếng Tagalog được công
nhận là quốc ngữ, tức tiếng Philippines; tiếng Anh được xem như tiếng
nói chung, hay nói cách khác đó là ngôn ngữ phổ biến.
D. TÔN GIÁO
Tại Philippines, ngoài một sô" loại hình tín ngưỡng dân gian của
một vài nhóm dân tộc, có ba tôn giáo được xem là đáng kể, đó là Thiên
Chúa Giáo (Catholicism), Hồi Giáo (Islam), Tin Lành (Protestantism).
Trong đó Thiên Chúa Giáo có ưu thê" mạnh hơn cả về sô lượng tín đồ
với 85% dân sô"; Hồi Giáo có 4,3%, Tin Lành có 2,9%. Phật Giáo
không phổ biến lắm ở Philippines, nếu cộng số tín đồ của Phật giáo với
tm đồ của những tín ngưỡng khác nữa cũng chỉ chiếm khoảng 2,4% dân
sô". Như vậy, Philippines không chỉ xét trong phạm vi Đôna Nam Á mà
xét cả toàn Châu Á, là quốc gia Thiên Chứa Giáo duy n h ấ t.
E. NHÀ NƯỚC-HÀNH CHÍNH
Philippines được trao trả độc lập ngày 4/7/1946. Philippines theo
chính thể cộng hòa với tổng thống đứng đầu cơ quan hành pháp, và việc
lập pháp do lưỡng viện đảm trách. Cộng hòa Philippines có 55 tỉnh và
28 thành phô". Quezon city, một thành phô" thuộc ngoại ô Manila, trước
đây là thủ đô của Philippines, nhưng do các cơ quan hành chính nhà
nước đều đặt ở Manila, nên về sau, Manila hiển nhiên trở thành thủ đô
chính thức của Philippines.
F. TIỀN TỆ
Đơn vị tiền tệ của Philippines là Peso (Piso). Đôi khi người ta
cũng gọi là Philippine Peso để phân biệt với đồng Peso của Tâv Ban
Nha hay của một sô" nước khác, giá trị của đồng Philippine Peso hiện
nay: 1ƯSD « 25Peso. Thu nhập bình quân hàng năm của một người
Philippines khoảng 770 USD / người (1992).
G. ĐÔI NÉT VỀ LỊCH s ử HÌNH THÀNH VÀ PHẤT TRIỂN c ủ a
PHILIPPINES
Một sô" nhà nghiên cứu cho rằng Đông Nam Á lục địa và Đông
Nam Á hải đảo, trước đây khoảng nhiều triệu năm,chưa phải là hai bộ
phận riêng biệt mà chúng nồ"i liền nhau. Quá trình nóng dần lên của trái
đâ"t đã làm tan băng ở hai cực dẫn đến nước biển dâng cao. Kết quả của
quá trình đó, ngày nay chứng ta thấy, những chỗ đất thấp bị nhận chìm
dưới nưđc trở thành đáy biển, những chỗ cao hơn nhồ lên khỏi mặt nước
trở thành các đảo hoặc các bãi đá ẩn hiện theo thủy triều. Đây chính là
một phát hiện lý giải cho địa hình bị cắt xẻ của Philippines.
Chính địa hình đó dễ khiến cho nhiều người lầm tưởng trên quần
đảo này chưa có một nền văn hoá bản địa tồn tại. Cho nên người ta
thường chọn khám phá của Ferdinand Magellan làm mô"c khởi đầu của
lịch sử Philipines.
6
I. FERDINAND MAGELLAN VÀ HÀNH TRÌNH QUANH
THẾ GIỚI
Bồ'
Ferdinand Magellan là người/Đào Nha, sinh năm 1480. Cùng với
người Bồ Đào Nha , ông đã từng ghé thăm Malacca (1509). và tham gia
những cuộc tấn công của hải quân Bồ Đào Nha vào Malacca (1511).
Cũng vào khoảng thời gian này, ông đã có một suy nghĩ đi thuyền vòng
quanh trái đất. Vua Bồ Đào Nha đã từ chối kế hoạch của ông. Nhưng ý
tưởng về một con đường mđi đến phương Đông của ông lập tức
đươcVua Tây Ban Nha hưởng ứng.
Tháng 9/1519 F. Magellan cùng vđi 280 thủy thủ rời bờ biển Tây
Ban Nha trên năm chiếc thuyền. Giông như Colombus, họ cũng đi qua
đảo Canary, nhưng từ đó, họ cho thuyền hưđng theo phía đông-nam
hướng đến bờ niển nam mv. Khoảng tám tháng ròng rã, Magellan lần
mò theo bờ biển này để tìm ra con đường đến phương Đông. Những
người theo ông đâm ra hoang mang, tuyệt vọng, thậm chí một vài người
trong sô" họ có ý định kết thúc chuyến hải trình bằng cách giết ông.
Cuộc thám hiểm tiếp tục và họ đã đến được đỉnh đầu của Nam
Mỹ, vượt qua eo biển sau này mang tên ông, eo Magellan. Thoát ra
khỏi eo biển đó, một đại dương êm đềm rộng mở trước mắt mọi người
trong đoàn, Magellan đặt tên cho nó là Thái Bình Dương. Lúc â"y đoàn
chỉ còn ba thuyền tiếp tục cuộc hành trình.
Mặc dù đói khát và bệnh tật đã cướp đi nhiều mạng sông, cuối
cùng, sau hơn bôn tháng liên tiếp tìm kiếm, lúc đó là năm 1521, họ đã
đến một quần đảo mà sau này được gọi là Philippines. Magellan đặt tên
cho các đảo đó là St. Lazarus. Họ đặt chân lên một ưong số các đảo có
tên Cebu. Cũng tại đây, trong một cô" gắng dàn xếp cuộc chiến tranh
của dân bản xứ, Magellan đã bị người của các bộ lạc giết chết vào
tháng 4/1521.
Những người còn lại gâ"p rút rời khỏi Philippines trên hai con tàu
do Del Cano chỉ huy. Họ đến Boméo rồi Tidore ở Molucas, cuô"i cùng
họ đến được Đảo Hương liệu (Spice Island). Ở đó họ chỉ còn giữ lại
chiếc Victoria để mang các hương liệu vượt Ân Độ Dương và mũi Hảo
Vọng. Trước khi cập bên được Tây Ban Nha, họ đã trải qua nhiều giông
tố và những nỗi vất vả. Cho đến tháng 9/1522, tàu Victoria trở về chỉ
với 18 người sống sót.
Mặc dù không sông sót đến lúc chuyến hải trình kết thúc nhưng
Magellan được nhđ đến như người đầu tiên đi thuyền vòng quanh thế
giđi, vì chính ông lập kế hoạch cho chuyến đi. Khám phá này thuộc về
ông, Fendinand Magellan, một nhà hàng hải vĩ đại. Ông đã khám phá ra
Philippines và con đường đến đảo hương liệu cho Tây Ban Nha.
n . PHELIPPENS DƯỚI S ự CAI TRỊ CỦA TH ựC DÂN TÂY
BAN NHA :
Mặc dù năm 1522, triều đình Tây&anMha đã biết đến Philippines
và cả con đường đi đến đó. Thế nhưng cho đến năm 1565, vói sự dẫn
đầu của Miguel Lopez de Legaspi, người Tây Ban Nha cùng với đạo Cơ
đốc và thanh gươm trong tay, đã đổ bộ lên mãnh đất này chính thức tiến
hành mưu đồ xâm lược quấn đảo. Việc chậm trễ đó là do vương triều
Tây Ban Nha khi đó đang bận rộn giải quyết các vấn đề nỗi lên tại các
thuộc địa ở Châu Mỹ Latin. Tuy nhiên trước thời điểm 2/1565 đó. vẫn
có vài đoàn tàu thám hiểm của Tây ban nha được phái đến. Một trong
những đoàn tàu đó , 1542, đã lấy tên “Philippine” (Đảo Philip) để đặt
tên cho quần đảo nhằm tỏ lòng kính trọng vị vua tương lai của Tâv Ban
Nha là Philip II.
Công cuộc chinh phục và thuộc địa hóa Philipines được bắt đầu từ
đảo Cebu, sau đó dần lan ra các đảo còn lại. đến đầu năm 1580, quá
trình chinh phục coi như đã hoàn thành. Chế độ thuộc địa đã không có
những cô" gắng cần thiết để phát triển kinh tế, xã hội của đảo, ngược lại
tình trạng kinh tế lạc hậu của mẫu quốc đã đẻ ra những phương pháp
khai thác và bóc lột thuộc địa lỗi thời. Thực dân Tây Ban Nha đã vơ vét
quần đảo này, mặc dù tài nguyên của nó rất nghèo nàn. Sức lao động
của con người, nguồn tài nguyên đáng giá nhâ"t ở đây, cũng bị bốc lột
trực tiếp thông qua quí tộc Tây Ban Nha. Người Philippine không những
chịu sự vơ vét của người Tây Ban Nha (Toàn quyền, viên chức, quân
nhân, giáo sĩ, thương nhân) mà còn chịu sự bóc lột của một thiểu sô"
người bản xứ có vị trí hàng đầu trong xã hội (Cacica hay Principalia).
Giới cacica hoạt động không vì lợi ích của cộng đồng mà vì lợi ích cục
bộ.
Theo đúng như qui luật, những phong tào đấu tranh đã nổ ra khi
người Philippine không còn muốn tiép tục ủng hộ các chính sách mà
người Tây Ban Nha áp đặt lên họ và những mâu thuẫn vđi người thưc
dân vơi nhân dân bản xứ dần dần càng trở nên ợay gắt. Nói đến các
phong trào đấu tranh của người Philippine , không thể không nhắc đến
cuộc chiến đấu của người Moro Hôi giáo ở Mindanao. Họ là lực lượng
có những đóng góp tích cho công cuộc đấu tranh vì độc lập. Đánh dấu
cho cuộc triệt thoái lực lượng Tây ban nha ra khỏi Philippines là trận
chiến thắng tại vịnh Manila, với sự giúp đỡ của liên đội hải quân Mv
(được chỉ huy bởi đô đốc George Dewey), lực lượng hải quân Tây Ban
Nha bị đập tan. Như vậy cuộc khởi nghĩa chông bọn thông trị Tâv Ban
Nha duđi dự lãnh đạo của Emilio Aguinaldo, đã giành được thắng lợi
lúc đó là năm 1898. Cũng năm này, nước cộng hòa đầu tiên ở châu Á,
Cộng Hòa Philippines! The Republic of the Philiippines), được tuyên bô"
thành lập ngày 12/7 .
r a . PHILIPPINES DƯỚI S ự THỐNG TRỊ CỦA HOA KỲ
*
m
Dân Philippine không bao giờ chịu tha thứ cho tổng thông Mc.
Kinley khi ngàv 21/12 ông đã công bô" thiết lập chủ quyền của Mỹ đôi
với Philippines chuyên xảy ra sau khi Tây Ban Nha nhương thuôc đĩa
triịu
này cho Mỹ với giá 20(Mỹ kim.
Ngược lại vơi những gì mẫu quốc cũ đã làm. Mỹ không xem
Philippines như một môi lợi kinh tê" mà xem đó là một bàn đạp chiên
lược cho mưu đồ bành trướng của mình. Vô"n là nưổc tiên tiến hơn các
mẫu quốc khác đặc biệt là so với Tây Ban Nha. về mặt kv thuật và
quan hệ xã hội của một nước tư bản, Mỹ là nưóc đầu tiên sử dụng
những thủ đoạn của chính sách thực dân mới. Thi hành nhượng bộ vơi
một số thượng lưu bản xứ, để cho tầng lớp này được giữ nhiều quyền
lực và chức vụ quan trọng hơn. Cho đến trước ngày độc lập 4/7/1946,
duy chỉ còn chức toàn quyền là do người Mỹ giữ, còn lại, mọi chức vụ
khác trong bộ máy nhà nước đều có người Philippine tham gia nắm giữ.
Mỹ làm cho người Philippine tin tưởng nhiều vào sự cởi mở của nền dân
chủ mà họ mang lại.
Ngoài ra, để tạo thiện cảm và sự ràng buộc ở người Philippine,
Mỹ còn tiên hành ân xá cho những người tham gia đâu tranh vũ trang
chông Mỹ, hoặc hổ trợ thúc đẩy nền kinh tê" Philippine phát triển nhanh
9
chóng thông qua các khoảng viện trợ. Trong hoạt động của chính quvền
thuộc địa Mỹ, việc tổ chức hệ thống giáo dục chiếm vị trí đáng kể.
Người Mv coi đây là công cụ đắc lực nhất để Mỹ hóa người Philippine
về văn hóa tư tưởng.
Tuy nhiên, mục đích của các hoạt động trên là nhắm cho sự cai trị
lâu dài của người Mỹ ở đâv. Ý đồ của Mv vẫn không tránh được trở
ngại : những phong trào đấu tranh đòi độc lập. Cũng như trong thời kỳ
khởi nghĩa chông thực dân Tây Ban Nha, người Moro Hồi giáo ở
Mindanao vẫn là lực lượng kháng chiến ngoan cường nhất. Cao điểm
của cuộc xung đột đã làm cho quân sô" của Mỹ ở Philippine tăng lên đến
65.000 quân vào tháng 11/1899. Tinh thần chiến đâu kiên cường của
các tổ chức vũ trang , cùng với những kết quả đạt được trong đâ"u tranh
nghị cường của tầng lớp trí thức yêu nước, tâm huyết về độc lập dân
tộc, đã dẫn đến việc Mỹ trao trả độc lập cho Philippine. Lỗ tiếp nhận
được tổ chức tại Manila ngày 4/7/1946, thời điểm chấm dứt số phận
thuộc địa của đâ"t nước Philippines. VỊ tổng thống đầu tiên của Cộng
Hòa Philippines là Manuel Roxas, những người kế tục là Quirino,
Ramon Magsaysay, Carlos p. Garcia, Diosdado Macapagal. Ferdinand
E. Marcos, Corazon Aquino, và tổng thông đương nhiệm là Fidel
Ramos.
IV - PHILIPPINE TRONG CHIÊN TRANH THẾ GIỚI THỨ
n
Do quá coi thường môi nguv hiểm từ phía phát-xít Nhật, và hy
vọng cuộc giao tranh Xô - Nhật sẽ tạo cho Mỹ chỗ đứng bên ngoài cuộc
chiến, nên Mỹ chậm trễ trong việc tăng cường các biện pháp phòng thủ
ở Philippines. Ngày 10/12/1941, Nhật bắt đầu tấn công Philippines và
Mỹ không kịp phản ứng.
Sau khi chiếm quần đảo này, Nhật bắt tay ngay vào sự cải tiến bộ
máy kinh tế ở đây dùng để nuôi cuộc chiến mà Nhật đang sa lầy. Diện
tích trồng đường, thuốc lá bị thu hẹp, nhường đất để trồng đay và trồng
bông. Không những vậy, diện tích trồng lúa cũng giảm gần một triệu
ha. Các hành động trên của Nhật đã làm cho xã hội Philippine bị khan
hiếm hàng hóa, giá sinh hoạt tăng vọt, nạn lạm phát hoành hành. Hậu
quả là cuộc sông của người dân trở nên cùng cực, chỉ có bọn đầu cơ, địa
chủ và đại tư sản trung gian thu được lợi.
10
Các chiến binh Philippine và những quân dân Mỹ đã chiến đấu
kiên cường sát cánh bên nhau ở Bataan và Corregidor chông lại lơi thế
áp đảo của quân Nhật. Những trận chiến đó đã tô điểm cho trang sử
vinh quang của cả hai quốc gia Philippines và Mỹ.
Năm 1943, vđi những chuyển biến theo hướng có lợi cho phe
Đồng minh trên chiến trường Châu Âu, Mỹ đã đẩy mạnh hoạt động ở
Thái Bình Dương. Tháng 9/1944, quân đội Mỹ bắt đầu đổ bộ lên
Philippines. Sự hổ trỢ của lực lượng kháng chiến trong nước đã góp
phần đáng kể vào thắng lợi của cuộc hành quân đổ bộ lên đảo Luzon
của quân đội Mỹ ngày 9/1/1945.
Đầu tháng hai, Manila được giải phóng. Cuộc kháng chiến chông
Nhật dến đây kết thúc thắng lợi.
H. VỊ TRÍ CỦA PHILIPPINE TRONG KHU
vực
ĐÔNG NAM
Á
Philippines từ ngày 8/8/1967 đã là thành viên của Hiệp Hội Các
Nước Đông Nam A (The Association of Southeast Asian Nation Asean). Cho đến nay vị trí đó vẫn được Philippine giữ. Tuv nhiên,
Philippine được đánh giá là chưa có những đóng góp lớn lao, những
hoạt động tích cực trong khuôn khổ Hiệp Hội. Điều đó được giải thích
rằng, trong hoạt động đối ngoại, do Philippine chỉ chú ý hướng ngoại
(xét theo phạm vi ASEAN) mà chủ yêu là quan hệ gắn bó vđi Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ, chứ không chú ý hướng nội.
Thời gian gần đây, các nhà lãnh đạo Philippine đã nhận ra rằng :
quyền lợi của dân tộc là nhu cầu cấp bách nhất. Từ nhận thức đó họ đã
đề ra những hướng hành động mới. Một sô" những hướng đó là : giảm
dần sự mật thiết đôi vổi Mỹ (nhằm tháo bỏ bớt sự ràng buộc) đẩy mạnh
tích cực những hoạt động hiệu quả, tăng cường hợp tác trong khu vực để
góp phần tạo một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác,
thịnh vượng.
Cũng chính nhờ vào sự chuyển hướng đó, Philippine có cơ hội
nhìn ngắm lại mình. Họ tự thâ"y thua kém hơn các thành viên khác của
Hiệp Hội về phát triển kinh tế, và cả việc bảo tồn những di sản văn
hóa. Đây là hai vấn đề mà các nhà lãnh đạo Philippine đang nỗ lực giải
quyết.
11
PHẨN II
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT CỦA
PHILIPPINES
Như đã giới thiệu , chịu chung số phận với hầu hết các nước ở
Đông Nam Á, Philippines đã trải qua khoảng thời gian dài gần 350 năm
dưới ách thông trị của thực dân Tây Ban Nha, và một khoảng thời gian
không ngắn (1898 - 1946) chịu sự đô hộ của Mỹ. Cho nên, trong văn
hóa Philippines nói chung, trong nghệ thuật Philippine nói riêng còn
những vấn đề cần có sự quan tâm nghiên cứu. Có hai phạm trù văn hóa
nghệ thuật cần phải xem xét. Phạm trù thứ nhất là những giá trị nghệ
thuật gắn liền với nền văn hóa của những cư dân được xem là người
bản xứ. Phạm trù thứ hai là di sản văn hóa- nghệ thuật mà nhân dân
Philippine thừa hưởng được qua khoảng thời gian bóng tôi thực dân
phương Tây phủ trùm đất nước.
*
A. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT BẢN ĐỊA
Cho đến nay những nghiên cứu của ngành dân tộc học đã khẳng
định rằng có sáu làn sóng di cư chủ yếu vào Philippines:
- Từ Đổng Nam Á, cụ thể là các giai tầng của Indonesian và TibetoBurman (Tạng- Miến )
- Từ các đảo thuộc Indonesia và Malaysia hiện nay
- Từ Trung Hoa
- Từ Ấn Độ
- Từ Micronesia*\(nhóm các đảo nhỏ trong Thái Bình Dương nằm ở
phía Tây Philippines)
%
Các cư dân này, ngày nay nói chung có thể được chia làm hai
nhóm :
12
- Pypmies ( một bộ phận của nhiều dân tộc ở Châu Phi và Châu Á
có vóc dáng di truyền từ l,2m đến l,5m, còn được gọi là
Negritos) .
0
‘
- Nhóm Indonesians được phân chia nữa làm ba nhóm nhỏ
(subgroup). Sự phân loại này được căn cứ trên nguồn gốc và đặc
điểm văn hóa
I- VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT NEGRITOS.
Nhóm Negrito, nhìn chung đang giảm đi một sô" , gắn liền với nó
có các nhóm Pygmy khác thuộc Đông Nam Á. Ngoài ra, nhóm Negrito
còn được hình thành từ nhóm người có nguồn gốc từ các đảo Samang
của Malacca và Andaman ở vịnh Bengal. Tiếng Negrito không hình
thành nên một nhóm nhỏ trong gia đình ngôn ngữ Philippine
Av*ífronesian ( cũng được gọi là Malayo-Polynesian). Hoàn toàn chúng
có khuynh hưđng liên hệ chặt chẽ với những ngôn ngữ của các dân tộc
không phải Negrito ( non- Negrito ) trong các khu vực địa lý riêng biệt
của chúng .
*
4
Ở Philippine, nhóm Negrito lđn nhất, trong tiếng Tagalog được
hiểu với cái tên ” Aeta”. ta có thể tìm gặp họ ở bộ phận đông bắc đảo
Luzon, ở tỉnh Zambales và phần phía Tây của đảo này. Người Pygmy
sông thành từng đoàn phiêu bạt nay đây mai đó trong những cách rừng
sâu. Văn hóa của họ được các nhà nghiên cứu đánh giá là loại hình
nguyên thủy nhất trên trái đất. Họ không dựng nhà, ngoại trừ một sô" lán
dùng làm nơi nương náu tạm thời. Họ không phải cô" gắng nhiều để
dựng các lán đó , nguyên vật liệu chủ yếu được sử dụng hoàn toàn từ
những lá và cành cây rơi rụng. Như vậy về cơ bản , người Pygmy chưa
có những ý niệm về nghệ thuật dựng nhà và trang trí chỗ ở .
Người Pygmy không làm nông nghiệp, họ sông hoàn toàn bằng
săn bắn , cài đặt bẫy, và thu nhặt các lâm sản hoang dại. Mổtlý do lý
giải cho đời sống quắ đơn giản của họ là : họ không có gì trong tay , vũ
khí, công cụ chủ yê"u của họ là cung và tên. Họ không có hay nói đúng
hơn là chưa tự tạo được những công cụ cần thiết để làm nông nghiệp
hay một công việc gì khác . Cung của họ được chế tạo thiếu hẳn sự trau
chuốt, không có những hoa văn trang trí . Những mũi tến không được
đựng trong các ông tên như của các chiến binh Mông c ổ xưa kia và
13
chúng được làm nhọn đầu không phải bằng cách vót nhọn, mà bằng
cách mài nhọn, tất nhiên đầu mũi tên không được bịt kim loại.
*
*
*
m
Nếu đã khẳng định nguồn gốc của nhóm này từ các đảo khác
đến,chúng ta sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng một trong những đặc
điểm của người Pygmy ở Philippines là họ rất sỢ nước, hoàn toàn không
có hiểu biết về kỹ thuật bơi lội, và tệ hơn nữa là họ không biết sử dụng
thuyền hoặc bè. Đặc điểm này của người Pygmy có thể củng cô" thêm
cho giả thiết rằng :địa hình bị cắt xén nhiều của Philippines nói riêng và
các vùng khác trên thế giới nói chung là do qưẳ đất nóng lên làm băng
ở hai vực tan dẫn đến nước biển dâng lên .
Trong quá trình tiến hóa, người Pygmy ( Negrito ) đã có những
hoạt động tiếp cận , rồi tiếp xúc vđi các dân tộc sinh sống gần họ. Họ
dần dần thu nhận vài đặc điểm văn hóa và thậm chí đã có sự pha trộn
với các dân tộc khác. Cuộc sông định cư phần nào được họ ghi nhận ,
những ngôi nhà vđi chất lượng tốt hơn được dựng lên. Tuy nhiên người
Pygmy có sự cô" hữu trong phương thức kiếm sông vốn có tự lâu đời : họ
đổi những sản phẩm thu nhặt hay săn bắn được từ rừng với các dân tộc
khác để lấy tiền, thực phẩm tinh bột ( gạo, ngũ cốc ) quần áo, đồ trang
sức, và các loại binh khí . Một sô" ít tỏ ra tiến bộ hơn trong một sô" nghề
như các hương dẫn viên rừng xanh ( forest guider) hoặc là những người
làm công trong các trang trại gần bộ lạc của họ . Thế nhưng, khi mùa
khô đến , rừng xanh lại có sức hấp dẫn đôi với họ hơn.
Người Pygmy với một trình độ vãn hóa kém phát triển như vậv,
họ chỉ có thể có khả năng tạo ra những sản phẩm nghệ thuật vơi những
hạn chế tương ứng . Chủ yếu họ chỉ thể hiện tư duy nghệ thuật của
mình qua việc trang trí các vật dụng khác nhau. Thông thừ<ẳ**g\ họ sử
dụng màu đen và các màu tự nhiên chế tạo từ đất, từ lá cây, từ nhựa cây
( cây Nara có nhựa đỏ chẳng hạn )... Đối tượng trang trí chủ yếu là
những chiếc lược tre của phụ nữ với chủ đề không rõ ràng, chỉ như là
những vết cào xước.
n VĂN HÓA- NGHỆ THUẬT NHÓM INDONESIANS
4
Nhóm Indonesians là một nhóm tương đôi phức tạp về câu trúc
với nhiều dân tộc khác nhau , nhưng được qui tụ vào nhóm do một sô"
điểm tương đồng , điển hình như tầm vóc thấp (l,5m -l,6m ) tóc đen
14
I
quăn gỢn sóng , da hơi nâu. Nhóm Indonesians ( như đã giới thiệu, để
dễ dàng cho công tác nghiên cứu ) được chia thành ba nhóm nhỏ .
1- VẢN HÓA - NGHỆ THUẬT CỦA CÁC DÂN TỘC THUỘC
NHÓM SAMAL
l.a - samal
Nhìn chung nhóm này đã có sự pha trộn vđi nhóm Negrito và
nhóm Malay. Các vùng định CƯ lác đác trong một phạm vi lớn của họ
được tìm gặp từ trung tâm Philippines vđi những vùng đất nhỏ ở
Zambales và phía bắc Mindanao, ở khắp cả quần đảo Sulu của
Philippines đến bờ biển phía đông của Borneo. Ngoài ra họ còn chiếm
cứ một vùng khá rộng lđn ở bờ tây đảo Palawan.
Người Samal , trong lúc giao tiếp với nhau thì dùng tiếng Sama.
Thời gian gần đây, gia đình tiếng Sama đã được xem xét để xáp nhập
vào nhóm ngôn ngữ trung tâm Philippine. Thế nhưng, hiện tại nhìn
chung, chúng được qui thành một bộ phận riêng biệt trong ngữ hệ
Austronesian
Ở trung tâm và phía nam Sulu, những ngôi làng của người Samal,
như một nét đặc trưng, được dựng trực tiếp trên biển, trong các luồng và
những chỗ cạn theo thủy triều. Nhà được dựng trên những chiếc cọc
nhô lên khỏi mặt đất hoặc điểm nước cao từ Im đến 3m . Thông thường
một nhà bao gồm độc nhất một phòng hình chữ nhật và một nhà bếp
gắn liền . Kích thước và vật liệu xây dựng thay đổi theo khả năng của
chủ nhân . Một chỗ ở chuẩn mực được hình thành với mái lợp tranh;
vách và sàn bằng tre tách ra. Những ngôi nhà được liên kết với nhau
bằng những tấm ván hẹp có tác dụng như chiếc cầu. Khi nhiều nhà tụ
họp thành nhóm lổn hơn gọi là cụm (Tumpuk). trong từng cụm như vậy,
nhìn chung, gồm những gia đình có quan hệ dòng họ , huyết thông với
nhau.
Trong xã hội của người Samal, trước đây vẫn có việc phân chia
đẳng cấp, nhưng không hoàn toàn giông như sự phận chia đẳng cấp
trong xã hội Bà- La- Môn. Các đẳng cấp theo thứ tự từ cao xuống , bao
gồm : quốc vương, quý tộc, bình dân, nô lệ. Trong xã hội này, có Năm
Trụ Cột của Hồi giáo ( Five Pillars of Islam ) được thừa nhận : tuyên bố
đức tin vào Allah và Mohammed; năm buổi cầu kinh hàng ngày; ăn
15
kiêng trong tháng Ramadan; trả tiền thuế tôn giáo. Tuy nhiên, chỉ một
số có đủ khả năng làm chuyến hành hương đến Mecca, và chỉ những
người sùng đạo mđi thực hiện đủ tất cả năm buổi cầu kinh hàng ngày. Ở
mỗi xứ đạo Samal đều có một thánh đường được dùng như một trung
tâm thờ phượng chung và cũng là nơi hội họp hàng tuần.
Nền văn hóa của người Samal tương đôi phát triển . điều này dẫn
đến sự phát triển trong khía cạnh nghệ thuật dù chưa thể gọi là đáng kể.
Ngoài nông nghiệp và đánh bắt thủy hải sản , một số ngành nghề thủ
công đã và đang hoạt động như : đan chiếu ( với nguyên liệu lấy từ lá
cây dưá dại ( Pandarus) được nhuộm màu ); đi biển ( người Samal cũng
là những người thợ khéo léo đóng được những chiếc thuyền đẹp , chắc
chắn, có khả năng đi biển ). Họ đã có thể làm đồ gốm , nhưng đồ gốm
của họ không được trang trí . Có nghề làm ra các vật dụng bằng sắt như
: dao, búa , giáo. Những người khéo tay đã tạo những hoa văn trang trí
trên các chiếc lược bằng mai rùa, đồ trang sức, những chiếc cọc mộ gỗ,
và vài đồ gỗ trang trí được thực hiện bằng cách tạc khắc. Đặc biệt,
người Samal nổi tiếng trong số những người theo Hồi Giáo ở Philippines
vì truyền thông ca múa đã phát triển . Sinh hoạt âm nhạc được cử hành
qua việc sử dụng các bộ gõ và đàn phiến gỗ ( đàn xylophone ). Không
thể nói là tường tận nếu chưa đề cập đến nghệ thuật chế biến thực
phẩm của người Samal từ những thứ họ thu hoạch được : chuôi, sắn,
gạo, ngô, cà chua, đậu,... và những thứ họ đánh bắt được như các loại
tô m , cá ....
l.b-Tagbanuwa
Trên đảo Palawan, chính xác hơn là vùng trung tâm đảo Palawan,
là quê hương của một nhóm người vđi tên được gọi là Tagbanuwa
(Tagbanua). Ngoài ra họ còn có mặt ở những bộ phận phía bắc đảo này
và tỉnh Quezon. tiếng Tagbanuwa thuộc ngữ hệ Austronesian, với sự
khác biệt đôi lúc được tạo ra giữa trung tâm Tagbanuwa và phía bắc
Tagbanuwa. Tín ngưỡng truyền thông của người Tagbanuwa tập trung
vào thế giới thần linh , hồn ma, linh hồn những người thân và phụng thờ
những người đã chết. Điều đó không phải là sự thờ phụng tổ tiên mà chỉ
là sự sùng kính cha - mẹ, anh - chị.
Hoạt động kinh tế truyền thông bao hàm việc trồng lúa , thêm
vào đó là ngô, kê, khoai, sắn. Họ còn làm giàu thêm nguồn thực phẩm
16
cho mình bằng việc đánh bắt cá và săn bắn thú rừng . Ở trung tâm
Palawan, người Tagbanawa là dân tộc duy nhất trích thu và tổng hợp
được copal, một thứ nhựa tìm thấy trong vỏ của loại cây thuộc họ thông
được gọi vơi cái tên Dammara. Những sản phẩm do nghề làm song-mây
làm ra là những chiếc rổ,sọt, nón..., Đôi khi song mây đã được chẽ tách
cũng là một nguồn thu nhập qua buôn bán như là một thứ nguyên liệu
sơ c h ế .
1. c- Mangyan
Người Mangyan chọn địa bàn cư trú gần như duy nhất ở phía bắc
đảo Mindanao, do được xem xét rằng có nhiều điểm tương đồng về
nguồn gốc và văn hóa nên văn hóa- nghệ thuật Mangyan thuộc một
nhóm Samal -Mangyan . Hơn nữa, dân tộc láng giềng chủ yếu của
người Mangyan là người Samal Moro với nguồn gốc giống Samal, và
chịu những tác động ảnh hưởng về văn hóa với các dân tộc khác cùng
nhóm . Bởi thế, nền văn hóa - nghệ thuật Mangyan không nêu được
những hình thái gì mới ngoài những gì đã trình bày trước đó . ( Đôi với
văn hóa - nghệ thuật Mangyan những gì cần nói xem như đã nói ở phẩn
giđi thiệu văn hóa - nghệ thuật các dân tộc Sam al, Tagbanuwa)
2. VĂN HÓA- NGHỆ THUẬT CỦA CẤC DÂN TỘC THUỘC
NHÓM EFUGAO
Dân cư của nhóm này được tìm thấy trên đảo Mindanao , ở bên
trong đảo Luzon và trên các đảo nhỏ hơn ở bên cạnh. Những bọ phận
của nhóm được xem xét đã nhận sự pha trộn hoặc vđi người Negrito,
hoặc với người Mangyan. Nhìn chung, nguồn gốc của họ là Malay và
các cư dân phía nam Indonesia, v ề ngôn ngữ, có sự giông nhau với
tiếng Malagasy ( tiếng Austronesian của Madagasca - trước đây là Cộng
Hòa Malagasy) ngoài ra nó còn chịu sự ảnh hưởng mạnh của tiếng
Hindu.
2. a- Ifugao
dân tộc Ifugao là một nhóm người sông trên vùng có nhiều núi
thuộc đảo Luzon. Công việc thường xuyên của họ là làm ruộng - rẫy .
Người Ifugao sông thành từng xóm (thôn) gồm tám đến mười hai nhà .
Sống trong nhà có tất cả ba mươi người hoặc hơn . Nhà được xây trên
các mô đất ở các châu thổ. Nhà ( Bale ) được xây dựng ở những vị trí có
TRUBnG đại học mở TP.HCM
THƯ VÌẾN
dạng bậc thang gần các thửa ruộng trồng lúa. Họ cũng có các nhà kho
chứa lúa được hình thành trên nền đất cao, và cũng như nhà ở. chúng
được tựa trên bốn trụ , có mái lỢp tranh . Nhà ở và nhà kho có điểm
khác nhau là : nhà ở lđn hơn và có lò sưỡi . Họ cũng có nhà ở tạm ,
những ngôi nhà dành cho người chưa kết hôn . Nhà tạm được xây ngay
trên nền đất, không có các trụ đỡ giống như nhà ở chính hay nhà kho.
trước đây, trong nhà ở chính có các kệ ( giá ) là chỗ dành cho những
chiếc đầu lâu của kẻ thù . Họ đã lấy được chúng qua những trận giao
chiến. Một hộ điển hình sẽ bao gồm một gia đình hạt nhân, gia đình chỉ
có những người trong quan hệ huyết thống, không phải là họ hàng thân
thuộc kém gần gũi. Những đứa trẻ, đến một lúc đã đủ lớn, phải tự chăm
sóc lấy mình. Chúng phải đến ở trong những ngôi nhà chỉ giành riêng
cho con trai, hoặc chỉ giành riêng cho con gái.
TỔ CHỨC XÃ HỒI:
*
*
‘
Theo truyền thông, sự phân biệt xã hội dựa vào sự giày có.ruộng
lúa,trâu và nô lệ .Những quí tộc giàu có được hiểu với tên gọi
Kadangyan, vị trí trên Hagabi, một băng ghế lớn bằng gỗ cứng, đãm bảo
một cách tượng trưng uy thế của họ. Để xác nhận địa vị cao của mình,
các Kandangyan thường mở những buổi tiệc chiêu đãi và phô bày các
của gia bảo bao gồm các loại trang sức trên đầu có tên”hombill"
(hombill he»Uress), chuỗi vàng kiếm cồng - chiêng và các bình cổ
Trung Hoa Những người giàu kém hơn, được gọi là Natumok, họ có ít
đất, điều này đẩy họ đến việc vay mượn gạo từ các Kandangyan vơi
mức lợi tức cao. vơi những lý do như vậy , chúng gần như không cho
các Natumok có cơ hội phát triển lên vị trí Kandangyan. Người nghèo
gọi là Nawatwat, không có đất đai phần đông trong sô" họ làm việc như
những nông dân và đầy tớ làm thuê cho tầng lớp Kandangyan.
Trong xã hội ngđởi Ifugao không có thủ lãnh hoặc hội đồng. Tuy
nhiên, có khoảng 150 vùng (hỉmputonaán), mỗi vùng bao gồm nhiều
xóm. Ớ trung tâm mỗi vùng là một mãnh ruộng nghi thức,người chủ sở
hữu nó sẽ đưa ra tất cả những quyết định liên quan đến nông nghiệp
cho vùng đó.
Trong xã hội Ifugao, việc quản lý xã hội là sự kết hợp hoạt động
có tính chất thân tộc và sự kiểm soát bởi một Monbaga, một uy lệ mà
sức manh dựa vào sự giàu có, sự am tường những qui tắc mang tính
18
phong tục (Adat) của ông ta, và đặc biệt, một nhốm ủng hộ lớn bao gồm
những người trong thân tộc đứng sau những quyết định của ông ta. Sự
phê chuẩn chính vếu của các vị Monbaga là cái chết và tiền phạt. Mức
độ giàu có của tội nhân hoặc mức độ thân thích của họ sẽ làm hình phạt
được giãm đi tính tàn khô"c. Đôi với những tội nhân kém giàu hơn hoặc
có quan hệ xa hơn, có nhiều khả năng cái chết là sự phán quyết giành
cho họ. Tuy nhiên giới Monbaga không kiểm soát được hận thù giữa các
nhóm thân tộc của họ trong cộng đồng lớn hơn và cuộc chiến với những
người ngoại tộc. Các mốì thù thường tồn tại trong một thời gian dài, nếu
mảy may chấm dứt, thông thường, chúng được kết thúc bằng hôn nhân
ngoài thân tộc (hôn nhân ngoại tộc -nrtermarriage) giữa các nhóm thù
địch. Cuộc chiến thường xảy ra với hình thức đột kích, tấn công bất ngờ,
giết chóc và cướp phá. Đảm nhận những cuộc đột kích như vậy là các
toán lên đến 100 người. Những đột kích quân không chỉ truy tầm những
chiếc đầu để trưng bày trên kệ, mà còn chiếm nô lệ bán cho người ở
vùng thấp. Hận thù và những cuộc chiến đẫm máu đã chấm dứt khi lực
lượng Mỹ chiếm đóng Philippines.
TÍN NGƯỠNG VẢ VẮN HÓA-NGHẺ THUẢT
Tình trạng phức tạp về tín ngưỡng, trong một chừng mực. được
dựa vào những khái niệm vũ trụ học rắc rối của Ifugao. Họ chia vũ trụ
thành: trái đâ't, Pugao (người Ifugao tự ám chỉ mình là “Ipugao" hoặc
"những cư dân của trái đất") ; vùng trời, Kabunian; cõi âm, Dalum; vùng
hạ lưu, Lagod; vùng thượng lưu, Daiya. Mỗi một trong năm vùng này có
một số đông các linh hồn. Các linh hồn đều có tên riêng, và mỗi linh
hồn sẽ thuộc về một trong 35 phạm trù đại khái bao hàm các bậc tổ tiên
anh hùng, các thiên thể, những hiện tượng tự nhiên, và bệnh tật. Thêm
vào đó, người Ifugao cũng có các vị thần tôi thượng, những hình thái
được xem là bất tử, có.thể thay đổi hình hài bên ngoài hoặc trở nên vô
hình,và có thể di chuyển được.
Tế quan Ifugao là những người đàn ông nắm giữ vai trò một cách
tự nguyện sau một thời gian học hỏi, trao dồi. Công việc họ làm là để
phục vụ các thành viên trong quan hệ ruột thịt vơi họ bằng việc cầu
khấn các linh hồn tổ tiên đã chết đi và các đấng tối cao. Tế quan không
kiếm sống từ những việc liên quan đến cúng tế, tuy nhiên, họ được đền
bù với thịt, thức uống và thanh thế.
19
4
t
Những nghi thức và nghi lễ dành cho các mục đích, như điềm báo.
việc săn bắn thành đạt, sự dư dật nông phẩm, những lễ hội phô trương
thanh thế,..., một cách đặt trưng, thường tiến hành vói 15 tế quan. Các
vị này sẽ phải kể lại những thần thoại để cho họ có những quyền năng
thông với đấng tôi cao và những vị tổ anh hùng được nêu trong truyện.
Để thực hiện mục đích đó, vị quan tế mời gọi các đấng siêu hình hãy
chi phôi (ám lấy) thân xác họ. Khi cầu khấn các đấng tối cao có thể
kèm với việc xướng tụng kéo dài hơn năm giờ (thời lượng). Đến một lúc
nào đó trong buổi tế, dâng tối cao sẽ được dâng lên một lễ vật (có thể
là trầu, vuốt gà , thịt heo , gà, ...) và được chăm dưỡng bằng cơm và
rượu, thực hiện thong qua thể xác viên tế quan. Cuối cùng, việc hô hào
nhiệt thành cho đấng tối cao được tiến hành để kết thúc nghi lễ.
Bệnh tật gây ra bởi thần linh lấy đi linh hồn của con người qua sự
hợp lực với các bậc tổ tiên. Tế quan xử lý bệnh thông qua bói toán và
một sô" nghi thức điều trị. Những cô" gắng nhằm để tổ - thần gửi trả lại
linh hồn. Nếu tổ-thần không thõa mãn được, con bệnh sẽ chết. Tử thi
được đem rửa sạch, miệng được bịt kín, và được đặt vào một ghê" danh
dự cho người chết (xác của Kadangayan được treo một biển hiệu). Ở đó
thân xác yên vị trong sự bảo vệ của lửa và một người trông nom xác.
Cứ mỗi đêm xác chết lại được đánh thức. Người chết nêu giàu có hơn,
thời gian đó kéo dài hơn (có thể đến 13 ngày). Xác được táng trong
ngồi mộ của gia đình hay trong quan tài gỗ (thân gỗ khoét rỗng) được
đặt trong lăng hoặc dưới nhà. Đặc biệt có khi những đám tang phụ diễn
ra ba đến năm năm sau, nếu người chết bâ"t hạnh (theo chiêm đoán của
tê" quan)b«ạtdo bệnh tật lúc còn sô"ng. Một sô" bộ phận Ilugao táng đàn
ông, đàn bà riêng biệt nhau. Ngoài ra, họ chôn trẻ con đã chết trong
những chiếc bình.
2.b-Bontok
m
Người Bontok có vị trí cư trú ở các hẻm núi dô"c,những vùng đâ"t
thuộc thượng lưu sông Chico ở trung tâm tỉnh Mountain phía bắc Luzon.
Tiếng Bơntok có quan hệ gần gui tiếng Kankanai vô"n là một bộ phận
của nhóm phía bắc Luzon của tiếng Philippine.
Kinh tê" của người Bontok bao gồm nông nghiệp, săn bắn, đánh
bắt, thuần dưỡng động vật, trao đổi. Những cánh đồng được tưới tlcu.
bằng cách mang nước trong các chậu, làm đổi hướng dòng nước, hoặc
20
,
‘
#
.
»
bằng cách xây đập vơi các máng gỗ. Chó được dùng để đi săn trâu
hoang, một yếu tô" quan trọng cho các tiệc cưới. Heo được nuôi trong hô",
chăn nuôi heo cũng là một phần quan trọng trong văn hóa của họ.
Ngoài ra, người Bontok còn bắt gà, mèo, chim bằng bẫy, và đánh bắt cá
bằng cách làm đổi hướng dòng nước để hướng những con cá vào lưới
hoặc bẫy. Từ lâu người Bontok đã thuần hóa được trâu, heo, gà. chó,
mèo. Họ cũng quen thuộc với nghề làm binh khí, họ dùng hai ông thổi
và than củi để rèn lưỡi giáo. Mỗi một làng chuyên về một nghề thủ
công riêng biệt, cho nên có sự trao đổi mua bán lẫn nhau giữa các làng
qua những hàng hóa như lưỡi giáo, tẩu thuốc, rổ, nón, sáp ong, đồ gô"m,
muôi,... Những nắm gạo dùng để trả cho quần áo sợi bông nhập, chăn,
rìu,... Như vậv, trong xã hội Bontok đã tồn tại một tổ chức sản xuất theo
mô hình phường hội, và việc mua bán được tiến hành qua việc trao đổi
đơn giản hàng - hàng.
Văn hóa Bontok nổi tiếng vđi những phường làng (ato). Mỗi làng
có từ sáu đến mười tám ato, như vậy chứa từ bốn đến hai mươi nhà.
Trung tâm nghi thức của aĩo bao gồm- một bục đá vô"n xưa kia là cô" vị
của lễ nghi săn đầu người;một nhà ngủ tập thể (domitory) cho nữ chưa
kết hôn và cũng một khu như vậy cho các đàn ông còn độc thân.Tại
những khu nhà đó, sự phục vụ cũng giông như một clubhouse hay một
cư xá. v ề tổ chức, mỗi aĩo chịu sự điều phôi của một hội đồng các bậc
cao niên giông như nguyên lão viện.
Trong tín ngưỡng truyền thông, hiện vẫn mạnh mẻ lưu truyền,
linh hồn người chêt có giá trị quan trọng bậc nhất. Anito chiếm một thê"
giới linh hồn, thê" giđi đó được xác định rõ trên các ngọn núi. Những
linh hồn được tham vân tất cả mọi vân đề quan trọng và những hồi đáp
được ban ra thông qua tiếng hót của chim. Lời của chim sẽ được các tế
quan dịch giải. Lumawig được người Bontok cho là một thực thể tối cao,
một dâng tạo hóa, hiện thân của mọi quyền năng thiên nhiên. Nhóm
các tê" quan mang tính thê" lập trong xã hội Bontok được gọi là Paĩav. Họ
hương dẫn tiến hành mọi nghi lễ tôn vinh Lumawig. Nghi lễ chữa bệnh
có thể được tiến hành với sự chủ trì của Patay hoặc các lão nhân. Nghi
lễ này tiến hành không kéo theo các hình thức ca hát hoặc nhảy múa,
và tê" quan cũng không xuất thần (tức lên đồng). Đôi vơi những nghi
thức kém quam trọng hơn có thể do những chủ gia đình (chủ hộ) là chủ
xướng.
21
*
Người Bontok không chỉ tôn thờ hoặc lưu giữ hình ảnh của thần
lính hay tổ tiên một cách mơ hồ trong tâm linh mình,mà đã cụ thể được
hình ảnh đó bằng thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc.
Không riêng gì người Bontok mà hầu như mọi dân tộc thuộc nhóm
líugao này điều có các tác phẩm nghệ thuật giông như vậv. Đó là
những bức điêu khắc gỗ nhỏ khổ vổi chủ đề là các hình aniĩo, mô tả
hình tướng các vị tổ tiên, những người vđi dân chúng họ đã trở thành
những thần linh hộ vệ. Các mẫu anito mô tả một cách sơ sài, nhưng
trung thực, dáng người đang đứng hoặc ngồi, được tô điểm thêm với
những vòng cổ, hoa tai đều bằng vỏ sò, xà cừ và tóc (có thể bằns tóc
người hoặc có nguồn gôc cây cỏ). Đôi khi tượng anito còn được mặc
một dây lưng ở hông, và để thật giông sẽ có những vết xăm phủ lên
thân nó. Mặc dù khi so sánh với các tác phẩm nghệ thuật của những
nền văn hóa nguyên thủy khác, giá trị của tượng anito không đáng kể,
tuy nhiên chúng gây sự tò mò vì tính tự phát của các mẫu. Hình người
cũng được tìm thấy trên các chén có tạc khắc dùng trong các nghi lễ;
những bát lớn có thể đặt tựa trên các chân đế bao gồm ba hình anito
hoặc có thể được đở trên đầu gốì của một hình người đang ngồi.
2.C. Bagobo:
Trong cộng đồng Bagobo có nhiều nhóm nhỏ, thế nhưng, mỗi
người trong cộng đồng nói một trong ba thứ tiếng Bagobo. Hiện tại có
hai nhóm chính, chúng được phân biệt rành mạch dựa vào sự cách biệt
địa lý và những sự khác biệt về văn hóa. Người Bagobo vùng cao sông
ở cùng nhiều núi non, giữa thượng lưu sông Davao ở Mindanao. Ngược
lại, người Bagobo ven biển có một thời đã sông trên các ngọn đồi ở
phía nam và đông núi lửa Apo. Người Bagobo ven biển bị ảnh hưởng
bởi người Thiên Chúa giáo, các đồn điền và sự tái định cư của người
Bisaya gẩn biển. Hiện nay, họ không tồn tại như một nhóm độc lập
sông hoặc với người Bagobo vùng cao hoặc với người Bisaya.
„
Người Bagabo, sinh kế truyền thống của họ phần lớn (75%) có
được từ việc trồng lúa, sắn, khoai, và các vụ màu khác. Phần còn lại họ
có được bằng việc săn bắn, đánh bắt, thu nhặt. Một vài làng gồm sô" ít
gia đình sốhg trên đỉnh đồi, những làng đó không cố định do tính châ"t
du canh của họ. Ớ các châu thổ lớn có đên 100 gia đình sông với nhau
trong các ngôi làng ổn định hơn.
22