Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đáp án cuộc thi tìm hiểu bộ luật hình sự năm 2015 năm 2018 thí sinh dự thi trên 18 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.41 KB, 23 trang )

BÀI DỰ THI
Cuộc thi “Tìm hiểu Bộ luật Hình sự năm 2015” trên địa bàn thành phố Hà Nội
(Ban hành kèm theo số 2368/QĐ-BTC ngày 16/5/2018 của Ban Tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu Bộ luật Hình
sự năm 2015” thành phố Hà Nội )

Họ và tên: ...............................................................................................Giới tính:......................................................................
Ngày, tháng, năm sinh:..............................................................................................................................................................
Số CMND hoặc Số căn cước công dân: ................................................................................................................
Do Công an.................................Cấp ngày..................................................................................................................................
Đơn vị công tác:................................................................................................................................................................................
Hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú:.................................................................................................................................
Số điện thoại:........................................................................................................................................................................................
Phần I. Câu hỏi trắc nghiệm
(Thí sinh khoanh tròn câu trả lời đúng)
1.Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi tắt là
Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực từ ngày, tháng, năm nào?
a Từ ngày 01/07/2016
b Từ ngày 01/7/2017
c Từ ngày 01/01/2018
2. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm chủ thể nào sau đây phải
chịu trách nhiệm hình sự ?
a) Cá nhân
b) Pháp nhân
c) Pháp nhân thương mại
3. Nguyên tắc nào sau đây không phải là nguyên tắc xử lý đối với người
phạm tội quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ?
a) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ,
tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
b) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính
chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.


Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng
phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc


phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
c) Đối với người tái phạm, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù,
giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục.
d) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ
sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có
đủ điều kiện do Bộ luật Hình sự quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp
hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện.
đ) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống
lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa
án tích.
4. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người từ đủ độ tuổi nào phải chịu
trách nhiệm hình sự?
a) Người từ đủ 16 tuổi trở lên
b) Người từ đủ 14 tuổi trở lên
c) Người từ đủ 18 tuổi trở lên
5. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc
các tội nào sau đây?
a) Tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác
b) Tội cướp tài sản, tội trộm cắp tài sản
c) Tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy
d) Tội tổ chức đua xe trái phép, tội đua xe trái phép
e) Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
f) Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương

tiện điện tử của người khác, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
6. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội nào thì phải
chịu trách nhiệm hình sự?
a) Tội giết người hoặc tội cướp tài sản
b) Tội trộm cắp tài sản
c) Tội gây rối trật tự công cộng
7. Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù
trước thời hạn khi có điều kiện nào sau đây?


a) Phạm tội lần đầu
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt
c) Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù
d) Có nơi cư trú rõ ràng
e) Khi có đủ tất cả các điều kiện tại điểm a, b, c, d nêu trên
8. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích nếu thuộc
một trong các trường hợp nào sau đây?
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc người bị áp dụng biện pháp tư
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị
kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất
nghiêm trọng do vố ý.
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý.
9. Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa
đạt hay không?
a
b



Không

10. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện
tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội thì có được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm hay
không?
a) Có
b) Không
11. Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích
mạnh khác, có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
a) Có
b Không
12. Người che giấu tội phạm (người không hứa hẹn trước, nhưng sau
khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật
của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người
phạm tội) là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của


người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp nào sau
đây?
a) Phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm đối với hành vi
che giấu thuộc các loại tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự
b) Chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm khi thuộc
trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
13. Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của
người phạm tội biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện

hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì có phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội không tố giác tội phạm hay không?
a) Không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm đối
với hành vi không tố giác thuộc các loại tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự.
b) Chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm đối với
các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
14. Trường hợp nào sau đây không được loại trừ trách nhiệm hình sự?
a) Sự kiện bất ngờ
b) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
c) Phòng vệ chính đáng
d) Tình thế cấp thiết
e) Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
f) Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ
g) Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên.
h) Vô ý phạm tội
15. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có căn cứ
nào sau đây?
a) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự
việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn
chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc
biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận hoặc người thực hiện tội phạm nghiêm
trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi
thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
b) Người phạm tội là phụ nữ có thai.
c) Người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình.



16. Trong các hình phạt sau, hình phạt nào không phải là hình phạt
chính ?
a) Cảnh cáo
b) Phạt tiền
c) Cải tạo không giam giữ
d) Trục xuất
đ) Tù có thời hạn
e) Tù chung thân
g) Tử hình
h) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
17.Trong các hình phạt sau, hình phạt nào không phải là hình phạt bổ
sung?
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
b) Cấm cư trú
c) Quản chế
d) Khiển trách
e) Tước một số quyền công dân
g) Tịch thu tài sản
18. Tình tiết nào sau đây không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự?
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục
hậu quả.
c) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn.
d) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.


đ) Người phạm tội tự thú.

e) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
g) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc
phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án.
h) Người phạm tội đã lập công chuộc tội.
i) Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác.
19. Tình tiết nào sau đây không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự ?
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất côn đồ;
c) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
d) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
đ) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi
trở lên;
e) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người
khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
g) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
h) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
i) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội
phạm;
k) Người phạm tội là người có bệnh
20. So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 bổ
sung thêm trường hợp nào sau đây không phải thi hành án tử hình với người
bị kết án?
a) Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản,
tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản
tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát
hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.



b) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi
bị kết án đã chủ động nộp lại một phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác
tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc
lập công lớn.
Câu 21. Khoản 1 Điều 108 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định công
dân Việt Nam câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa
và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an
ninh thì bị phạt tù theo thời hạn nào sau đây?
a) Từ 12 năm đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình
b) Từ 10 năm đến 15 năm
c) Từ 7 năm đến 10 năm
Câu 22. Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người có
hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm
có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhằm chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị phạt tù theo thời hạn nào sau đây?
a

Từ 05 năm đến 7 năm

b

Từ 05 năm đến 12 năm

c

Từ 10 năm đến 12 năm


Câu 23. Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người
giết 02 người hoặc giết người dưới 16 tuổi hoặc giết ông, bà, cha, mẹ, người
nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình thì thì bị phạt tù theo thời hạn nào
sau đây?
a) Từ 12 năm đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình
b) Từ 10 năm đến 15 năm
c) Từ 7 năm đến 10 năm
Câu 24. Khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản thì bị phạt tù theo thời hạn nào sau đây?
a Từ 3 năm đến 7 năm.
b Từ 3 năm đến 10 năm.
c Từ 1 năm đến 5 năm.


Câu 25. Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người
tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20
gam hoặc các chất ma túy ở thể lỏng có thể tích từ 10mililit đến dưới 100
mililít không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất
ma túy thì bị phạt tù theo thời hạn nào sau đây?
a) Từ 2 năm đến 7 năm
b) Từ 1 năm đến 5 năm
c) Từ 2 năm đến 5 năm
Câu 26. Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội
làm nhục người khác với hành vi sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn
thông, phương tiện điện tử xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của
người khác thì bị áp dụng mức phạt nào sau đây?
a) Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

b) Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
c) Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Câu 27. Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người có nhiệm
vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây
thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá từ
500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng thì bị áp dụng mức phạt nào
sau đây?
a) Phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
b) Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
c) Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Câu 28. Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người đang có vợ,
có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt
cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 01 năm khi
thuộc trường hợp nào sau đây?
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trên mà còn vi phạm.
b) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.
c) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt
việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì
quan hệ đó.


Câu 29. Điều 264 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người nào giao
cho người mà biết rõ người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình
trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt
quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc
không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương

tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thì bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm khi thuộc trường hợp nào sau đây?
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên.
b) Làm chết 02 người.
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thươngcơ thể của những người này từ 122% đến 200%.
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000
đồng.
Câu 30. Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người
nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người
thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi
trái pháp luật thì bị áp dụng mức phạt nào sau đây?
a Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
b Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm.
c Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm

Phần II. Câu hỏi lý thuyết
(Thí sinh viết câu trả lời)
II. Phần dành cho thí sinh trên 18 tuổi
Câu 1. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định những trường hợp nào được
loại trừ trách nhiệm hình sự ? Phân tích những điểm mới so với Bộ luật Hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự?
- Sự kiện bất ngờ
Điều 20 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy
hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy



trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu TNHS.
So với BLHS năm 1999, quy định về sự kiện bất ngờ trong BLHS năm 2015 không
có sự thay đổi về bản chất pháp lý, mà chỉ là sự sửa đổi, bổ sung về mặt kỹ thuật
lập pháp theo hướng quy định trực tiếp một người thực hiện hành vi được coi là sự
kiện bất ngờ và hậu quả pháp lý của nó. Theo đó, sự kiện bất ngờ là trường hợp
gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội nhưng người gây có hành vi gây ra hậu quả thiệt
hại đó không có lỗi vì họ không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước
hậu quả của hành vi gây hậu quả thiệt hại. Bản chất pháp lý của trường hợp sự kiện
bất ngờ là người thực hiện hành vi không có lỗi do họ không tự lựa chọn thực hiện
hành vi gây thiệt hại. Họ đã không thấy trước được tính chất (hậu quả) nguy hiểm
cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Hoàn cảnh khách quan không cho phép họ
có thể thấy trước hậu quả của hành vi. Họ cũng không có nghĩa vụ (bị buộc) phải
thấy trước việc gây ra hậu quả đó[23]. Như vậy, đặc điểm có lỗi - cơ sở để xem xét
một hành vi có là tội phạm là không, và có cần thiết áp dụng các biện pháp tác
động về mặt pháp lý hình sự không đã không được thỏa mãn.
Như vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể đã không thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình đã gây ra là do khách quan.
Đây chính là điểm khác biệt so với các trường hợp như sự kiện bất khả kháng, tình
trạng không thể khắc phục được hoặc đối với trường hợp lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Điều 21 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS.
So với BLHS năm 1999, quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong tại
điều 21 BLHS năm 2015 có sự thay đổi về mặt kỹ thuật theo hướng bỏ quy định về
việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại điều luật mà quy định thống nhất về
việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tại Điều 49 BLHS năm 2015,
theo đó, người thực hiện nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại
Điều 21 của BLHS năm 2015, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám

định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở
điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.
Theo quy định của điều luật, tình trạng không có năng lực TNHS có thể được hiểu
là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang trong tình trạng mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Như vậy, có 02 dấu hiệu để xác định tình trạng
không có năng lực TNHS, đó là dấu hiệu y học (mắc bệnh) – điều kiện cần, dấu
hiệu tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển) – điều kiện đủ. Cả
02 dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của
dấu hiệu kia và ngược lại, một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và
bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.
Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả năng
nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra
hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình mới được coi là không có năng lực


TNHS. Có nghĩa rằng họ phải thỏa mãn đồng thời 02 dấu hiệu trên, trong đó, dấu
hiệu y học có vai trò là nguyên nhân là dấu hiệu tâm lý có vai trò là kết quả nhưng
không có nghĩa mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức
hoặc năng lực điều khiển. Năng lực này có mất hay không, không những phụ thuộc
vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi
nguy hiểm nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện.[24]
- Phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà
chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói
trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn các dấu hiệu sau: (i) Có
hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể,
tổ chức, quyền và lợi ích chính đánh của người phòng vệ hoặc của người khác (cơ

sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng) và (ii) Hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho
người xâm phạm là cần thiết (nội dung và phạm vi của phòng vệ chính đáng);
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS
theo quy định của Bộ luật này. Đây là trường hợp người phòng vệ do đánh giá sai
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, do đó, “…Người phòng vệ
đã dùng những phương tiện và phương pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người
xâm hại mà tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn
cảnh cụ thể chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó”[25].
Người phòng vệ trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải
chịu TNHS do lỗi vượt quá của mình. Tuy nhiên, TNHS của họ được giảm nhẹ hơn
so với các trường hợp bình thường. Mức độ TNHS được giảm nhẹ nhiều hay ít phụ
thuộc vào mức độ vượt quá giới hạn phòng vệ và các trường hợp giảm nhẹ khác.
- Tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là một trong những trường hợp loại trừ TNHS, đó là tình thế của
người đứng trước sự đe dọa đến một lợi ích được pháp luật bảo vệ, và để bảo vệ lợi
ích này, người đó không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại cho một lợi
ích khác được pháp luật bảo vệ.
Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu TNHS thì
phải có đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế xâm
phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ (tức là lợi ích của Nhà nước, của tổ
chức, lợi ích chính đáng của bản thân người thực hiện hành vi hay của người
khác); (ii) Hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm;
(iii) Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình trạng một người vì muốn tránh một
nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây thiệt
hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở



để hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Cũng
giống như vượt quá yêu cầu của phòng vệ chính đáng, người có hành vi gây thiệt
hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì cũng phải chịu TNHS. Khoản 2
Điều 24 khẳng định: trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu TNHS. Mặc dù, vượt quá
tình thế cấp thiết phải chịu TNHS nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ
và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện đầy đủ, Khoản 1 Điều 51 BLHS có quy định
một cách cụ thể, rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là một trong những
tình tiết để giảm nhẹ TNHS. Đây cũng là tình tiết giảm nhẹ TNHS và khả năng của
Toà án khi quyết định hình phạt có thể coi là tình tiết giảm nhẹ. Đó là cơ sở để
giảm nhẹ hình phạt trong phạm vi của khung luật tương ứng.
- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS
mới được bổ sung, ghi nhận trong BLHS, đó là hành vi của người để bắt giữ người
thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ
lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Hành vi bắt giữ tội phạm trong
trường hợp này không phải là tội phạm.Việc ghi nhận, bổ sung trường hợp này là
trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, một mặt, nó phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải dựa vào sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, huy động toàn thể xã hội chung sức, chung lòng phát huy tính tích
cực của công dân trong cuộc đấu tranh này[26]. Mặt khác, khuyến khích, phát huy
tinh thần chủ động đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội và bắt giữ kịp thời những
người đang lẩn trốn sự trừng trị của pháp luật, cũng như là "minh chứng về ý thức
pháp luật và tính tích cực đối với trách nhiệm công dân của người bắt giữ..."[27].
Để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại
trừ TNHS, chúng tôi cho rằng hành vi bắt giữ phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i)
Hành vi bắt giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội;
(ii) Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối

cùng, không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội; (iii) Hành vi dùng vũ
lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết.
Vượt quá yêu cầu của gây thiệt hại trong bắt giữ tội phạm đó là trường hợp người
có hành vi bắt giữ tội phạm đã gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá
mức cần thiết và người gây thiệt hại trong trường hợp này phải chịu TNHS.
- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS lần đầu tiên được quy định trong BLHS
năm 2015, đó là hành vi của một người đã gây thiệt hại khi tiến hành, thực hiện
việc nghiên cứu, thủ nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới
mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng
ngừa. Hành vi gây thiệt trong trường hợp nói trên không phải là tội phạm. Việc quy
định, bổ sung trường hợp này là trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa khuyến


khích sự sáng tạo, đổi mới công nghệ, tạo động lực, động viên sự sáng tạo của các
nhà khoa học, nhà sản xuất. Mặt khác, tạo hành lang pháp lý an toàn để người dân
an tâm tham gia vào các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột
phá” vì lợi ích chung[28].
Để coi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS, chúng tôi cho rằng hành vi gây thiệt
hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) Hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem
lại lợi ích cho xã hội; (ii) Lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong
nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; (iii)
Người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện
pháp phòng ngừa[29]. Trong đó, điều kiện thứ ba là điều kiện quan trọng nhất.
Cũng chính vì vậy mà đoạn 2 Điều 25 BLHS năm 2015 khẳng định người nào

không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng
ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu TNHS.
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ
TNHS chính thức được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi gây thiệt hại
trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng
vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy
đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu
chấp hành mệnh lệnh đó. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không phải
chịu TNHS. Việc quy định, bổ sung trường hợp thi hành mệnh lệnh của người chủ
huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS sẽ góp phần đảm bảo tuân thủ
tuyệt đối, triệt để nguyên tắc "cấp dưới phải phục tùng cấp trên" đối với mệnh
lệnh, chỉ thị hay quyết định trong lực lượng vũ trang nhân dân[30], đảm bảo tính
kỷ luật, sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Để coi thi hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại
trừ TNHS, khi hành vi gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc
cấp trên phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) mệnh lệnh mà người có hành vi gây
thiệt hại thi hành phải là mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (người có
thẩm quyền) thuộc lực lượng vũ trang nhân dân[31]; (ii) mục đích của việc thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên thuộc lực lượng vũ trang phải
nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; (iii) người có hành vi
gây thiệt hại đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng
người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó; (iv) việc thi hành mệnh
lệnh này không thuộc trường hợp phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm
lược do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 421), tội chống loài người
do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 422), tội phạm chiến tranh do thi
hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 423). Như vậy, hành vi gây thiệt hại thi
hành mệnh lệnh của người chủ huy hoặc cấp trên thỏa mãn các điều kiện nói trên
sẽ được coi là trường hợp loại trừ TNHS và người thực hiện hành vi gây thiệt hại



này sẽ không phải chịu TNHS. Tuy nhiên, đối với người ra mệnh lệnh nói trên sẽ
phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật.
*Những điểm mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự:
Thay vì quy định mang tính chất tản mạn như trong BLHS năm 1999, BLHS
năm 2015 đã chính thức quy định các trường hợp loại trừ TNHS thành một chương
thống nhất với 07 trường hợp cụ thể. Điều này đã góp phần vào việc nhận thức
thống nhất về phạm vi các trường hợp được coi là trường hợp loại trừ TNHS. Tuy
nhiên, sẽ là khoa học, hợp lý hơn nếu BLHS năm 2015 đưa ra được khái niệm pháp
lý minh định được nội hàm, bản chất của các trường hợp loại trừ TNHS. Đồng
thời, nên sử dụng thống nhất thuật ngữ quy định về hậu quả pháp lý của các trường
hợp loại trừ TNHS là không phải chịu TNHS thay vì có trường hợp quy định
không phải chịu TNHS (Sự kiện bất ngờ, tình trạng không có năng lực TNHS, Thi
hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên), có trường hợp quy định không
phải là tội phạm (04 trường hợp còn lại). Bởi lẽ, suy cho cùng dù có thuộc trường
hợp phản ánh không có cơ sở của TNHS (không phải là tội phạm) hoặc trường hợp
làm mất cơ sở của TNHS (đã hoặc có thể là tội phạm, nhưng được coi không phải
là tội phạm) thì đều không đặt ra vấn đề TNHS đối với người có hành vi gây thiệt
hại, họ sẽ không phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp
được coi là loại trừ TNHS./.
Câu 2. Trình bày các quy định về hình phạt đối với Tội ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng , con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng
mình quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015?
“Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một
trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”[2]. So với Bộ luật Hình sự
năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có những điểm
mới là:

Một là, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể hóa
hành vi “ngược đãi hoặc hành hạ” thành “đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực
xâm phạm thân thể” giúp dễ hiểu và dễ áp dụng thống nhất quy định của Bộ luật
Hình sự.
Hai là, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể hóa và
định lượng hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” trong Bộ luật Hình sự năm
1999 thành tình tiết “Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh
thần”. Điểm mới này tạo điều kiện cho mọi cá nhân, doanh nghiệp, mọi tổ chức,
đơn vị, cơ quan càng có điều kiện để nhận thức rõ hành vi nào bị coi là tội phạm.
Vì vậy, họ sẽ tránh không đi vào con đường phạm tội; có điều kiện để nhắc nhở,
giáo dục, ngăn chặn người thân của mình và những cá nhân khác trong xã hội;
ngăn chặn những thành viên trong doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị, cơ quan mình


tránh đi vào con đường phạm tội và điều này có tác dụng rất tốt trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Việc cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Hình sự còn đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trên cơ sở thể chế
hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế
thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp
năm 1992 và đặc biệt là yêu cầu thể chế hóa Điều 14 Hiến pháp năm 2013[3].
Hơn nữa, Bộ luật Hình sự càng cụ thể bao nhiêu thì càng chống oan sai tốt bấy
nhiêu và nhờ vậy, càng nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhận
định này hoàn toàn phù hợp với đánh giá của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa
XIII về nguyên nhân dẫn đến tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về
hình sự, đó là: “Một số quy định của Bộ luật Hình sự còn bất cập, thiếu hướng
dẫn các tình tiết định tính như: Hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng”[4].
Ba là, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã nâng mức phạt
tù đối với tội này từ “ba tháng” lên thành “06 tháng”. Điểm mới này vừa bảo đảm
phù hợp hơn với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,

đảm bảo tính răn đe, giáo dục của hình phạt và tính nghiêm minh của pháp luật.
Bốn là, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung từ
“phạt” trước cụm từ “cải tạo không giam giữ”; thay số năm phạt cải tạo không
giam giữ và số năm phạt tù từ “chữ” sang “số” cho đầy đủ, chính xác, đúng thể
thức văn bản và thống nhất với các văn bản luật khác.
Năm là, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung khoản
2 của tội này: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 05 năm: a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,
người già yếu; b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc
người mắc bệnh hiểm nghèo”. Điểm mới này nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con
người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, nhất là
những người “yếu thế” cần được bảo vệ đặc biệt: Người dưới 16 tuổi, phụ nữ có
thai, người già yếu; người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người
mắc bệnh hiểm nghèo.
Câu 3. Trình bày các quy định về hình phạt đối với Tội cố ý gây
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác quy định trong Bộ luật
Hình sự năm 2015?
Theo quy định tại Điều 134 BLHS sửa đổi năm 2017 thì. Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau


hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa
bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù,
đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến
10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b
khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
14 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ


tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến
20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm,
hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”.
Câu 4. Trình bày các quy định về hình phạt đối với Tội tham ô tài sản
quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015?
Tội tham ô tài sản được quy định, hướng dẫn tại Điều 353 Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, cụ thể như sau:
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới
2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp,
trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc
các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh
hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;


e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;
g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động trong cơ quan, tổ chức.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến
20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05
năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước
mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.
Phần III. Câu hỏi Tự luận
Câu hỏi. Trình bày và phân tích những nội dung mới cơ bản của Bộ luật
Hình sự năm 2015 thể hiện việc đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng
thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân? Bạn tâm đắc nhất nội dung mới nào và vì sao?
Bài làm
A. Nội dung mới cơ bản của Bộ luật hình sự năm 2015 thể hiện việc đề cao hiệu
quả phòng ngừa và tính hướng quyền công dân ở những điều:
Quy định về “chiếm hữu” là chế định độc lập với quyền sở hữu
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu bao gồm ba quyền
năng là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu[1]. Như vậy, chiếm
hữu là một trong những quyền năng mà chủ sở hữu tài sản có được đối với tài sản
của mình. Với quy định như vậy thì quyền chiếm hữu là kết quả của quyền sở hữu,
có nghĩa là phải có qAuyền sở hữu thì mới phát sinh quyền năng chiếm hữu, quy
định này không hợp lý đối với những trường hợp xuất phát từ tình trạng chiếm hữu
hợp pháp của các chủ thể mà đã cho phép xác lập quyền sở hữu hợp pháp cho họ
trong Bộ luật Dân sự năm 2005 như các quy định: Xác lập quyền sở hữu đối với
vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu; xác lập quyền sở hữu đối với vật

bị chôn giấu, bị chìm đắm chưa được tìm thấy[2].

1.


Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung chế định chiếm hữu thành một chế định độc
lập[3] với quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản theo cách tiếp
cận tôn trọng tình trạng thực tế - mối quan hệ thực tế giữa người chiếm hữu và tài
sản.
Quy định mới về chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cụ thể hóa nội
dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về việc tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền sở hữu, quyền bình đẳng trước pháp luật và trong đời sống dân sự[4].
Bảo đảm trật tự xã hội, sự ổn định của giao dịch, giá trị kinh tế của tài sản, sự thiện
chí trong quan hệ dân sự. Đối với người chiếm hữu vật thì họ có quyền yêu cầu
Nhà nước can thiệp để chống lại hành vi của người khác làm ảnh hưởng đến việc
chiếm giữ ổn định và hợp pháp của mình. Đồng thời, bằng quy định suy đoán về
tình trạng và quyền của người chiếm hữu đã công nhận người chiếm hữu có những
quyền pháp lý nhất định. Người đang chiếm hữu vật được suy đoán là người có
quyền hợp pháp đối với tài sản và sự suy đoán này có ảnh hưởng rất lớn đến quyền
lợi của người thứ ba trong trường hợp họ là người chiếm hữu ngay tình đối với tài
sản.
2. Những điểm mới trong quy định về quyền sở hữu
Quyền sở hữu được coi là vật quyền[5] thứ nhất, tuyệt đối và trọn vẹn nhất so với
các loại vật quyền khác. Chủ sở hữu có toàn quyền đối với vật, từ nắm giữ, kiểm
soát về phương diện vật chất cho đến khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ
vật và quyết định số phận vật chất, pháp lý của vật đó.
Tại chương về quyền sở hữu có nhiều vấn đề đã được quy định như: Quy định
chung, nội dung quyền sở hữu, hình thức sở hữu, xác lập, chấm dứt quyền sở hữu.
Trong đó có những cải tiến cho phù hợp trong giao lưu dân sự trong xã hội hiện
nay. Cụ thể:

2.1. Về hình thức sở hữu (từ Điều 197 đến Điều 220)
Để cụ thể hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp
năm 2013 và trên cơ sở vận dụng nguyên tắc việc xác định các hình thức sở hữu
cần phải dựa vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền năng của chủ sở
hữu, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận 03 hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân
(từ Điều 197 đến Điều 204), sở hữu riêng (Điều 205 và Điều 206) và sở hữu chung
(từ Điều 207 đến Điều 220) thay vì việc ghi nhận 06 hình thức sở hữu như trong
Bộ luật Dân sự năm 2005. Việc quy định hình thức sở hữu như vậy có ý nghĩa quan
trọng:
Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù hợp với
nguyên tắc xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì
cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố
ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành.
Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định


Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản này.
Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận cụ thể vai
trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công.
Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân (trong Bộ luật Dân sự năm 2005
được gọi là hình thức sở hữu nhà nước) là một hình thức sở hữu đặc biệt, không
thể coi là một dạng của sở hữu riêng hoặc sở hữu chung, do đó, các quy định này
tạo ra một chế độ pháp lý riêng biệt đối với hình thức sở hữu này.
2.2. Về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật (Điều 236)
Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự, sự thống nhất trong quy

định pháp luật liên quan đến thời hiệu hưởng quyền, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định nguyên tắc chung về thời hiệu xác lập quyền sở hữu do chiếm hữu, được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật mà không phân biệt tài sản đó thuộc sở hữu
của ai, theo đó, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản,
30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định
khác.
3. Quyền khác đối với tài sản (chương XIV)
Để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, thuận lợi hơn cho việc khai thác, sử dụng một
cách hiệu quả các tài sản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và tạo cơ chế
pháp lý để các chủ thể không phải là chủ sở hữu thực hiện quyền đối với tài sản
thuộc sở hữu của chủ thể khác, bảo đảm khai thác được nhiều nhất lợi ích trên
cùng một tài sản, bảo đảm trật tự, ổn định các quan hệ có liên quan, Bộ luật Dân sự
năm 2015 sửa đổi quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề trong
Bộ luật Dân sự năm 2005 và bổ sung quy định về quyền hưởng dụng, quyền bề
mặt.
Với những cải tiến và bổ sung như trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hoàn thiện
các quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản phù hợp với các quan
điểm chỉ đạo xây dựng bộ luật đó là:
- Thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực
của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh
doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành để
bảo đảm Bộ luật Dân sự thực sự phát huy được ba vai trò cơ bản đó là: (i) Tạo cơ
chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của
các các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên

yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp
của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự;
(ii) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả


mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự,
góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (iii) Là
công cụ pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thiết chế dân
chủ trong xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; xây dựng Bộ luật Dân sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung
của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình
đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính
dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp
ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự; bảo đảm tính kế thừa và phát triển
các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị
văn hóa, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo
kinh nghiệm xây dựng Bộ luật Dân sự của một số nước, nhất là các nước có truyền
thống pháp luật tương đồng với Việt Nam[6].
B. Quy định về “chiếm hữu” là chế định độc lập với quyền sở hữu là nội dung tôi
tâm đắc nhất vì :
1.
Không biết từ lúc nào, quyền sở hữu ở Việt Nam được phân tích về mặt nội
dung thành ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Quan niệm ấy được
những người soạn thảo Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và cả BLDS năm 2005
sau này thấm nhuần và trở thành tư tưởng chủ đạo, được quán triệt trong quá trình
xây dựng các quy tắc của Bộ luật liên quan đến quyền sở hữu. Chế độ pháp lý về
sở hữu ở Việt Nam trở nên đặc thù và điều này khiến cho việc cải cách pháp luật
dân sự trong khung cảnh hội nhập, đặc biệt về phần liên quan đến tài sản, là việc
không đơn giản. Trở ngại chính đối với việc cải cách là sự khác biệt lớn giữa Việt

Nam và các nền văn hoá pháp lý tiêu biểu trong cách hiểu về nội dung của quyền
sở hữu, từ đó ảnh hưởng đến cách định vị chế định chiếm hữu trong pháp luật tài
sản.
Một khi được xác lập, quan hệ chiếm hữu được pháp luật thừa nhận và phát
sinh hiệu lực pháp luật một cách độc lập với quan hệ sở hữu. Trong một thời gian
dài, luật của Pháp và luật của Đức có nhiều điểm khác biệt trong việc xác định thái
độ của xã hội đối với người chiếm hữu; tuy nhiên, từ hơn 30 năm nay, sự khác biệt
ấy đã dần dần bị xoá nhoà.

2.

Trong khung cảnh của luật thực định Pháp và Đức, quan hệ chiếm hữu được thừa
nhận ở ba điểm đáng chú ý nhất: 1. Nó có tác dụng tạo ra sự suy đoán có lợi cho
người chiếm hữu mỗi khi có tranh chấp về quyền đối với tài sản; 2. Nó cho phép
người chiếm hữu được hưởng sự bảo vệ chống moi quấy nhiễu từ bên ngoài; 3. Nó
cho phép người chiếm hữu, trong những hoàn cảnh được dự kiến, xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu.


Suy đoán có quyền. Trong trường hợp vấn đề ai trong những người liên quan là
người thực sự có quyền đối với tài sản được đặt ra, thì trước hết, người đang chiếm
hữu tài sản đương nhiên được pháp luật suy đoán là người có quyền. Điều đó có
nghĩa, ai khác cho rằng chính mình mới là người có quyền đối với tài sản thì phải
tiến hành khởi kiện để tranh chấp và phải chứng minh. Về phần mình, người chiếm
hữu có quyền cứ ngồi yên: nếu bên kia trình được bằng chứng thuyết phục, thì họ
thắng kiện và được thừa nhận là chủ sở hữu; còn nếu không, thì tư cách chủ sở hữu
tiếp tục ở lại với người chiếm hữu.
Bảo vệ quyền chiếm hữu. Người chiếm hữu được pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự
xâm hại vật chất từ bên ngoài, còn gọi là quấy nhiễu, đối với tình trạng chiếm hữu
của mình. Có thể coi vụ A lấn chiếm không gian thuộc bất động sản do B chiếm

hữu, nêu trên, là một ví dụ tiêu biểu về quấy nhiễu sự chiếm hữu trong cuộc sống
dân sự.
Nói chung, một hành vi gọi là quấy nhiễu sự chiếm hữu một khi nó được thực hiện
một cách cố ý và tác động trực tiếp đến tình trạng chiếm hữu đang tồn tại. Theo
yêu cầu của người chiếm hữu, trong khuôn khổ một vụ kiện về bảo vệ sự chiếm
hữu (possessory action), thẩm phán có thể buộc người quấy nhiễu phải chấm dứt
việc quấy nhiễu và tái lập tình trạng ban đầu.
Thực ra, nếu muốn, người chiếm hữu mà bị quấy nhiễu có thể tiến hành tranh chấp
luôn về quyền với người quấy nhiễu sự chiếm hữu của mình, bằng một vụ kiện về
quyền (petitory action). Luật mở ra cho người chiếm hữu hai khả năng kiện cáo để
lựa chọn.
Cũng có thể chính người quấy nhiễu có khả năng, điều kiện và mong muốn tranh
chấp với người chiếm hữu về quyền đối với tài sản. Nhưng một khi, thay vì kiện
trước toà án, người này lại đi quấy nhiễu người chiếm hữu và bị người sau này
kiện, thì người quấy nhiễu phải đi theo vụ kiện của người chiếm hữu, chứ không
được kiện ngược. Trong một kịch bản điển hình, một người cho rằng mình có
quyền sở hữu đối với phần đất đang bị người khác chiếm hữu và chủ động xây
dựng, trồng cây trên phần đất đó; người chiếm hữu kiện ra toà yêu cầu bảo vệ tình
trạng chiếm hữu của mình bằng một possessory action; thẩm phán yêu cầu người
quấy nhiễu ngưng việc xây dựng, trồng cây và khôi phục tình trạng ban đầu; người
quấy nhiễu phải chấp hành bản án, rồi sau dó, nếu muốn, có thể tiến hành một vụ
tranh chấp về quyền với người chiếm hữu bằng một petitory action.
Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Người chiếm hữu trong tư thế của một chủ sở
hữu, dù không phải là chủ sở hữu đích thực, thì sau một thời gian có thể trở thành
chủ sở hữu tài sản đó. Giải pháp này được ghi nhận cả trong trường hợp chiếm hữu
không ngay tình, nhưng tất nhiên, thời gian thử thách đối với người này phải dài


hơn so với người chiếm hữu ngay tình, có thể gấp đôi, gấp ba, tuỳ theo sự đánh giá
của người làm luật về chất lượng đạo đức của sự chiếm hữu không ngay tình.




×