Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống nông nghiệp bền vững ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.35 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

Họ và tên: LÊ VĂN LONG
Lớp Cao học KTNN 2016

TÊN ĐỀ TÀI
‘THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG CỦA
VIỆT NAM’

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP

ĐẮK LẮK, THÁNG 5 NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

Họ và tên: LÊ VĂN LONG
Lớp Cao học KTNN 2016

TÊN ĐỀ TÀI
‘THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG CỦA
VIỆT NAM’

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Minh

ĐẮK LẮK, THÁNG 5 NĂM 2017


MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................1
MỞ ĐẦU..........................................................3
1. Đặt vấn đề.....................................................3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn.......................................5
4. Giới hạn của chuyên đề...............................5
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU...............................................13
2.1. Đối tượng nghiên cứu..............................13
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu...........13
2.3. Nội dung nghiên cứu...............................13
2.4. Phương pháp nghiên cứu.........................13
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN......15
Hai là, Tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, công nghiệp chế biến được
tiếp tục phát triển góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Chúng ta đã có những bước tiến đáng mừng trong việc
ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mới trong lai tạo giống, cơ khí hóa nông
nghiệp và đẩy mạnh được công nghệ chế biến..............................................17

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HTNN: Hệ thống nông nghiệp
ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng

ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
PTKT: Phát triển kinh tế
XĐGN: Xóa đói giảm nghèo
TBKHKT: Tiến bộ khoa học kỹ thuật
KHCN: Khoa học công nghệ

2


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to
lớn, tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế
giới. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến
năm 2009 chúng ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những
thành tựu to lớn này là có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân và của tất cả các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của
ngành nông nghiệp.
Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên 80% dân
số sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông nghiệp.
Có thể nói nông nghiệp, nông thôn là bộ phận quan trọng trong nên kinh tế
quốc dân của Việt Nam. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực
quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại
nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số
người dân. Nông thôn là môi trường sống của đa số nhân dân, nơi bảo tồn và
phát triển các truyền thống văn hoá dân tộc.
Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp,
nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó
nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội,
sự phát triển hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất

nước.
Chính nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong
những năm qua ngành nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành
tựu hết sức đáng mừng. Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự
cung tự cấp mà còn trở thành một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực
xuất khẩu nông sản.
3


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt
Nam cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như vấn đề phát
triển nông nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thức sự xử dụng
hiệu quả và phát huy hết các nguồn lực.
Do đó với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà
và đề xuất một số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp, tôi chọn
tiến hành nghiên cứu đề tài tiểu luận: ”Thực trạng và giải pháp phát triển hệ
thống nông nghiệp bền vững của Việt Nam”. Do điều kiện hạn chế về thời
gian nên trong tiểu luận sẽ có nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự
đóng góp thêm của thầy giáo và các bạn để tôi có thể hoàn thiện thêm hiểu
biết của mình.
2. Mục tiêu của chuyên đề
Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp bền vững.
- Tạo sự chuyển biến rõ nét trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn và nâng cao đời sống nông dân trên cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên canh, sử
dụng giống mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đẩy mạnh cơ giới hóa trong
sản xuất, gắn sản xuất với chế biến, thị trường tiêu thụ và mở rộng xuất
khẩu.
Mục tiêu tổng quát

- Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, đa dạng theo hướng sản xuất
hàng hóa tập trung, hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường, gắn phát
triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống nhân
dân
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của chuyên đề
3.1. Ý nghĩa khoa học

4


- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc nhận định được vấn đề
và đưa ra giải pháp hợp lý nhằm nâng cao trình độ về kỹ thuật và khoa học
trong hệ thông nông nghiệp bền vững ở Việt Nam.
- Góp phần khẳng định vị trí, vai trò của nông nghiệp ở nước ta.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Cung cấp các cơ sở dữ liệu khoa học cho ngành nông nghiệp, khuyến
nông …. và các vùng có điều kiện tương tự để xây dựng quy hoạch, kế hoạch
nông nghiệp, làm cơ sở bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi, đẩy mạnh cơ giới hóa
trong sản xuất, gắn sản xuất với chế biến, thị trường tiêu thụ và mở rộng
xuất khẩu, góp phần cải thiện đời sống của người dân cả nước.
4. Giới hạn của chuyên đề
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài được xây dựng dựa trên số liệu về hệ thống
nông nghiệp ở Việt Nam
Do thời gian thực hiện chuyên đề ngắn, nên chúng tôi không đi sâu
nghiên cứu các yếu tố tự nhiện, kinh tế xã hội và chính sách liên quan đến
mảng nghiên cứu của đề tài…

5



Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số khái niệm liên quan
Khái niệm về hệ thống cây trồng
Trên thế giới có rất nhiều cách hiểu khác nhau: Theo Zandstra et al.
(1981) (Dẫn theo Phạm Chí Thành và cs., 1996) cho rằng, hệ thống cây trồng
(HTCTr) là thành phần các giống và loài cây được bố trí trong không gian
và thời gian của một hệ sinh thái nông nghiệp, nhằm tận dụng hợp lý nhất
các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới hệ thống cây trồng
Theo Phạm Chí Thành (2012) người nông dân trồng trọt loại cây gì,
kỹ thuật áp dụng, luân canh cây trồng như thế nào là tùy thuộc vào điều kiện
tự nhiên (đất đai, khí hậu...), kinh tế (giao thông, thủy lợi, nhu cầu thị
trường) và xã hội (chính sách phát triển, phong tục tập quán…). Các nhóm
yếu tố này được xếp vào nhóm yếu tố bên ngoài chi phối các quyết định
của người nông dân. Nông nghiệp Việt Nam hiện tại còn ở mức sản xuất
hàng hóa nhỏ chưa mang tính chuyên canh do các hộ nông dân chủ động sản
xuất trên diện tích canh tác của mình. Vì vậy, việc lựa chọn HTCTr còn phụ
thuộc vào điều kiện cụ thể của nông hộ như: đất đai, lao động, vốn, kỹ năng,
trình độ sản xuất.
Khí hậu: Nông nghiệp có quan hệ qua lại phức tạp với các điều kiện
tự nhiên, trong đó có yếu tố khí hậu. Diễn biến khí hậu thường được thể
hiện bởi thời tiết, chúng là những nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến sản
xuất nông nghiệp, được thể hiện qua năng suất (cao hay thấp) và chất lượng
nông sản (tốt hay xấu). Vì vậy, trong nghiên cứu HTCTr, điều cần quan tâm
đầu tiên là các yếu tố thời tiết cấu thành khí hậu. Nói đến vai trò của khí hậu
đối với sản xuất nông nghiệp, viện sĩ V. I. Vavilop cho rằng: "Biết được các
yếu tố khí hậu, chúng ta sẽ xác định được năng suất, sản lượng mùa màng,
chúng mạnh hơn cả kinh tế, mạnh hơn cả kỹ thuật". Những điều kiện khí hậu

6


được xác định cho nông nghiệp là ánh sáng, nhiệt độ và nước. Ngoài ra,
cũng phải thấy "khí hậu nào, đất nào, cây đó", cho nên khí hậu là yếu tố
quyết định sự phân bố động, thực vật trên trái đất, ngay cả mạng lưới sông
ngòi, độ màu mỡ của đất cũng là hệ quả của khí hậu.
Ánh sáng: Ánh sáng cung cấp năng lượng cho quá trình tổng hợp chất
hữu cơ của cây. Ánh sáng là yếu tố biến động, ảnh hưởng đến năng suất.
Cần xác định yêu cầu của cây trồng về cường độ chiếu sáng và khả năng
cung cấp ánh sáng từng thời kỳ trong năm để bố trí cây trồng hợp lý. Mỗi
cây trồng có yêu cầu ánh sáng khác nhau. Theo Lý Nhạc và cs (1987) cho
rằng: loại cây quang hợp theo chu trình C4 và chu trình CAM là những
cây ưa sáng, đồng thời cũng là cây ưa nóng. Các cây quang hợp theo chu
trình C3 yêu cầu ánh sáng thấp hơn.
Độ dài ngày: Độ dài ngày dùng để xác định thời gian sinh trưởng của
cây, muốn biết khả năng cung cấp ánh sáng cho cây, cần biết bức xạ và số
giờ nắng hàng tháng hoặc số giờ nắng bình quân ngày. Khi xem xét vai trò
của ánh sáng (độ dài ngày ngắn hay dài) đối với cây trồng phải xem xét độ
dài ngày theo mùa sinh trưởng của cây trồng. Để bố trí HTCTr phù hợp, đạt
năng suất cao và ổn định cần phải căn cứ vào nhu cầu của cây về nhiệt độ
và ánh sáng ở giai đoạn cuối và tình hình nhiệt độ, ánh sáng từng tháng
trong năm.
Nhiệt độ: Theo Nguyễn Văn Viết (2009) diễn biến của nhiệt độ có ý
nghĩa quyết định đến cơ cấu thời vụ gieo trồng khi các điều kiện khác được
bảo đảm. Từng loại cây, giống cây, các bộ phận của cây, các quá trình sinh
lý của cây phát triển thích hợp và an toàn trong khoảng nhiệt độ nhất định.
Tác giả Lý Nhạc và cs (1987) cho rằng: cây ưa nóng là những cây trong 2
tháng cuối yêu cầu nhiệt độ trên 200C, cây ưa lạnh là những cây trong 2
tháng cuối yêu cầu nhiệt độ dưới 200C. Nếu không có nhiệt độ phù hợp với

đặc tính ưa nhiệt của cây dẫn đến năng suất giảm. Căn cứ vào yêu cầu nhiệt
7


độ của từng nhóm cây: ưa nóng, ưa lạnh hay ngày ngắn để bố trí HTCTr
trong năm.
Lượng mưa: Nước là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với cây trồng.
Cây trồng đòi hỏi một lượng nước lớn gấp nhiều lần trọng lượng chất khô
của chúng. Lượng nước mà cây tiêu thụ để hình thành một đơn vị chất khô
của một số cây trồng (gọi là hệ số tiêu thụ nước) như ngô: 250-400 đơn vị
nước cho 1 đơn vị chất khô, lúa: 500-800 đơn vị nước cho 1 đơn vị chất
khô, bông: 300-600, rau: 300-500, cây gỗ: 400- 500,.... Hầu hết lượng
nước được sử dụng cho nông nghiệp là nước mặt, các nguồn này được cung
cấp chủ yếu từ lượng mưa hàng năm. Tuỳ theo lượng mưa hàng năm, khả
năng cung cấp và khai thác nước đối với một vùng cụ thể được xem xét để
lựa chọn hệ thống cây trồng thích hợp.
Đất đai: Đất đai là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng
nhất. Bảo vệ, duy trì và cải tiến nguồn tài nguyên này là tiêu chuẩn để tiếp
tục duy trì chất lượng cuộc sống trên trái đất. Điều kiện đất đai và khí hậu
mang tính chất quyết định để bố trí cây trồng hợp lý. Nó tuỳ thuộc vào điều
kiện địa hình, độ dốc, chế độ nước ngầm, thành phần cơ giới đất để bố trí
một hoặc một số cây trồng phù hợp. Hiểu được mối quan hệ giữa cây trồng
với đất sẽ dễ dàng xác định được HTCTr hợp lý ở một vùng cụ thể.
Cây trồng: Trong hệ sinh thái đồng ruộng, cây trồng là thành phần
trung tâm của hệ. Mỗi loại cây có những yêu cầu về điều kiện sống như
đất đai, khí hậu khác nhau. Các loại cây trồng có tập đoàn vi sinh vật đất,
vi sinh vật cộng sinh và cả các loại sinh vật hại riêng. Hơn nữa, mỗi loại
cây trồng lại có biện pháp canh tác, kỹ thuật chăm sóc cụ thể. Vì vậy, mỗi
vườn cây có thể xem là một hệ sinh thái nông nghiệp. Nhiệm vụ của khoa
học cây trồng là sử dụng những nguồn lợi đó một cách tốt nhất. Khí hậu và

đất đai là các yếu tố mà con người ít có khả năng thay đổi, còn với cây
trồng thì con người có thể thay đổi các yếu tố đầu vào, chọn lựa, di thực.
Với tiến bộ công nghệ sinh học ngày nay, con người có thể thay đổi bản
8


chất của cây trồng theo ý muốn thông qua các biện pháp như lai tạo, chọn
lọc, gây đột biến, nuôi cấy vô tính.
Hệ sinh thái: Hệ sinh thái nông nghiệp (HSTNN) hiện diện như là một
hướng có tính khoa học được sử dụng trong nghiên cứu, đối thoại và lựa
chọn mục đích để quản lý giảm chi phí đầu vào của hệ sinh thái. Làm sáng
tỏ những vấn đề tính bền vững trong nông nghiệp là mục tiêu chủ yếu
của HSTNN. Xây dựng HTCTr là xây dựng hệ sinh thái nhân tạo, đó là
HSTNN mà trong đó cây trồng là thành phần chủ yếu. Do đó, cần duy trì
yếu tố cần thiết của HTCTr như đất nông nghiệp, đất rừng và bảo tồn duy trì
đa dạng gien. Vì vậy, việc xác định chủng loại và từng giống cây trồng
phù hợp trong hệ sinh thái ở từng nơi là rất quan trọng. Điều kiện để xác
định, quyết định tính phù hợp của chúng tại một địa phương cụ thể là các yếu
tố sinh thái. Ngoài thành phần chính là cây trồng, hệ sinh thái còn có các
thành phần sống khác như cỏ dại, sâu, bệnh, vi sinh vật, những động vật,
côn trùng và những sinh vật có ích khác. Các thành phần sống ấy cùng với
cây trồng tạo nên một quần thể sinh vật, chúng chi phối lẫn nhau, tạo nên
các mối quan hệ rất phức tạp, tạo dựng và duy trì cân bằng sinh học trong hệ
sinh thái theo hướng hạn chế các mặt có hại, phát huy mặt có lợi đối với con
người là vấn đề cần được quan tâm trong HSTNN.
Tiến bộ Khoa học công nghệ: Bao gồm các quy trình, công nghệ, biện
pháp kỹ thuật cụ thể và quản lý sử dụng đất, sản xuất, thu hoạch, chăm sóc,
bảo vệ các loại sản phẩm nông nghiệp.
Hiệu quả kinh tế: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất
lượng của các hoạt động kinh tế. Nâng cao chất lượng hoạt động kinh tế

nghĩa là tăng cường trình độ lợi dụng các nguồn lực sẵn có trong một hoạt
động kinh tế. Đây là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất xã hội do nhu cầu
vật chất cuộc sống của con người ngày một tăng. Do yêu cầu của công tác
quản lý kinh tế cần thiết phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng các hoạt động kinh tế, do đó đã xuất hiện phạm trù hiệu quả kinh tế.
9


Vận dụng vào việc phát triển hệ thống cây trồng bền vững cho thấy cần phải
tận dụng triệt để điều kiện tự nhiên để bố trí cơ cấu cây trồng, chủng loại cây
trồng sao cho hợp lý trên một đơn vị diện tích.
Thị trường: Thị trường không phải chỉ do cạnh tranh điều khiển mà
còn do sự hợp tác và tương trợ lẫn nhau. Tiếp tục nghiên cứu về thị trường,
các nhà xã hội học và chính trị học cho rằng thị trường còn do các điều
kiện xã hội và chính trị quyết định mà kinh tế học trước đó thường quên
không đề cập.
Nông hộ: Tác giả Đặng Kim Sơn (2006) c h o r ằ n g : nước ta trong
thời kỳ đổi mới, các chính sách mới một lần nữa xác lập vị trí số một của
kinh tế hộ nông dân ở nông thôn. Trong nông thôn có 3 nhóm hộ chính là: (i)
Nhóm hộ sản xuất hàng hoá (chiếm khoảng 30%); (ii) nhóm hộ bước đầu đi
vào sản xuất hàng hoá nhưng còn ít, quy mô nhỏ (chiếm gần 55%); (iii)
nhóm hộ nghèo (chiếm dưới 15%).
Tóm lại, hệ thống cây trồng chịu chi phối bởi cả yếu tố tự nhiên và
xã hội. Các yếu tố này vừa là môi trường, vừa là điều kiện để cải tiến phát
triển HTCTr. Để đáp ứng tốt nhất mục tiêu phát triển nông nghiệp bền
vững phải sử dụng và khai thác một cách hài hòa các lợi thế của môi
trường chi phối.
Khái niệm về hệ thống nông nghiệp là biểu hiện trong không gian của
sự phối hợp các ngành sản xuất và các kỹ thuật do một xã hội thực hiện để
thỏa mãn nhu cầu. Nó biểu hiện đặc biệt sự tác động qua lại giữa một hệ

thống sinh học - sinh thái mà môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống
xã hội - văn hóa, qua các hoạt động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật.
Hệ thống nông nghiệp là một phương thức khai thác môi trường được
hình thành và phát triển trong lịch sử, một hệ thống thích ứng với điều kiện
sinh thái, khí hậu của một không gian nhất định đáp ứng với các điều kiện và
nhu cầu của thời điểm ấy
Khái niệm nông nghiệp bền vững
10


Nông nghiệp bền vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau quan tâm, như: nông học, sinh thái học, xã hội
học… Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, trong đó đáng quan tâm là định
nghĩa của tổ chức sinh thái và môi trường thế giới (WORD) bởi tính tổng hợp
và khái quát cao: nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thoả mãn được
các yêu cầu của thế hệ hiện nay, mà không giảm khả năng ấy đối với các thế
hệ mai sau. Điều đó có nghĩa là nền nông nghiệp không những cho phép các
thế hệ hiện nay khai thác tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích của họ mà còn duy
trì được khả năng ấy cho các thế hệ mai sau
Như vậy, nền nông nghiệp bền vững phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ
bản là: đảm bảo nhu cầu nông sản của loài người hiện nay và duy trì được
tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau, bao gồm gìn giữ được quĩ đất,
quĩ nước, quĩ rừng, không khí và khí quyền, tính đa dạng sinh học v.v… Xây
dựng nền nông nghiệp bền vững là việc làm cấp thiết và là xu hướng tất yếu
của tiến trình phát triển.
- Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình
sản xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa
mãn những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng
những nhu cầu của tương lai.
- Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện

tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau. (Hội đồng thế giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc WCED)
- Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt
là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng
xã hội, giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc
biệt là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường,
11


phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên).
1.2 Những nội dung cần thực hiện
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững
- Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam
- Đề ra một số giải pháp để phát triển nền nông nghiệp bền vững

12


Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Cây trồng và vật nuôi trong hệ thống nông nghiệp ở Việt Nam.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: hệ thống nông nghiệp ở Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu: : Thông tin và số liệu được lấy trong khoảng
thời gian từ năm 2014 - 2016.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững
- Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam

- Đề ra một số giải pháp để phát triển nền nông nghiệp bền vững
2.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập số liệu
Do điều kiện hạn chế, nên tôi chủ yếu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp
từ các nguồn:
+ Những thông tin, số liệu được thu thập từ các báo, tạp chí, luận văn
có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu tại thư viện trường Đại học Tây
Nguyên và thư viện khoa Kinh tế và phát triển nông thôn. Từ đó chọn lọc
những kiến thức, những kết quả có thể sử dụng được.
+ Thu thập từ các trang web có liên quan trên mạng Internet
* Phương pháp xử lý số liệu
Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu
cần có bên trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi
sẽ phân tích các số liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo
thành một chuỗi thời gian nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh
vực Nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Từ đó có thể nhận biết được những
13


thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục để đưa Nông nghiệp
nông thôn Việt Nam phát triển theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số
liệu là phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh
giữa Nông nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng
thể nền kinh tế.

14


Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1 Vai trò của hệ thống Nông nghiệp và nông thôn trong nền kinh
tế Việt Nam.
Với khoảng hơn 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng
những vấn đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trong
cương lĩnh xây dựng đất nước, các nghị quyết của Đảng đều rất chú trọng tới
vấn đề này, cụ thể trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nêu rõ:
Về nông nghiệp: “phát triển nền nông nghiệp toàn diện”, trên cơ sở
“bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống”, “chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng
nhanh khối lượng sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng nông, lâm, thủy sản qua
chế biến; tăng kim ngạch xuất khẩu”; và tiến tới “Xây dựng một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh cao”.
Về nông thôn: “Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa”; “chuyển dịch cơ cấu
kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn”; và “Xây dựng nông thôn
ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng
hiện đại”, trên cơ sở thực hiện các biện pháp:“Phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội nông thôn, chú trọng phát triển hệ thống thủy lợi, bảo đảm đường
giao thông thông suốt đến trung tâm xã, có đủ trường học, trạm y tế và nước
sạch cho sinh hoạt. Bảo vệ môi trường sinh thái”; “Giảm tỷ lệ lao động nông
nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn”.
Nền kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm Đổi mới vừa qua (1986-2008)
đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp,
sản lượng các loại nông sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực
đều tăng với tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu tiên sản
15



lượng lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt
kim ngạch 310 triệu USD. Đến năm 2008 vừa qua sản lượng lương thực đã
đạt đến con số kỷ lục 39 triệu tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim
ngạch 1,7 tỷ USD.
Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng
triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). GDP trong lĩnh vực nông
nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày
càng cải thiện hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5% năm; bộ
mặt nông thôn thay đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ
thuật của nhiều nông dân được nâng lên cao hơn trước.
Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình
phát triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986,
kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm
2007 đã đạt tới 12 tỷ USD, tăng gấp 30 lần. Nhờ có những thành tựu, kết quả
đó, nông nghiệp không chỉ đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trịxã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà
nông nghiệp đã ngày càng tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần
thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước trong những năm qua.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH
đất nước theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông
nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và
lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái.

16



3.2 Tình hình phát triển nông nghiệp - nông thôn trong thời gian
vừa qua.
3.2.1 Một số thành tựu đạt được
Về đánh giá thực trạng, kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân nước ta trong
những năm vừa qua là khá toàn diện và to lớn, khái quát thành năm thành tựu:
Một là, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học công nghệ được nâng cao hơn. Ðáng chú ý là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy
sản tăng bình quân 37,8%/năm, năm 2015 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
327,4 tỷ USD chiếm 63,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, riêng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản đạt gần 8 tỷ USD, rau quả đạt gần 1,5 tỷ USD, cà
phê đạt 3,6 tỷ USD, đồ gỗ và sản phẩm từ gỗ hơn 6,5 tỷ USD, hạt tiêu đạt 1,2
tỷ USD; hạt điều đạt 2 tỷ USD, tôm ước đạt 3,5 tỷ USD... có mức tăng so với
năm ngoái, dao động khoảng 13-35% và một số sản phẩm có vị thế cao trên
thị trường thế giới, như gạo, cao-su, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, thủy sản.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát nhận định,
ngành Nông nghiệp nước ta vừa trải qua một năm tương đối “được mùa, được
giá”. Việc tiêu thụ đã có sự phát triển đồng bộ với sản xuất nên giá cả các loại
nông sản trong nước cũng như xuất khẩu giữ ở mức khá cao, có lợi cho bà
con nông dân.
Hai là, Tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, công nghiệp chế biến
được tiếp tục phát triển góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn. Chúng ta đã có những bước tiến đáng mừng trong
việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mới trong lai tạo giống, cơ khí hóa nông
nghiệp và đẩy mạnh được công nghệ chế biến.
Bai là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất
là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm
17



thay đổi bộ mặt nông thôn. Nổi bật là sự quan tâm đầu tư phát triển thủy lợi
theo hướng đa mục tiêu. Từ năm 2010 đến nay đã tăng nhanh cả năng lực tưới
và năng lực tiêu, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo trồng
lúa, một số cây trồng khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ.
Hệ thống đê sông, đê biển được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công trình
tiêu thoát lũ và trên 1.100 cụm tuyến dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long
được xây dựng và phát huy tác dụng...
Bốn là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi
mới; kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng số lượng và quy mô. Đến
nay cả nước đã có khoảng trên 12 triệu hộ nông dân hoạt động trong các lĩnh
vực trồng trọt, nuôi trồng thủy sản …. Nhờ chính sách dồn điền đổi thửa mà
quy mô diện tích của các hộ được tập trung hơn. Kinh tế trang trại phát triển
mạnh đa dạng và hiệu quả hơn. Đến 2016 cả nước đã có 9.216 nghìn trang
trại, tăng so với năm 2010 (5.682 trang trại) là 61,6%. Quy mô trang trại ngày
càng mở rộng, góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản suất; là mô hình
sản xuất hàng hoá có hiệu quả, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho
lao động nông thôn.
Năm là, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn
ngày càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Năm 2016
thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này tăng 6.8 lần so với năm 2010,
đặc biệt là về cơ bản đã xóa được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%,
thành tựu này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Ðồng thời, các công tác
chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa, thông tin,
thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn.

18



3.3. Những tồn tại và vấn đề nảy sinh cần giải quyết
- Nông nghiệp phát triển kém bền vững, sức mạnh tranh chấp, chưa
phát huy tốt các nguồn lực, chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất
còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán.
- Công nghiệp, dịch vụ trong nông nghiệp còn phát triển chậm, thụ
động, thiếu qui hoạch, quy mô nhỏ, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và lao động nông thôn.
- Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông nghiệp còn thấp,
chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn lớn, lại đang có xu
hướng dãn ra, số hộ nghèo còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
3.4. Những cơ hội và thách thức trong phát triển bền vững hệ thống
nông nghiệp Việt Nam
Cơ hội trong phát triển bền vững nông nghiệp Việt Nam

19


- Nông lâm nghiệp 15 năm qua thể hiện sự tăng trưởng, phát triển liên
tục và bền vững, chuyển mạnh từ nền sản xuất tự túc, tự cấp sang nền nông
nghiệp hàng hóa đa dạng và hướng ra xuất khẩu.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn đã từng
bước được đổi mới theo hướng hiệu quả hơn. Sự chuyển dịch cơ cấu trong
thời gian qua đã từng bước phát huy được thế mạnh của từng vùng, gắn kết
hơn với thị trường tiêu thụ nông sản. Tỷ trọng cây công nghiệp, rau, hoa quả,
chè từ 38,8% năm 2010 lên 55,5% năm 2016. Tỷ trọng chăn nuôi từ 16% năm
2010 lên 34,5% năm 2016 trong tổng thu nhập của ngành nông nghiệp ( trồng
trọt, chăn nuôi và dịch vụ. Đã hình thành được vùng sản xuất hàng hóa tập
trung qui mô lớn: cà phê Tây Nguyên, lúa gạo ở ĐBSH và ĐBSCL, chè các
tỉnh trung du, miền núi phía Bắc và Lâm Đồng, cao su ở Đông Nam Bộ, mía

đường ở Bắc Trung Bộ.
- Kết cấu hạ tầng cơ sở ở nhiều vùng trên cả nước được cải thiện, đời
sống nông dân phần nào được thuận lợi trong quá trình sản xuất nông nghiệp
như: đường xá, điện, y tế,…
- Đời sống văn hóa ở nông thôn cũng có nhiều khởi sắc, tạo được nét
văn hóa truyền thống ở từng vùng, từng địa phương trên cả nước.
- Môi trường sinh thái cũng được quan tâm đầu tư và bảo vệ. Sau 10
năm đã trồng được 3 triệu ha rừng và 300 triệu cây trồng phân tán/ năm, hạn
chế nạn phá rừng và nâng cao độ phủ xanh đất trống, đồi trọc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được như trên thì sự phát triển bền
vững trong nông nghiệp nông thôn nước ta còn gặp rất nhiều thách thức:
- Ruộng đất manh mún, không phù hợp với việc sản xuất hàng hóa
lớn, tập trung. Khi mà nền nông nghiệp đã lớn mạnh đảm bảo an ninh lương
thực trong nước thì mục tiêu là phải xuất khẩu nông sản phẩm, mang lại hiệu
quả cao hơn cho người nông dân. Tuy nhiên, điều này cần có khu sản xuất
hàng hóa tập trung, sản xuất đồng loạt theo quy trình kỹ thuật nhất định. Tuy
20


nhiên, Việt nam có dân số làm nông nghiệp đông, đất sản xuất nông nghiệp
chật hẹp. Do đó, ruộng đất manh mún nhất là ở vùng đồng bằng Sông Hồng
diện tích đất nông nghiệp trung bình của mỗi hộ nông dân chỉ khoảng
0,3hecta. Vì vậy, khó khăn để áp dụng máy móc, cơ giới hóa vào sản xuất,
năng suất lao động thấp.
- Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ
thuật sản xuất tiên tiến diễn ra chậm. Đa số các khâu sản xuất trong nông
nghiệp đều làm thủ công nên năng suất lao động trong nông nghiệp rất thấp.
Điều này là do tình trạng ruộng đất manh mún gây nên, diện tích nhỏ hẹp khó
có thể đưa các máy móc lớn vào sử dụng, chủ yếu chỉ có thể sử dụng các máy
nhỏ gọn công suất thấp. Ngoài ra, còn do người nông dân còn thiếu vốn để

đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị cho quá trình sản xuất. Họ chủ yếu sử
dụng sức lao động của gia đình và đổi công theo phương châm “lấy công làm
lãi” nên năng suất lao động chưa được cao.
- Sự kết hợp giữa công nghiệp và nông nghiệp còn chưa tốt, nhất là
công nghiệp chế biến sau thu hoạch. Chúng ta còn rất thiếu các sản phẩm
công nghiệp, máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các loại
thiết bị này chủ yếu vẫn là đi nhập khẩu, giá thành cao cản trở việc đầu tư của
người nông dân. Đặc biệt công nghệ chế biến nông sản sau khi thu hoạch của
chúng ta còn rất thiếu. Người nông dân chủ yếu bán các sản phẩm thô, tươi
sống có giá trị thấp. Khi vào thời vụ do không có các cơ sở chế biến nên các
sản phẩm của người dân bị giảm phẩm cấp nhanh, bị những người thu mua ép
giá hoặc không thể tiêu thụ được. Điển hình như: Vải thiều xuất khẩu sang
Trung Quốc bị ép thời gian nên đã bị hỏng rất nhiều ở cửa khẩu; lúa gạo bị rớt
giá vào mùa thu hoạch ……
- Thị trường nông sản bấp bênh thiếu ổn định, giá cả biến động theo
hướng bất lợi cho người nông dân. Người nông dân do trình độ còn hạn chế
nên vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn yếu, khó có khả năng bán sản
phẩm của mình với giá cao. Hơn nữa, ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu
21


nông sản thì sự nắm bắt thông tin thị trường, luật thương mại quốc tế cũng
còn yếu, do đó các sản phẩm nông sản của Việt Nam có thị trường không ổn
định. Chúng ta thường bị bất lợi trong các thương vụ cạnh tranh xuất khẩu
nông sản hoặc bị ép giá. Tiêu biểu như thị trường tiêu thụ cá Da trơn, cà phê,
gạo …… thường xuyên xảy ra những vụ khiếu kiện, ép giá của bạn hàng.
Người nông dân chính là người thiệt thòi nhất khi phải chịu nghịch lý được
mùa thì nông sản rớt giá, khi mất mùa giá cao thì lại không có nông sản để
bán. Điều này làm cho lợi nhuận của người nông dân thấp, đời sống gặp nhiều
khó khăn.

- Áp dụng ngày càng nhiều các giống cây trồng vật nuôi mới thay thế
các giống truyền thống đã làm cho dịch bệnh, sâu bệnh ngày càng nhiều
và khó khăn cho công tác phòng chống dịch. Điều này đã làm cho việc sử
dụng lạm dụng các sản phẩm hóa học, thuốc trừ sâu ngày càng nhiều gây ô
nhiễm môi trường, suy thoái đất, nguồn nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe con người. Người nông dân có trình độ còn hạn chế, chưa ý thức
được việc bảo vệ môi trường nên đã sử dụng bừa bãi các sản phẩm thuốc hóa
học gây ra ô nhiễm nặng nề về môi trường nông thôn. Điển hình vào các đợt
sâu bệnh nở rộ thì nhà nhà đi phun thuốc trừ sâu, gây ra ô nhiêm không hhí
nặng nề trên đồng ruộng. Tác hại lâu dài là các hóa chất này ngấm xuống đất,
nước ngầm, người dân bị đe dọa nghiêm trọng về sức khỏe. Ngày càng có
nhiều căn bệnh lạ nguy hiểm xuất hiện, có những nơi đã xuất hiện “làng ung
thư” …… một phần là do môi trường sống bị ô nhiễm từ hoạt động sản xuất
nông nghiệp.
- Tình trạng sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên vẫn diễn ra phổ biến ở
các vùng nông thôn. Người nông dân vì lợi trước mắt mà đã khai thác một
cách quyệt quệ các nguồn tài nguyên quý như rừng, động thực vật ….. làm
mất khả năng tái tạo tự nhiên của chúng gây mất cân bằng sinh thái. Đất đai
ngày càng bị sói mòn, thoái hóa, ô nhiễm mà không được quan tâm cải tạo
phục hồi một cách thỏa đáng.
22


3.5. Một số đề xuất giải pháp để phát triển hệ thống nông nghiệp nước
nhà bền vững
- Thực hiện tốt chủ trương dồn điền đổi thửa của Đảng, Nhà nước đã đề
ra. Đây là chủ trương đúng đắn để tạo ra khả năng tích tụ ruộng đất có thể áp
dụng công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Đồng thời có thể hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn phục vụ cho nhu
cầu trong nước và xuất khẩu. Để làm được điều này, đòi hỏi các cấp các

ngành cần tuyên truyền vận động nông dân hiểu được chủ trương, nâng cao ý
thức cộng đồng mới có thể thực hiện được. Việc dồn điền đổi thửa phải được
áp dụng linh hoạt phù hợp với từng địa phương, chuyển đổi mục đích sử dụng
đất phải thực hiện đúng luật định.
- Đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn như đường giao
thông, hệ thống thủy lợi ..... phục vụ tốt cho công tác tưới tiêu, áp dụng cơ
giới hóa vào sản xuất và vận chuyển giao lưu bán các nông sản phẩm. Như
vậy sẽ làm nâng cao được năng suất và giá trị sản phẩm.
23


×