BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
SỰ THAM GIA CỦA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN –
VĂN HÓA ĐỒNG NAI, TỈNH ĐỒNG NAI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
GVHD: Hồ Văn Cử
HVTH: Nguyễn Đại Dương
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2015
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................................. ii
1. ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................................. 3
DANH SÁCH HÌNH .......................................................................................................................... 4
DANH SÁCH BẢNG BIỂU ............................................................................................................ 4
SƠ ĐỒ Ý TƯỞNG .............................................................................................................................. 5
2. TỔNG QUAN .................................................................................................................................. 1
2.1.Tổng quan tài liệu ....................................................................................................... 1
2.1.1. Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên ......................... 1
2.1.2. Khái niệm đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học ..................................... 4
2.1.3. Sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH .................. 6
2.1.4. Tình hình nghiên cứu về quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng
........................................................................................................................................ 10
2.2 Tổng quan Khu BTTN và VH Đồng Nai ................................................................. 22
2.2.1 Lịch sử hình thành Khu BTTN và VH Đồng Nai ................................................. 22
2.2.1.1 Tên và tính pháp lý của Khu BTTN và VH Đồng Nai ...................................... 22
2.2.1.2 Quá trình hình thành ........................................................................................... 23
2.2.2. Đặc điểm tự nhiên Khu BTTN và VH Đồng Nai................................................ 23
2.2.2.1 Vị trí địa lý ......................................................................................................... 24
2.2.2.2 Phạm vi ranh giới ............................................................................................... 26
2.2.2.3 Khí hậu ............................................................................................................... 26
2.2.2.4 Thuỷ văn ............................................................................................................. 27
2.2.2.5 Địa hình .............................................................................................................. 27
2.2.2.6 Đất đai ................................................................................................................ 27
2.2.3 Đặc điểm chính về kinh tế - xã hội ....................................................................... 27
2.2.4 Mục tiêu và nhiệm vụ của Khu BTTN&VH Đồng Nai ........................................ 28
ii
2.2.5 Tài nguyên thiên nhiên và nhân văn ..................................................................... 28
2.2.5.1 Tài nguyên thiên nhiên ....................................................................................... 28
2.2.6. Tài nguyên nhân văn ............................................................................................ 30
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................................................. 31
3.1. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu ................................................................... 31
3.2. Phương pháp khảo sát thực địa ............................................................................... 31
3.3. Phương pháp bản đồ ................................................................................................ 31
3.4. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia ....................................................................... 31
3.5. Phương pháp phân tích SWOT ............................................................................... 32
3.6. Phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia của Cộng đồng (phương pháp PRA –
Participatory Rapid Assessment) ................................................................................... 33
4. KẾT QUẢ DỰ KIẾN ................................................................................................................... 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 36
iii
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và những bước tiến về công nghệ đã đưa con
người phát triển vượt bậc về kinh tế. Quá trình phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
diễn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Song song với nó là những tác động làm suy
giảm tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường. Một vấn đề đang rất được quan
tâm là sự suy giảm nhanh chóng nguồn tài nguyên đa dạng sinh học. Càng ngày các nhà
khoa học càng tìm ra được những giá trị của đa dạng sinh học đối với sự sống thì đa dạng
sinh học bị suy giảm ngày càng nghiêm trọng. Nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt
chủng, nhiều lồi đã khơng cịn tồn tại... Các quốc gia, nhiều tổ chức, cá nhân đã lên tiếng
và có những hành động thiết thực để làm giảm những nguy cơ đó.
Tại Việt Nam, sự cần thiết phải bảo tồn đa dạng sinh học đã được chính phủ nhìn
nhận và có những hành động thiết thực để bảo tồn nguồn tài nguyên vô giá của thiên
nhiên; đó là các luật, các chính sách như thành lập các Vườn quốc gia, Khu Bảo tồn để
bảo vệ các khu rừng và các hệ sinh thái; luật bảo vệ và phát triển rừng, luật đa dạng sinh
học… cũng như kêu gọi các tổ chức, cá nhân tham gia cùng thực hiện. Trong các phương
pháp bảo tồn đa dạng sinh học, thì bảo tồn nguyên vị tại các Vườn Quốc gia, Khu Bảo
tơn được xem là tốt nhất, vì bảo tồn tại chỗ mơi trường sống của các lồi động thực vật,
giảm thiểu đến mức thấp nhất tác động của con người, tạo điều kiện để các loài được
sống, được bảo vệ, được sinh sôi, nãy nở…
Tuy nhiên, để công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại các Vườn Quốc gia, Khu Bảo
tồn đạt hiệu quả, thì khơng thể khơng có sự tham gia của cộng đồng địa phương, những
người đang sinh sống trongvùng ven, vùng đệm và vùng lõi các khu rừng. Họ có những
tác động nhất định đến rừng. Để những tác động của người dân trở thành tích cực cho
cơng tác bảo tồn, thì cần phải có những biện pháp nâng cao nhận thức, biến nhận thức
thành hành động và cùng với lực lượng chức năng tham gia vào cơng tác bảo tồn. Các mơ
hình quản lý dựa vào cộng đồng hiện đang được áp dụng rộng rãi và mang lại những hiệu
quả nhất định.
Khu Bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai quản lý 104.303,8 ha đất rừng và hồ
(gồm 67.903.8 ha rừng và 32.400 ha mặt nước hồ Trị An) với đa dạng hệ sinh thái và đa
dạng sinh học cao. Công tác quản lý và bảo vệ rừng được thực hiện tốt. Cơng tác phịng
cháy chữa cháy, tuần tra bảo vệ rừng cũng như nâng cao nhận thức của người dân về tầm
quan trọng của việc bảo vệ rừng được thực hiện xuyên suốt. Tuy nhiên, có những khó
khăn nhất định là còn nhiều hộ dân sinh sống trong vùng lõi của rừng, và công tác quản
lý bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng địa phương cịn chưa cao, chưa mang lại
nhiều hiệu quả. Để công tác bảo tồn rừng mang lại hiệu quả cao, thì cần thiết phải có sự
tham gia của cộng đồng địa phương. Do đó, đề tài nghiên cứu muốn đề cập đến vấn đề
được xem là then chốt trong công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học, là quản lý và
bảo tồn đa dạng sinh học phải có sự tham gia của cộng đồng.
Thấy được tính cấp thiết của vấn đề, đề tài: “sự tham gia của cộng đồng trong
công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu Bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa
Đồng Nai: thực trạng và giải pháp” được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ tại khoa
Môi trường và Tài nguyên tại Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh.
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐDSH
Đa dạng sinh học
FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations): Tổ chức Lương
thực và Nông nghiệp Liên Hiệp quốc
FSSP (Forest Sector Support Partnership): Chương trình Hỗ trợ Ngành Lâm nghiệp
HST
Hệ sinh thái
KBTTNVH
Khu Bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa
KBTTN
Khu Bảo tồn thiên nhiên
KBT
Khu Bảo tồn
IUCN (International Union for Conservation of Nature and Natural Resources): Tổ
chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
LNCĐ
Lâm nghiệp cộng đồng
QLRCĐ
Quản lý rừng cộng đồng
VQG
Vườn Quốc gia
3
DANH SÁCH HÌNH
Hình 1.1: Sơ đồ ý tưởng sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn
ĐDSH tại KBT thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai
Hình 2.1: Bản đồ Khu BTTN và VH Đồng Nai
Hình 2.2: Bản đồ Quy hoạch các Phân khu chức năng Khu BTTN & VH Đồng Nai giai
đoạn 2011 – 2020
Hình 3.6: Chuẩn bị cho một cuộc PRA
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: các kiểu tham gia của cộng đồng địa phương trong quản lý tài nguyên thiên
nhiên
Bảng 2.1.4: Các điểm mốc quan trọng trong quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam
Bảng 2.1.5: Hạn chế trong việc áp dụng các chính sách liên quan đến hưởng lợi trong
giao đất giao rừng ở Việt Nam
Bảng 2.2: Mơ hình SWOT
4
SƠ ĐỒ Ý TƯỞNG
Hình 1.1 Sơ đồ ý tưởng sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý
và bảo tồn ĐDSH tại KBT thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai
5
2. TỔNG QUAN
2.1. Tổng quan tài liệu
2.1.1. Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên
Khái niệm về cộng đồng.
Cộng đồng là một tập hợp những người sống gắn bó với nhau thành một xã hội
nhỏ có những điểm tương đồng về mặt văn hố, kinh tế, xã hội truyền thống, phong tục
tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh
giới khơng gian trong một thơn, bản. Theo quan niệm này, “cộng đồng” chính là “cộng
đồng dân cư thôn bản”. Tuy nhiên, trong phạm vi hẹp hơn còn bao gồm cả cộng đồng sắc
tộc, cộng đồng các dịng họ, cộng đồng tơn giáo hoặc các nhóm hộ trong thơn bản.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn các ý kiến
đều cho rằng “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến cộng đồng dân
cư thơn bản. Tại Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã định nghĩa “Cộng
đồng dân cư thôn là tồn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thơn, làng,
bản, ấp, bn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương“. Cộng đồng được dùng trong báo
cáo này chủ yếu là nói về cộng đồng thơn bản.
(Nguồn: />Một số đặc điểm của cộng đồng địa phương tại các VQG và KBTTN
Cộng đồng địa phương ở các VQG và KBTTN Việt Nam có các đặc điểm riêng
biệt sau:
- Có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài tại địa phương, từ trước khi KBTTN
được thành lập.
- Điều kiện kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên sẵn có trong các KBTTN như săn bắt động vật hoang dã, thu lượm các sản phẩm
của rừng, đốt nương làm rẫy. Những hoạt động đó là một mối đe dọa trực tiếp đến ĐDSH
của các KBTTN.
-Sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) của người dân địa phương thường
kém hiệu quả do phương thức canh tác lạc hậu (đốt nương làm rẫy) và do chưa được tiếp
cận với các kỹ thuật canh tác và chăn ni có hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, cuộc sống của
họ cịn rất nhiều khó khăn.
-Đa số những người dân địa phương sinh sống tại các KBTTN là những dân tộc
thiểu số hoặc những cộng đồng có những đặc trưng riêng về văn hóa, xã hội, khá độc lập
với mơi trường bên ngồi. Do đó, văn hóa truyền thống của họ rất phong phú và đa dạng,
cần được gìn giữ và bảo vệ.
-Trình độ văn hóa của người dân địa phương còn rất thấp, nhận thức của họ về bảo
tồn thiên nhiên và bảo vệ mơi trường cịn rất hạn chế, do đó khó khăn cho q trình giáo
dục nâng cao nhận thức.
-Bộ máy quản lý cũng như đội ngũ cán bộ địa phương cịn có những hạn chế.
Trong cộng đồng, hương ước và quy định có ảnh hưởng rất lớn. Sự ảnh hưởng lẫn nhau
và tác động qua lại giữa các thành phần trong cộng đồng còn rất chặt chẽ nên có thể nói
đây là một cộng đồng rất nhạy cảm. (Nguyễn Đức Kháng, 2008).
Những nguyên nhân cần có sự tham gia của cộng đồng
Cộng đồng bao gồm cộng đồng địa phương, các nhóm người sử dụng tài ngun,
các “nhóm sở thích”, các quan chức địa phương, các đại diện của các tổ chức phi chính
phủ, các doanh nhân, các nhóm khác và tất nhiên là bao gồm cả các cán bộ của KBTTN.
Việc tham gia của các cộng đồng địa phương cần được đặc biệt chú ý.
Sự tham gia của cộng đồng là cần thiết trong quá trình xây dựng kế hoạch quản lý
khu BTTN thể hiện sự nhất trí của cộng đồng đối với các mục tiêu quản lý (IUCN, 2008).
Các kiểu tham gia của cộng đồng thể hiện như sau:
Theo FAO (1999) có 6 kiểu tham gia theo sơ đồ 1.1. Trong đó theo FAO chỉ có
hai kiểu tham gia ở mức độ cao là cộng đồng có quyền ra quyết định hoặc chia sẻ trong
việc ra quyết định là tiếp cận thích hợp nhất cho việc hỗ trợ để tạo ra sự hợp tác trong
quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2
Sơ đồ 2.1: các kiểu tham gia của cộng đồng địa phương trong quản lý tài nguyên
thiên nhiên (FAO, 1999)
Các mức độ tham gia của cộng đồng
Thông báo : Đây là mức độ thấp nhất của sự tham gia. Các nhóm hay các cá nhân
nhận được thơng tin về các hoạt động dự kiến, nhưng họ khơng có điều kiện làm thay đổi
chúng. Mục tiêu của việc thông báo là để thuyết phục cộng đồng về các quan điểm của
nhà lãnh đạo. Đây là cách tiếp cận “từ trên xuống” khi quyết định trong công tác bảo tồn.
Tham vấn: Đây là bước cao hơn thông báo. Các cộng đồng địa phương, các bên
liên quan chủ chốt và các tổ chức nhận được thông báo về dự án hay kế hoạch để biết
quan điểm của họ.
Những ý kiến tham vấn được nhắc đến trong khi đánh giá, nhưng không nhất thiết
được tiếp thu ở bản thảo cuối cùng.
Cùng quyết định: Điều này xảy ra khi các bên liên quan được mời đến để biết và
trao đổi về vấn đề cùng quan tâm và tham gia vào quyết định cuối cùng.
3
Cùng phối hợp: Khi hai bên cùng tham gia quyết định và chia sẻ trách nhiệm để
thực hiện các quyết định đó.
Ủng hộ các mối quan tâm độc lập của cộng đồng: Đây là mức độ cao nhất của
sự tham gia của cộng đồng. Cộng đồng chịu trách nhiệm xây dựng các chương trình bảo
tồn và thực hiện các quyết định mà họ lựa chọn.Vai trò của các chuyên gia, các cơ quan
hay nhà đầu tư là hỗ trợ cộng đồng bằng các thông tin và các kỹ năng và có thể cả nguồn
lực để giúp cho đưa ra các quyết định với các thơng tin tốt nhất có thể. Mức này thể hiện
cách tiếp cận hoàn toàn “từ dưới lên” trong công tác bảo tồn (IUCN, 2008).
2.1.2. Khái niệm đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học
Khái niệm đa dạng sinh học
Theo công ước của Liên hợp quốc: “ĐDSH là sự phong phú của mọi cơ thể sống
có từ tất cả các nguồn trong các hệ sinh thái trên cạn, dưới nước, ở biển và mọi phức hệ
sinh thái mà chúng là bộ phận cấu thành. ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng
di truyền hay còn gọi là đa dạng nguồn gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh
thái (đa dạng hệ sinh thái).
Ở Việt Nam, ĐDSH được định nghĩa theo Luật ĐDSH (2008) là sự phong phú về
gen, loài, sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên.
Cho đến nay, thuật ngữ ĐDSH được định nghĩa theo nhiều cách diễn tả khác nhau
nhưng tất cả đều được hiểu bao gồm 03 thành phần chính, đó là nguồn gen, lồi và hệ
sinh thái.
Bảo tồn ĐDSH: là việc bảo vệ sự phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên quan
trọng, đặc thù hoặc đại diện; bảo vệ môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo
mùa của loài hoang dã, cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên; ni, trồng,
chăm sóc lồi thuộc Danh mục lồi nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; lưu giữ và
bảo quản lâu dài các mẫu vật di truyền (Luật ĐDSH, 2008).
Quản lý ĐDSH trong các KBT
Việc thành lập hệ thống các KBT là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các
loài, quần xã sinh vật và HST. KBT được định nghĩa là một vùng đất và/hoặc biển được
4
xác định để bảo vệ và duy trì ĐDSH và nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa được kết
hợp và được quản lý thông qua các phương tiện pháp lý và các phương tiện có hiệu quả
khác.
Cho đến hiện nay vẫn chưa có một hướng dẫn chung nào cho việc thiết kế một
KBT trên toàn thế giới. Thay vào đó, hầu hết các KBT đều được thiết kế tùy thuộc vào sự
sẵn có của đất đai, nguồn kinh phí, sự phân bố dân cư ở trong và quanh KBT, nhận thức
của cộng đồng cũng như các tình huống bảo tồn cần được quan tâm. Tuy vậy, đã có một
sự thừa nhận rộng rãi rằng các KBT lớn sẽ có khả năng bảo tồn loài, quần xã sinh vật
cũng như các hệ sinh thái đích tốt hơn vì nó có thể duy trì các quá trình sinh thái diễn ra
trong KBT một cách toàn vẹn hơn các KBT nhỏ.
Về quan điểm quản lý các KBT, quan điểm được cho là phù hợp với việc quản lý
hiệu quả một KBT hiện nay là rằng việc áp dụng bất cứ một phương thức quản lý nào
cũng phải dựa vào các đối tượng quản lý ở một địa điểm cụ thể. Chỉ khi đã xác định được
các đối tượng quản lý thì các kết quả quản lý khoa học mới được áp dụng.
Hơn nữa một chiến lược bảo tồn ĐDSH hiệu quả cần chú trọng không chỉ thực
hiện công tác bảo tồn trong phạm vi ranh giới của các KBT mà cần mở rộng phạm vi của
các hoạt động nhằm bảo tồn loài, quần xã hay hệ sinh thái đích bên ngồi phạm vi cơ giới
của các KBT (off-reserve conservation). Điều này là bởi vì nếu chúng ta khơng thể bảo
vệ thiên nhiên bên ngồi các KBT thì thiên nhiên cũng chẳng tồn tại bao nhiêu trong các
KBT đó. Thêm vào đó, một chiến lược bảo tồn ĐDSH hiệu quả cần thiết phải tính đến
các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và khuyến khích các thành phần có liên
quan tham gia vào cơng tác bảo vệ các lồi, quần xã hay hệ sinh thái đích cần được bảo
tồn.
Tuy nhiên, hiệu quả quản lý của một KBT phụ thuộc phần lớn vào mức độ ủng hộ
hay thù địch của người dân địa phương sống quanh KBT. Do vậy tìm kiếm các nguồn thu
nhập khác thay thế cho các thu nhập từ tài nguyên thiên nhiên trực tiếp của khu bảo tồn
đã bị ngăn cấm khai thác nhằm đảm bảo và nâng cao sinh kế cho cộng đồng sống xung
5
quanh có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc xây dựng các chiến lược dài hạn cũng như các
kế hoạch hành động ngắn hạn cho quản lý KBT hiệu quả.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một KBT sẽ rất khó khăn, thậm chí khơng thể
nào bảo vệ được các giá trị đa dạng sinh học của mình nếu quá trình hoạch định chiến
lược cho việc bảo tồn và phát triển của nó khơng tính đến sự phát triển kinh tế xã hội của
người dân địa phương. KBT không thể nào tồn tại như một “ốc đảo” trong tiến trình vận
động và phát triển chung của xã hội và con người sống xung quanh nó.
Do vậy, ngay từ bước đầu của việc hoạch định các chiến lược bảo tồn, cần thiết
phải tiến hành bàn bạc và thỏa thuận với người dân địa phương sống xung quanh các
KBT về cách thức bảo tồn có sự tham gia và các giải pháp nhằm tìm nguồn sinh kế thay
thế và cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống kinh tế xã hội cho cộng đồng dân cư địa
phương. Tính bền vững của công tác bảo tồn ĐDSH của một KBT được đảm bảo chỉ khi
nào người dân địa phương thực sự tham gia vào các hoạt động bảo tồn và ngược lại các
hoạt động bảo tồn thực sự mang lại các lợi ích kinh tế cho cộng đồng xung quanh.
(Nguồn: />d=245%3Aa-dng-sinh-hc-va-bo-tn-a-dng-sinh-hc&catid=43%3Abao-ton-thiennhien&Itemid=70&lang=en&limitstart=3)
2.1.3. Sự tham gia cua cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH
Nói đến cộng đồng trong cơng tác quản lý và bảo tồn ĐDSH tại các VQG,
KBTTN trước hết đề cập đến vấn đề nhận thức của cộng đồng và các hình thức người dân
có thể tham gia trong công tác bảo tồn ĐDSH. Hiện nay, công tác truyền thông nâng cao
ý thức của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH tại các VQG, KBTTN rất
được chú trọng và được thực hiện xuyên suốt.
Sự cần thiết phải giáo dục môi trường cho cộng đồng địa phương các KBTTN
Cuộc sống của cộng đồng địa phương còn rất nhiều khó khăn và phụ thuộc trực
tiếp vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có trong vùng. Các hoạt động chính của cộng
đồng dân cư có tác động tiêu cực đến ĐDSH của KBTTN bao gồm:
6
- Hoạt động săn bắt và bn bán các lồi động vật hoang dã luôn là mối đe dọa
lớn nhất tới hoạt động bảo tồn tại các KBTTN.
- Việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên (các loại hải sản, gỗ, lâm sản
ngồi gỗ, khống sản) của người dân tàn phá cảnh quan và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
các HST của các KBTTN.
- Hoạt động đốt nương làm rẫy, khai hoang, canh tác nông nghiệp không bền
vững, chăn thả gia súc và xây dựng cơ sở hạ tầng… cũng có những tác động rất xấu đến
các KBTTN.
- Hoạt động sinh sống và kinh doanh (đặc biệt là hoạt động kinh doanh du lịch ồ
ạt và tự phát) đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường (chủ yếu là vấn đề rác thải và ô
nhiễm nước thải) ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bảo tồn và bảo vệ mơi trường tại các
KBTTN.
Có thể thấy rằng người dân địa phương và mơi trường có mối quan hệ khăng khít
với nhau. Mơi trường chỉ có thể được bảo vệ thơng qua việc thay đổi phương thức sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như nâng cao sự hiểu biết về môi trường của
cộng đồng địa phương. Do vậy, chúng ta cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục môi
trường để thay đổi về mặt nhận thức, thái độ và hành vi của người dân địa phương đối với
môi trường, từ đó giảm sức ép lên nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, việc thu
hút sự tham gia của người dân địa phương sẽ góp phần nâng cao chất lượng của công tác
bảo tồn, đồng thời sẽ tạo cơ hội tăng nguồn thu nhập và giảm bớt những khó khăn trong
cuộc sống của người dân. (Nguyễn Đức Kháng, 2008. Trang 9, 10)
Các hình thức tham gia của cộng đồng trong cơng tác quản lý và bảo tồn đa
dạng sinh học
Có nhiều hình thức tham gia của cộng đồng trong cơng tác quản lý và bảo tồn
ĐDSH tại KBTTN. Như cùng với VQG, KBTTN tham gia cơng tác phịng cháy chữa
cháy rừng; trở thành tuyên truyền viên tích cực trong các hoạt động nâng cao nhận thức
cộng đồng,… Trong đó, cộng đồng tham gia quản lý rừng đã và đang được áp dụng rộng
rãi ở nhiều VQG, KBTTN và mang lại những hiệu quả rất thiết thực.
7
Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý rừng
Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một từ chung nhất là
lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ).
Lâm nghiệp cộng đồng được tổ chức Nông lương thế giới FAO định nghĩa là “bất
kỳ tình huống nào mà người dân địa phương tham gia vào hoạt động lâm nghiệp. Nó bao
gồm một loạt các tình huống từ đất trồng cây lấy gỗ ở các khu vực thiếu gỗ và các lâm
sản khác phục vụ cho nhu cầu địa phương, tới việc trồng cây (rừng) để tạo thu nhập và
chế biến lâm sản của các cấp hộ dân, thợ thủ công hoặc đến các doanh nghiệp nhỏ, đến
các hoạt động của các cộng đồng sống trong rừng” (FAO, 1987).
LNCĐ là những hoạt động không chỉ giới hạn trong việc trồng cây rừng ở trang
trại, khu nhà ở hay ven đường, mà còn đề cập đến cả tập quán du cach, việc sử dụng và
quản lý rừng tự nhiên, việc cung cấp các sản phẩm lâm sả từ rừng tự nhiên, từ rừng trồng
hay nông lâm kết hợp. Lâm nghiệp cộng đồng cũng đề cập đến sự xác định nhu cầu của
địa phương, tăng cường quản lý sử dụng các sản phẩm lâm nghiệp để cải thiện mức sống
của người dân theo một phương thức bền vững, đặc biệt là cải thiện điều kiện sống cho
người nghèo (FAO, 2000).
Theo Arnold (1992) lâm nghiệp cộng đồng là một thuật ngữ bao trùm hàng loạt
các hoạt động gắn kết người dân nông thôn với rừng trồng cũng như quản lý bảo vệ các
sản phẩm và lợi ích thu được từ rừng trồng và rừng tự nhiên.
Trong các văn bản chính thức, “Quản lý rừng cộng đồng” ở Việt Nam thường nói
đến một khái niệm hẹp về diện tích rừng được cả thơn bản quản lý. Trong thực tế, quản lý
rừng cộng đồng được tiến hành cả ở những khu rừng được giao cho hộ bởi người dân địa
phương thường hợp tác với nhau để quản lý rừng theo hình thức tập thể (Bản tin FSSP, số
36 – 37, tháng 12/2012, trang 3).
Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và chưa có một
định nghĩa chính thức nào được công nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc hội thảo dường như
mọi người đều thống nhất ở Việt Nam, có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp
với định nghĩa của FAO như sau:
8
- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ):
Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia
sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của
cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng.
Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã được quản lý theo truyền thống lâu
đời (rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước…quản lý theo các luật tục truyền thống với tinh
thần tự nguyện cao); rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đuợc giao cho các hợp
tác xã trước đây, nay hợp tác xã giao lại cho các xã, hoặc các thôn quản lý; rừng được
chính quyền địa phương giao cho cộng đồng với tính chất thí điểm trong thời gian gần
đây.
- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền
quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu của các
thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch
sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…).
Hình thức này bao gồm hai đối tượng:
+ Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham
gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự
nguyện (tạo thêm sức mạnh để báo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt
động lâm nghiệp…).
+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban
quản lý rừng phịng hộ, đặc dụng, các lâm trường, cơng ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm
trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như
bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm
th thơng qua các hợp đồng khốn và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm khác nhau.
Thuật ngữ QLRCĐ được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ cộng đồng quản lý những
khu rừng của một cộng đồng dân cư, cịn nói đến LNCĐ hay cộng đồng tham gia quản lý
9
rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân trong cộng đồng dân cư thôn
bản với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách
khác, LNCĐ là một hình thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng
dân cư thôn bản thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần
kinh tế khác.
Với cách hiểu như vậy, nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng cộng đồng
(cộng đồng quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng
quản lý rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này vừa phù hợp với định nghĩa của
FAO vừa phát huy được nhiều hơn sự đóng góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây
dựng và phát triển rừng.
(Nguồn:
/>
nang-co-hoi-va-thach-thuc/)
2.1.4. Tình hình nghiên cứu về quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng
đồng
Trên thế giới
Hầu hết các quốc gia ASEAN đang có các chính sách để phân cấp, phân quyền
trong quản lý tài nguyên rừng. Họ đã thử nghiệm khá thành cơng cách tiếp cận có sự
tham gia của người dân, chú ý đến tiến trình phát huy kiến thực bản địa, nâng cao năng
lực của các cộng đồng thiểu số để xây dựng các mơ hình quản lý rừng cộng đồng.
Một số nước như Nepal, Bangladesh, Thái Lan đã phát triển khá thành công các
cách tiếp cận có sự tham gia và hình thành các định chế, phương thức quản lý rừng dựa
vào cộng đồng, nhóm sử dụng rừng (Forest User Group – FUG). RECOFTC – Trung tâm
đào tạo LNCĐ trong khu vực châu Á Thái Bình Dương đã hơn 20 năm phát triển các
phương pháp luận tiếp cận có sự tham gia để quản lý rừng cộng đồng. (Bảo Huy, 2005,
trang 9).
Ở Nepal, LNCĐ xuất hiện nổi bật với sự tham gia của người dân vào quản lý rừng.
Ngày nay LNCĐ trở thành nguồn thu nhập và cơ hội tạo việc làm, cải thiện đời sống của
các cộng đồng nông thôn. Với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của nhiều tổ chức phi chính
10
phủ và tổ chức tài trợ quốc tế, chương trình này đã được thực thi ở toàn quốc và phần lớn
chương trình đã thành cơng. Với việc thành lập các nhóm sử dụng rừng, lâm nghiệp
Nepal đã đạt được các bước tiến bộ về nhiều mặt từ hình thức quản lý rừng có sự tham
gia của cộng đồng địa phương.
Ở Ấn Độ, hình thức “đồng quản lý rừng” đang được mở rộng nhanh chóng bởi cải
cách thể chế trong chính sách về rừng đang được thực thi với dấu hiệu rõ nhất là phi tập
trung hóa và dân chủ hóa quản lý nguồn tài nguyên. D’Silva (1997) tin rằng chương trình
“đồng quản lý rừng” tuy cịn ở giai đoạn đầu cơng tác bảo vệ rừng chuyển từ sự kiểm sốt
của nhà nước sang việc kiểm soát của cộng đồng. Ấn Độ đang thực hiện bước cải cách
thể chế tổ chức mặc dù các vấn đề đặt ra cho việc cải cách thì cịn xa mới đạt tới.
Ở Bangladet, vấn đề xây dựng chiến lược, thể chế với sự trợ giúp của lâm nghiệp
xã hội đã nổi lên từ những năm 1967. Sự phản ứng rất hạn chế của Chính phủ về xác định
quyền sử dụng đất và tài nguyên thiên nhiên, cái chính là khơng an tồn một cách phổ
biến, đã làm suy yếu quản lý lâm nghiệp cộng đồng. Những vấn đề pháp lý khơng tìm
được câu trả lời như quyền chiếm hữu không chắc chắn và mâu thuẫn giữa tư nhân và sở
hữu công về rừng, đất rừng, quyền quản lý đất đai theo truyền thống xảy ra bởi sự kiện
những người sống về đất, những người thiếu đất và việc dân chủ hóa là ngun nhân
chính của việc phá hoại nguồn tài nguyên rừng và mất đa dạng sinh học. Sự thiếu tin
tưởng giữa người dân địa phương với cơ quan lâm nghiệp, thiếu chính sách minh bạch để
thực thi quản lý xã hội và quản lý rừng có người dân tham gia cũng là nguyên nhân dẫn
đến mất rừng (Poffenberger, 2000; Thakur, 2001).
Tại Srilanka, từ năm 1982 đến 1988 pha 1 của Dự án lâm nghiệp cộng đồng do
ADB tài trợ cho Cục Lâm nghiệp Srilanka đã tạo cơ hội tiếp cận kinh nghiệm có người
dân tham gia trong quản lý rừng. Quá trình này được thực thi khơng đem lại lợi ích nào
về kiến thức địa phương và sự phản ứng hạn chế tới nguồn tài nguyên địa phương, nhận
biết nhu cầu và các ưu tiên. Sự thiếu vắng tổ chức cộng đồng được ủy quyền để quyết
định việc giao đất rừng cho trồng trọt và với một số lượng rất hạn chế của cán bộ Bộ Lâm
nghiệp đã dẫn đến việc kiểm soát lỏng lẻo việc chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp
11
trong tồn quốc. Năm 1995, Chính phủ Srilanka đã đưa ra một kế hoạch tổng quan lâm
nghiệp mới, trong đó đề ra việc tăng độ che phủ rừng, tăng năng suất nhằm đáp ứng các
nhu cầu hiện tại và tương lai, nâng cao mức sống, kinh tế của người dân địa phương cũng
như toàn dân tộc. Rừng thuộc sở hữu Nhà nước phải quản lý theo nguyên tắc bền vững về
sinh thái. Ngày nay các chương trình đồng quản lý rừng thông qua sự tham gia của người
dân đang được thực thi (Poffengerg, 2000; Thaksur, 2001).
Tại Philipin, việc chuyển đổi lâm nghiệp cộng đồng của Philipin có thể chia làm 3
giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là khai phá (1971-1980); giai đoạn thứ hai là củng cố và
hợp nhất (1982-1989) và giai đoạn thứ 3 là mở rộng và thể chế hóa. Trong giai đoạn khai
phá về quản lý lâm nghiệp cộng đồng, trồng rừng và trồng cây công cộng là khuynh
hướng chính của lâm nghiệp cộng đồng thơng qua sự tham gia của người dân địa phương.
Việc hợp nhất chương trình lâm nghiệp xã hội và lâm nghiệp cộng đồng là chương trình
chủ yếu trong giai đoạn thứ 2 và tăng trưởng rừng cộng đồng trong giai đoạn 3. Người
dân trở thành đối tác, người quản lý và người chủ của các nguồn tài nguyên rừng. Quản
lý rừng trên cơ sở cộng đồng là thông qua hợp đồng thuê quyền sử dụng bằng việc tăng
cường bảo vệ, quản lý, phục hồi và phát triển rừng. Các tổ chức của người dân đang làm
việc trên diện tích này với quyền sử dụng an toàn trong 25 năm. Quyền 25 năm với rừng
tạo ra cơ hội để bảo vệ, quản lý và bán các sản phẩm rừng ở các rừng cộng đồng của họ
(Guiang E. S. et al, 2001) .
Ở Thái Lan, Wasi (1997) cho rằng lâm nghiệp cộng đồng là một nhân tố trợ giúp
cho việc phát triển xã hội dân sự ở Thái Lan. Các cộng đồng có địi hỏi rất lớn được tham
gia vào quản lý các nguồn tài nguyên địa phương của họ do một diện tích rừng lớn đã bị
mất bởi việc khai thác gỗ hợp pháp trong những thập kỷ trước đây. Vandergeets (1996)
nhận thấy rằng khai thác rừng ở Thái Lan đã bị cấm từ năm 1989, Cục Lâm nghiệp
Hoàng gia Thái Lan đã chuyển các mục tiêu từ quản lý khai thác gỗ sang mở rộng bảo
tồn rừng. Quyền của các cộng đồng địa phương quản lý các nguồn tài nguyên của họ đã
trở thành mục tiêu chính của nhiều tổ chức phi chính phủ và cơ quan nghiên cứu.
Gỵmour và Fisher(1997) nhận xét rằng các hoạt động quản lý rừng cộng đồng có liên
12
quan đến việc mở rộng trồng rừng trên diện tích đã mất rừng, ở mức độ nào đó khá hơn là
việc phối hợp quản lý hoặc chuyển giao việc kiểm sốt cho các cộng đồng. (Bộ Nơng
nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2006).
Tháng 9/2001 tại Chiang Mai – Thái Lan đã tổ chức một hội thaot quốc tế về Lâm
nghiệp cộng đồng, trong đó đã phản ánh nhu cầu phát triển phương thức quản lý rừng dựa
vào cộng đồng ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Những vấn đề cần quan tâm để
phát triển lâm nghiệp cộng đồng trong khu vực như:
- Phân cấp và chuyển giao quyền sở hữu và sử dụng tài nguyên rừng cho cộng
đồng.
- Xây dựng các mơ hình hợp tác giữa các cộng đồng và các bên liên quan để phát
triển lâm nghiệp cộng đồng.
- Phát triển một hệ thống chính sách đồng bộ hỗ trợ cho phát triển lâm nghiệp
cộng đồng.
- Phát triển các cách tiếp cận cả về kỹ thuật và xã hội để xây dựng các kế hoạch
quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng (Bảo Huy, 2005, trang 9).
Tại Việt Nam
Từ đầu thập niên 90, việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng và sự hỗ trợ từ các
dự án phát triển quốc tế trong ngành lâm nghiệp đã thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng
địa phương vào công tác quản lý rừng ngày càng tăng. Đầu những năm 2000, sự thừa
nhận pháp lý về quyền hưởng dụng đất và rừng của cộng đồng đã tiếp tục khuyến khích
sự phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Nhìn chung, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được
nền tảng vững chắc để phát triển quản lý lâm nghiệp cộng đồng thơng qua chính sách đổi
mới về quyền hưởng dụng đất. Giao đất giao rừng là điều kiện tiên quyết quan trọng và
cần thiết để cộng đồng địa phương quản lý rừng bền vững, thu được lợi ích từ rừng và
tham gia và quá trình ra quyết định một cách chủ động (Nguyễn Quang Tân, 2012).
13
Bảng 2.1.4. Các điểm mốc quan trọng trong quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam
Năm
1976
1991
Nội dung
Quốc hữu hóa tài nguyên rừng, đánh dấu thời kỳ lâm nghiệp quốc doanh
Luật Phát triển và Bảo vệ rừng được thông qua, đánh dấu sự tham gia của
người dân địa phương vào công tác bảo vệ và phát triển rừng
Luật Đất đai được thông qua, quy định các quyền của người sử dụng đất
1993
được phép cho thuê, chuyển đổi, thừa kế, thế chấp và chuyển nhượng quyển
sử dụng đất.
Những
Chính sách đổi mới hưởng dụng rừng và các dự án thí điểm về quản lý lâm
năm 1990 nghiệp cộng đồng trên toàn quốc.
2003
2004
Những
năm 2000
Luật Đất đai được thông qua, công nhận quyền hưởng dụng đất của cộng
đồng.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng đã được thông qua, công nhận quyền hưởng
dụng rừng của cộng đồng.
Chính sách đổi mới về hưởng dụng rừng và các dự án thí điểm về quản lý
rừng cộng đồng tiếp tục được thực hiện. Dự án thí điểm quốc gia về lâm
nghiệp cộng đồng.
(Nguồn: Nguyễn Quang Tân, 2012)
Ngành lâm nghiệp đã có hàng loạt chương trình lớn để cải thiện rừng trên tồn quốc.
Bắt đầu bằng chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc năm 1992 (chương trình 327), tiếp
theo là chương trình trồng 5 triệu hecta rừng năm 1998 (chương trình 661). Các chương
trình này chủ yếu tập trung vào trồng rừng, bảo vệ môi trường và thành lập các khu bảo
tồn với nhiều mục đích khác nhau. Chương trình 327 chủ yếu tập trung vào rừng phịng
hộ, có mục tiêu cố gắng giải quyết tình hình kinh tế xã hội và môi trường trong các khu
vực vùng sâu xa nhưng do việc bao cấp các hoạt động trồng, bảo vệ rừng và bảo vệ rừng
tự nhiên ở khu vực đầu nguồn và không công bằng trong chia sẻ lợi ích (người dân chỉ
được sử dụng sản phẩm tận thu từ tỉa thưa, sản phẩm cuối cùng mang lợi ích tới cho các
14
nhà đầu tư, phần lớn ngân sách của các hoạt động của Chương trình 327 do các lâm
trường quốc doanh quản lý) nên chương trình chưa mang lại kết quả như mục tiêu ban
đầu đặt ra. Chương trình 661, có thể được hiểu là phần tiếp theo của Chương trình 327.
Mục tiêu của chương trình này là trồng lại 5 triệu hecta rừng, tăng độ che phủ nhằm phục
vụ cả mục đích mơi trường và sản xuất. Ngược lại với cách làm tập trung từ trên xuống
của giai đoạn trước, chương trình 661 áp dụng cách tiếp cận phân cấp và có sự tham gia
của cộng đồng địa phương (Đinh Đức Thuận và cộng sự, 2005).
Theo số liệu của Cục Kiểm lâm, tính đến tháng 6 năm 2001, các cộng đồng dân cư
thuộc 1.203 xã, 146 huyện của 24 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang tham gia
quản lý 2.348.295 ha rừng và đất chưa có rừng quy hoạch để trồng rừng chiếm khoảng
15,5% diện tích đất lâm nghiệp (đất có rừng và đất chưa có rừng) trên tồn quốc. Nhìn
chung, hình thức quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng hiện nay đang chứng tỏ có
hiệu quả, cơng tác bảo vệ rừng được tốt hơn. Có nơi người dân đã được hỗ trợ vốn từ các
dự án nên đã giúp cho việc tăng thu nhập và cải thiện đời sống của họ. Ở những nơi này,
nhiều dự án đã áp dụng các phương pháp mới trong cả quá trình xây dựng quy hoạch, kế
hoạch, quản lý vốn... có sự tham gia của người dân, gắn với việc xây dựng quy ước quản
lý, bảo vệ rừng của cộng đồng một cách dân chủ, công khai, do vậy, họ rất phấn khởi và
tích cực bảo vệ rừng. Đây là loại hình quản lý rừng cộng đồng hiện được nhiều tỉnh quan
tâm và đang có xu hướng được nhân rộng.
Tuy nhiên cho đến nay, mặc dù cộng đồng đã có quyết định giao đất, giao rừng
nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do vậy ngoài nguồn đầu tư và
hỗ trợ từ các chương trình, dự án thì các quyền cơ bản của chủ rừng theo quy định của
pháp luật, cộng đồng vẫn không được hưởng như việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng,
đầu tư hỗ trợ của nhà nước cũng như xử lý các hành vi xâm hại đến rừng cộng đồng là
hết sức khó khăn. Mặt khác, nảy sinh một số vấn đề cần quan tâm giải quyết là sau khi
kết thúc các dự án, nguồn đầu tư khơng cịn, nếu khơng có những chính sách hỗ trợ ngay
từ đầu dễ dẫn đến tình trạng cộng đồng lại bỏ mặc khơng bảo vệ rừng; cần hướng dẫn
cộng đồng các biện pháp tổ chức sản xuất, các hình thức góp vốn đầu tư và các nguồn lực
15
khác của các thành viên; phân chia quyền hưởng lợi từ rừng giữa các thành viên trong
cộng đồng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã tạo khuôn khổ pháp lý bảo đảm
các quyền của cộng đồng, theo đó, Điều 30 quy định cộng đồng được giao rừng được
hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của nhà nước, được hưởng lợi do
các cơng trình bảo vệ, cải tạo rừng mang lại …( Đỗ Đình Sâm và cộng sự, 2002).
Đến năm 2013, Việt Nam đã thực hiện giai đoạn 2 của Dự án Lâm nghiệp cộng đồng
do Quĩ TFF tài trợ triển khai tại 10 tỉnh, tiến hành rà sốt các mơ hình LNCĐ tại 64 cộng
đồng tham gia dự án giai đoạn 1, tài liệu hóa, phổ biến và nhân rộng mơ hình. Đồng thời,
Việt Nam đã xây dựng và cung cấp cơ sở dự liệu về lâm nghiệp cộng đồng trên cổng
thông tin điện tử, có những đánh giá về thực trạng cũng như định hướng chính sách cho
cơng tác lâm nghiệp cộng đồng. Ngành lâm nghiệp triển khai thực hiện Đề án Tái cơ cấu
ngành Lâm nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Chính
sách chi trả dịch vụ môi trường rừng theo Nghị định số 99/2010/NĐ-CP tiếp tục được
thực hiện trên qui mô cả nước và bước đầu có hiệu quả tích cực đến công tác bảo vệ
rừng. (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2014).
2.1.5. Nhận định và các bài học kinh nghiệm
Nhận định
Tổng quan các vấn đề liên quan đến phát triển phương thức quản lý rừng dựa vào
cộng đồng trong và ngoài nước cho thấy:
- Xu hướng phát triển quản lý rừng dựa vào cộng đồng là khách quan trong phát
triển lâm nghiệp ở nhiều quốc gia nhằm định hướng thu hút sự tham gia của các cộng
đồng để đóng góp vào tiến trình quản lý rừng bền vững.
- Quản lý rừng dựa vào cộng đồng trước hết là nhằm tìm kiếm giải pháp cải thiện
đời sống người dân dựa vào các hoạt động lâm nghiệp và thơng qua đó giúp cho việc
phục hồi vào quản lý rừng có hiệu quả dựa vào kinh nghiệm truyền thống của cư dân bản
địa.
16
Để phát triển phương thức này địi hỏi có sự nghiên cứu và phát triển đồng bộ về
chính sách, các phương pháp tiếp cận, và hệ thống quản lý hành chính tương thích, bao
gồm:
- Chính sách phân cấp phân quyền trong quản lý tài nguyên rừng
- Các tiếp cận trong phát triển kỹ thuật công nghệ lâm nghiệp ở vùng cao
- Xây dựng hệ thống lập kế hoạch quản lý rừng phù hợp cấp cộng đồng thôn bản
Cải tiến và làm thích nghi các hệ thống quản lý, giám sát lâm nghiệp hiện hành với
quản lý rừng thôn bản (Bảo Huy, 2005)
Những khó khăn và tồn tại:
Ở một số nơi, rừng được giao hay khoán cho cộng đồng nhưng vẫn bị phá. Ở
những vùng dân trí thấp, người dân vẫn quan niệm rừng là của trời cho, ai cũng có thể
vào rừng để lấy gỗ và lâm sản. Họ không hiểu ý nghĩa của việc giao đất, giao rừng, thấy
giao thì nhận, khơng hiểu nghĩa vụ, quyền hạn của mình đối với rừng được giao. Nhiều
hộ được giao rừng, hộ khác đến xin khai thác là họ đồng ý ngay. Tình trạng này thường
xảy ra ở Tây Nguyên.
Về lý thuyết, các phương pháp luận đều đề xuất phải có người dân tham gia trong
mọi hoạt động quản lý kinh doanh rừng từ khâu quy hoạch sử dụng đất, giao đất, giao
rừng đến lập kế hoạch và thực hiện nhưng trong thực tế người dân cịn ít được tham gia.
Việc tổ chức họp thơn để giải thích cho dân hiểu cịn hạn chế. Ở những vùng nhạy cảm
về khai thác, vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, cộng đồng không đủ sức chống lại bọn
lâm tặc do khơng có sự hỗ trợ hoặc hỗ trợ rất hạn chế của các cơ quan chức năng như
cơng an, kiểm lâm, chính quyền sở tại.
Nhiều nơi, sau khi giao đất giao rừng, ngoài bảo vệ đơn thuần người dân khơng
biết làm gì, khơng biết trồng cây gì, khơng nắm được kỹ thuật gây trồng, nuôi dưỡng, làm
giầu rừng. Lực lượng khuyến lâm quá mỏng, không thể đáp ứng được yêu cầu của mọi
cộng đồng thơn. Tình trạng phổ biến là cộng đồng khơng có vốn để đầu tư xây dựng và
phát triển vốn rừng, đưa đất vào sử dụng có hiệu quả. Cộng đồng khơng được vay vốn
nhưng nếu được vay vốn thì chưa chắc người ta đã muốn đầu tư vào lâm nghiệp vì chu kỳ
17