Mục lục
BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT HÌNH SỰ
Đề bài
Bài tập số 4
Sau nhiều năm làm thuê ở khu vực biên giới, nhân dịp về quê ăn Tết, T rủ hai
cháu M (15 tuổi), N (17 tuổi) (là người cùng xã) lên khu vực biên giới Lạng Sơn
“làm thuê”. Đến Lạng Sơn T nói đưa M và N đi chơi nhưng thực chất là lén lút đưa
M và N qua biên giới rồi và bán hai cháu cho chủ chứa mại dâm người Trung Quốc
lấy 40 triệu đồng. Hành vi phạm tội của T được quy định tại khoản 2 Điều 150 và
khoản 2 Điều 151 BLHS.
1
Câu hỏi:
1. Tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi mà T thực hiện trong tình
huống nêu trên thuộc loại tội nào theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS. (1,5
điểm)
2. Phân tích, xác định những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm trong
tình huống nêu trên. (2 điểm)
3. Phân tích, xác định lỗi đối với hành vi phạm tội của T trong tình huống nêu trên.
(1,5 điểm)
4. Giả sử T mới 17 tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì hình phạt nặng
nhất mà T có thể phải chịu là bao nhiêu năm tù? (2 điểm)
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1.
Tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi mà T thực hiện
trong tình huống nêu trên thuộc loại tội nào theo phân loại tội phạm tại
Điều 9 BLHS. (1,5 điểm)
Trả lời : Theo quy định tại khoản 2 Điều 150 thì T bị phạt tù từ 08
năm đến 15 năm, theo phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS thì T
thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
2
Theo quy định tại khoản 2 Điều 151 thì T bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm, theo phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS thì T thuộc loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật
hình sự và phải chịu hình phạt. Trên thực tế, những hành vi phạm tội có mức
độ nguy hiểm cho xã hội và có tính chất khác nhau. Tội phạm được phân
thành nhiều nhóm khác nhau, theo khoản 1 điều 9 BLHS thì: “Tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Như vậy các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi hai yếu tố đó là về
mặt nội dung chính trị, xã hội( tính nguy hiểm cho xã hội) và dấu hiệu về
mặt hậu quả pháp lí( mức cao nhất của khung hình phạt).
Trong tình huống này Sau nhiều năm làm thuê ở khu vực biên giới,
nhân dịp về quê ăn Tết, T đã lừa gạt cháu M (15 tuổi), N (17 tuổi) (là người
cùng xã) lên khu vực biên giới Lạng Sơn “làm thuê” nhưng Đến Lạng Sơn T
nói đưa M và N đi chơi nhưng thực chất là lén lút đưa M và N qua biên giới
rồi và bán hai cháu cho chủ chứa mại dâm người Trung Quốc lấy 40 triệu
đồng. Hành vi của T đã đủ cấu thành các tội được quy định tại khoản 2 Điều
150. Tội mua bán người và khoản 2 Điều 151.Tội mua bán người dưới 16
tuổi. Cụ thể T đã phạm tội được quy định ở điểm d khoản 2 điều 150.Tội
mua bán người : “ Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ
3
nghĩa Việt Nam ” , điểm đ khoản 2 Điều 150 “ Đối với 2 người đến 5 người
” và điểm đ khoản 2 Điều 151. Tội mua bán người dưới 16 tuổi “Đưa nạn
nhân ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”. Theo
điểm d diểm đ khoản 2 điều 150 khung hình phạt cao nhất áp dụng cho T
là 15 năm suy ra T thuộc loại Tội rất nghiêm trọng và theo điểm đ khoản 2
Điều 151 khung hình phạt cao nhất cho T là 20 năm tù thuộc loại Tội đặc
biệt nghiêm trọng.
Kết luận : Hành vi của T đã cấu thành buôn bán người và buôn bán
người dưới 16 tuổi theo quy định tại điểm d điểm đ khoản 2 điều 150 và
điểm đ khoản 2 Điều 151 và tội phạm mà T thực hiện thuộc loại tội phạm
rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
2.
Phân tích, xác định những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
trong tình huống nêu trên.
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội. Việc xác định chúng có
ý nghĩa trong việc định khung hình phạt.
Thứ nhất, hành vi phạm tội ở đây là hành vi mua bán người để thu lợi bất
chính. Hành vi này thể hiện dưới hình thức dùng tiền, tài sản hoặc các phương
tiện thanh toán khác để đổi lấy người hoặc ngược lại để thu lợi. Ở đây chủ thể
phạm tội đã coi con người như hàng hóa để trao đổi và mua bán.
Thứ hai, về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: con người bị đem ra mua bán trao
đổi như hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao động, bóc
lột tình dục. Mua bán người xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người,
trong đó có những quyền cơ bản như quyền tự do đi lại, quyền được bảo vệ an
4
toàn tính mạng. Hậu quả của nó để lại rất nặng nề cho cá nhân, gia đình và xã
hội, nạn nhân phải chịu những tổn thương về tâm sinh lý, bị tổn hại về sức khỏe
và thậm chí cả tính mạng, đe dọa đến ổn định và trật tự an toàn xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối
quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân
(hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (hậu quả
nguy hiểm cho xã hội). Như vậy, trong tình huống đã nêu trên thì hành vi T bán
M và N cho chủ chứa mại dâm người Trung Quốc là nguyên nhân dẫn đến hậu
quả quyền con người của M và N bị xâm phạm nghiêm trọng.
Thứ tư, thời gian phạm tội là “nhân dịp về quê ăn Tết”, địa điểm phạm tội:
“Lạng Sơn”.
Thứ năm, thủ đoạn phạm tội ở đây là T nói đưa M và N đi chơi nhưng thực
chất là lén lút đưa M và N qua biên giới rồi bán hai cháu cho chủ chứa mại dâm
người Trung Quốc. T đã dùng thủ đoạn lừa M và N một cách tinh vi, khôn khéo
và có sự tính toán.
3. Phân tích, xác định lỗi đối với hành vi phạm tội của T trong tình huống
nêu trên. (1,5 điểm)
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý.[1]
Là mặt hình thức của lỗi, quan hệ tâm lý ở đây bao gồm yếu tố lí trí và yếu tố
ý chí là hai yếu tố cần thiết tạo thành lỗi. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của
yếu tố lí trí và yếu tố ý chí trong những trường hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam
chia lỗi thành hai loại là cố ý và vô ý. Lỗi cố ý gồm hai hình thức là cố ý trực tiếp
1 Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập I, NXB. CAND, Hà Nội, 2015.
5
và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng gồm hai hình thức là vô ý vì quá tự tin và vô ý vì
cẩu thả.
•
Lỗi cố ý trực tiếp
+ Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra[2].
+ Những dấu hiệu của lỗi cố ý trực tiếp
-Về mặt lí trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó.
-Về mặt ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Điều đó có
nghĩa hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù
hợp với mục đích – phù hợp với sự mong muốn của người đó.
•
Lỗi cố ý gián tiếp
+ Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy
ra[3].
+ Những dấu hiệu của lỗi cố ý gián tiếp
-Về mặt lí trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho
xã hội.
2 Khoản 1 Điều 9 BLHS
3 Khoản 2 Điều 9 BLHS
6
-Về mặt ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã
hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội đã thấy trước không
phù hợp với mục đích của họ. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội là nhằm mục đích khác. Chính để đạt được mục đích này mà người phạm tội đã
chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình có thể gây ra. Người
phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc đối
với hậu quả của nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình mà họ đã thấy trước.
•
Lỗi vô ý vì quá tự tin
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành
vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rẵng hậu quả đó
sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được [4] nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu
quả nguy hại đó.
+ Những dấu hiệu của lỗi vô ý vì quá tự tin
-Về mặt lí trí: Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà
hành vi của mình có thể gây ra.
-Về mặt ý chí: Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự không mong muốn hậu quả của người phạm tội
gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Người phạm tội với
lỗi vô ý vì quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và đã cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được, sự cân nhắc tính toán này có thể dựa vào những căn
cứ như tin tưởng vào đọ khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm, trình đọ kĩ thuật của
mình hoặc các điều kiện khách quan khác.
•
Lỗi vô ý vì quá cẩu thả
4 Khoản 1 Điều 10 BLHS
7
+ Lỗi vô ý vì quá cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên người phạm tội không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy
trước hậu quả đó[5].
+ Những dấu hiệu của lỗi vô ý do cẩu thả
-Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội mà hành vi của mình đã gây ra
-Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước hậu
quả đó. Người phạm tội trong trường hợp này với địa vị cụ thể của mình có nghĩa
vụ phải thấy và có đủ điều kiện để có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình chỉ vì cẩu thả, thiếu sự thận trọng cần thiết. Lỗi của
người phạm tội là ở chỗ đã cẩu thả, thiếu thận trọng khi xử sự.
Vậy, trong tình huống trên, T phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp.
Theo đề bài T không bị mắc bệnh gì nên T hoàn toàn có khả năng nhận thức
và khả năng điều khiển hành vi của mình. T biết hành vi của mình là trái pháp
luật, gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả sẽ xảy ra. Nhưng T
vẫn thực hiện hành vi đó. T có khả năng lựa chọn cách ứng xử khác nhưng
trong trường hợp này T đã lựa chọn con đường trái pháp luật.
Về mặt lí trí: T nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội. Việc rủ hai cháu M và N lên biên giới làm thuê, thực chất là lừa để bán,
biết trước được M và N sẽ bị đẩy vào con đường mại dâm, bị xâm hại đến thân
thể, ảnh hưởng đến sức khỏe của M và N. Biết đầy là hành vi phạt phát, nhưng
vẫn làm.
5 Khoản 2 Điều 10 BLHS
8
Về mặt ý trí: T mong muốn sự việc trên xảy ra, kết quả xảy ra hoàn toàn
phù hợp với mục đích của T.
4. Giả sử T mới 17 tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì hình phạt
nặng nhất mà T có thể phải chịu là bao nhiêu năm tù? (2 điểm)
Trả lời : Hình phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với T là không
vượt quá 18 năm tù
Khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS: “Hình phạt là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự
và do Toà án quyết định.”
Theo đề bài cho thì T mới 17 tuổi thì tòa án có thể áp dụng mức hình phạt
cao nhất tức là tù có thời hạn thuộc khoản 1 Điều 101 và khoản 1 Điều 103 kết
hợp Điều 55 quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Theo khoản 1 Điều 101 “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi
phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có
thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt
tù mà điều luật quy định.”
Kết hợp khoản 1 Điều 103 “ Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi
phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình
phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.Nếu hình phạt chung là cải
tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm.
Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi
phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội”.
Điều 55. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
9
Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình
phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:1. Đối với hình
phạt chính: “a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc
cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung;
hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không
giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn.”
Theo dữ kiện đề bài đã cho thì T đã phạm hai tội Tội mua bán người và tội
mua bán người dưới 16 tuổi . Hành vi phạm tội của T được quy định tại khoản 2
Điều 150 và khoản 2 Điều 151 BLHS : Theo quy định tại khoản 2 Điều 150 thì T
bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm, Theo quy định tại khoản 2 Điều 151 thì T bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm, Từ những phân tích bên trên ta có thể thấy được đối với
tội mua bán người thì T phải chịu mức phạt là không quá ¾ mức hình phạt quy định
tại khoản 2 Điều 173 tức là Tòa án có thể xử phạt T mức án cao nhất cho tội mua
bán người là ¾ * 15 năm tù = 11 năm 3 tháng tù. Đối với tội mua bán người dưới
16 tuổi thì T có thể bị Tòa án tuyên mức phạt nặng nhất là ¾ * 20 năm tù = 15 năm
tù. Tổng hợp 2 hình phạt trên thì T có thể bị Tòa án tuyên mức phạt cho T là 11
năm 3 tháng cộng 15 năm là 26 năm 3 tháng tù, mặt khác T mới 17 tuổi nên hình
phạt của T được quy định tại Điều 101 là không quá 18 năm tù, vì vậy T có thể bị
tòa án tuyên mức phạt tù cao nhất là không vượt quá 18 năm tù.
Kết luận : T phải chịu mức hình phạt cao nhất đối với tội phạm của mình là
không vượt quá 18 năm tù.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Bộ luật hình sự Việt Nam 2015, sửa đổi bổ sung 2017, Nxb Lao động, 2017
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, NXB.
CAND, Hà Nội, 2017
3
Viện khoa học pháp lí – Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam
năm 2015, NXB CTQG, Hà Nội, 2017
11
4
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS phần chung.
5
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLHS.
6. Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 đã được sửa đổi
PHỤ LỤC ẢNH
12
Hình ảnh minh họa của tài liệu tham khảo
Hình ảnh minh họa cho việc buôn bán
người
Hình ảnh Bộ luật Hình sự năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017
Hình ảnh công 2 nước Việt Nam
Trung quốc bàn giao người bị lừa
bán
13