Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Công tác xã hội nhóm với phụ nữ nghèo đơn thân tại huyện lương sơn, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.39 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU HOÀI

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỚI PHỤ NỮ NGHÈO
ĐƠN THÂN TẠI HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành : Công tác xã hội
Mã số: 8760101

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI THỊ MAI ĐÔNG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi – Bùi Thị Thu
Hoài, học viên cao học khóa 2016 - 2018, chuyên ngành Công tác xã hội, Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, dưới sự hướng dẫn của
TS. Bùi Thị Mai Đông, Học viện Phụ nữ.
Những kết luận trong luận văn này là trung thực, chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng Khoa học.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hoài




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN VÀ CÔNG
TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN .......................9
1.1. Tổng quan về phụ nữ nghèo đơn thân .............................................................9
1.2. Một số vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT ..................15
1.3. Luật pháp, chính sách đối với phụ nữ nghèo đơn thân và các mô hình hỗ trợ
phụ nữ nghèo đơn thân .........................................................................................30
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến các hoạt động của công tác xã hội nhóm đối
với phụ nữ nghèo đơn thân ...................................................................................32
Chương 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN ..............................................35
2.1.Tổng quan về địa bàn và khách thể nghiên cứu ..............................................35
2.2. Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân ................47
2.3. Đánh giá kết quả đạt được và những khó khăn, tồn tại trong Công tác xã hội
nhóm với phụ nữ nghèo đơn thân tại địa bàn khảo sát .........................................57
CHƯƠNG 3. ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN TẠI HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA
BÌNH VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ ..........................................................................62
3.1. Lý do sử dụng công tác xã hội nhóm với phụ nữ nghèo đơn thân tại huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình ....................................................................................62
3.2. Tiến trình công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân tại huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình ....................................................................................63
3.3. Khuyến nghị ...................................................................................................77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................81
PHỤ LỤC .................................................................................................................81



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHYT

Bảo hiểm y tế

CTXH

Công tác xã hội

CTXHN

Công tác xã hội nhóm

LHPN

Liên hiệp phụ nữ

NCT

Người cao tuổi

NĐPV

Người được phỏng vấn

NHCS

Ngân hàng chính sách


NPV

Người phỏng vấn

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

PNNĐT

Phụ nữ nghèo đơn thân

TN

Thanh niên

UBND

Ủy ban nhân dân

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Phụ nữ nghèo đơn thân trên địa bàn huyện Lương Sơn ..............................38
Bảng 2. Bảng tổng hợp các thông tin chung về phụ nữ nghèo đơn thân ..................39
Bảng 3. Các nhu cầu của phụ nữ nghèo đơn thân .....................................................46

Bảng 4. Trình độ của cán bộ, nhân viên làm công tác xã hội ...................................48
Bảng 5. Các tổ chức hỗ trợ phụ nữ nghèo đơn thân vay vốn ...................................53
Bảng 6. Số buổi sinh hoạt các tổ chức mà phụ nữ nghèo đơn thân tham gia ...........56
Bảng 7. Nội dung sinh hoạt nhóm mà phụ nữ nghèo đơn thân tham gia trên địa bàn
huyện Lương Sơn năm 2017 .....................................................................................57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo đói vẫn là tình trạng mang tính toàn cầu và đang là hiện tượng bức
xúc hiện nay, nó tồn tại ở mọi quốc gia, châu lục và không trừ một đất nước nào.
Bước sang thế kỷ XXI, kinh tế thế giới ngày càng phát triển tình trạng đói đã không
còn, tuy nhiên tình trạng nghèo vẫn còn tồn tại, cuộc sống nghèo khổ của một số bộ
phận người dân không theo kịp sự phát triển kinh tế của xã hội. Số hộ nghèo cũ thì
tái nghèo, hộ cận nghèo rơi vào nghèo dẫn tới tỷ lệ hộ nghèo tăng cao, đặc biệt là
phụ nữ nghèo đơn thân.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một
trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn đề công
bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa đói giảm
nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước. So với công cuộc cái cách và chuyển đổi từ kinh tế
kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở nước ta có
những đặc thù riêng. Vì vậy, nó đã mang lại những thay đổi sâu sắc về nhiều mặt trong
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của đất nước. Trong những năm qua Đảng và
Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên,
thực tế hiện nay số hộ nghèo vẫn còn nhiều, tình trạng tái nghèo thường xuyên diễn ra,
khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn rộng, chênh lệch giàu nghèo giữa các khu
vực, giữa các dân tộc còn cao, xuất phát từ nhiều nguyên nhân nghèo khác nhau, số hộ
phụ nữ nghèo cao, đặc biệt càng khó khăn hơn nữa khi họ là những phụ nữ nghèo đơn
thân… phụ nữ nghèo đơn thân không chỉ nghèo đơn thuần về về vật chất mà tinh thần

của họ cũng thiếu thốn, đa số họ mặc cảm tự ti về bản thân, ngại giao tiếp, đôi khi bị
cộng đồng kỳ thị. Họ chưa được phát huy hết khả năng của mình để cải thiện và nâng
cao chất lượng cuộc sống… Tất cả những điều đó đã và đang trở thành thách thức lớn
cho công tác giảm nghèo của Việt Nam nói chung và của từng địa phương nói riêng
trong những năm tới.
Với mong muốn tìm ra giải pháp giúp đỡ phụ nữ nghèo đơn thân thoát khỏi
đói nghèo, tự tin vươn lên trong cuộc sống thì công tác xã hội nhóm là giải pháp
hữu hiệu giúp họ nâng cao năng lực của bản thân để giải quyết vấn đề của mình gặp
phải. Tuy nhiên, trong bối cảnh nghề Công tác xã hội còn mới mẻ ở Việt Nam, vai

1


trò can thiệp, hỗ trợ của công tác xã hội đối với PNNĐT còn rất mờ nhạt, chủ yếu
thông qua sự trợ giúp của các ban ngành đoàn thể, chưa chuyên nghiệp và còn thiên
về các hoạt động từ thiện, cán bộ làm công tác công tác xã hội còn thiếu và hạn chế
về trình độ, yếu về năng lực, vì vậy hiệu quả trợ giúp không cao.
Lương Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Hòa Bình; tuy cách thủ đô Hà
Nội không xa, chưa đầy 40 km, vị trí địa lý rất thuận tiện cho việc đi lại, song theo
thống kê của phòng Lao động - Thươnng binh và Xã hội huyện, tính đến cuối năm
2017, toàn huyện có 1.517 hộ nghèo, trong đó phụ nữ nghèo đơn thân chiếm 84 hộ.
Đây là một nhóm yếu thế trong xã hội đang rất cần sự trợ giúp của xã hội bởi hằng
ngày họ đang đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức trong cuộc sống.
Để hỗ trợ phụ nữ nghèo đơn thân, cần tiến hành các đề tài nghiên cứu, khảo
sát, đánh giá một cách chính xác, khách quan những khó khăn và nhu cầu của nhóm
đối tượng này; đánh giá thực trạng công tác xã hội trong các hoạt động can thiệp, hỗ
trợ họ giải quyết các vấn đề trong cuộc sống; có như vậy mới tìm ra được các giải
pháp khả thi, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động công tác xã
hội trong lĩnh vực này.
Với những lí do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Công tác xã hội nhóm

với phụ nữ nghèo đơn thân tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Các nghiên cứu Bài viết “Gender, poverty and globalization in India” của
tác giả Pande R. (2007) đề cập đến mối liên quan giữa giới, nghèo đói và toàn cầu
hóa. Tác giả cho rằng tại Ấn Độ quá trình toàn cầu hóa đã gây ra sự bất bình đẳng
trong phân phối các nguồn lực theo địa vị, giới và dòng tộc. Phụ nữ nghèo ở khu
vực nông thôn và trong các khu vực phi chính thức bị ảnh hưởng nặng nề nhất do
các làn sóng chuyển đổi kinh tế gần đây. [23]
Bài viết “Gender earnings and poverty reduction: post - communist
Uzbekistan” của tác giả Bhat B.A (2011) đề cập đến vấn đề thu nhập theo giới và
xóa đói giảm nghèo. Trong bài viết này, tác giả chỉ ra rằng ở Uzbekistan, phụ nữ có
ít của cải, địa vị xã hội, quyền lực và cơ hội để tự khẳng định mình so với đàn ông
có cùng vị trí xã hội. Quá trình nữ hóa nghèo đói ở Trung Á và Uzbekistan liên

2


quan mật thiết với những hạn chế về văn hóa và thể chất. Chính điều này tạo ra bức
trần cản trở sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. [22]
Cũng đề cập đến vấn đề phụ nữ nghèo nhưng tác giả Allahdadi F. (2011)
trong bài viết “Towards rural women’s empowerment and poverty reduction in
Iran” lại cung cấp một cách tiếp cận về trao quyền cho phụ nữ nông thôn trong hoạt
động giảm nghèo tại Iran. Nghiên cứu này đã khẳng định đóng góp to lớn của phụ
nữ trong công cuộc XĐGN ở nhiều vùng nông thôn tại các nước đang phát triển.
Tác giả đã chỉ ra rằng, việc trao quyền cho phụ nữ nông thôn bị giới hạn bởi những
rào cản văn hóa, hạn chế họ tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế. Những đặc điểm
văn hóa đã gây ra những hạn chế rất nghiêm trọng đối với sự tự chủ, đi lại, và các
loại hình sinh kế sẵn có dành cho phụ nữ. [20]

2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tình trạng đói nghèo là một vấn đề xã hội. Ở mỗi Quốc gia khác nhau và ở
mỗi thời điểm lịch sử thì nghèo đói có biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tình trạng
nghèo đói luôn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên,
mỗi quốc gia có sự nghiên cứu, mức độ quan tâm và biện pháp riêng nhằm giải
quyết vấn đề nghèo đói. Những nghiên cứu đó được thể hiện trong: Báo cáo phát
triển Việt Nam (VDR) (2012); Nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, Lê
Xuân Bá (cùng tập thể tác giả) (2001)[1], “Nghèo – Báo cáo Phát Triển Việt Nam
2004”, “Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam” năm 2003.
Năm 2010 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố “Mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ 2010 – Việt Nam 2/3 chặng đường thực hiện các mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ, hướng tới năm 2015”. Báo cáo đã đánh giá những thành tựu
Việt Nam đạt được trong mục tiêu xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, thiếu đói. Báo
cáo cũng chỉ ra thách thức công cuộc xóa đói giảm nghèo thời gian tới.
Năm 2014, tác giả Bùi Thị Mai Đông - Học viện Phụ nữ Việt Nam đã thực
hiện đề tài nghiên cứu “Tâm trạng của phụ nữ đơn thân trong giai đoạn hiện nay”,
đề tài đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng tích cực và tiêu cực, từ đó đề
xuất giải pháp nhằm tăng cường các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng tích cực và hạn
chế các yếu tố dẫn đến tâm trạng tiêu cực, góp phần cải thiện đời sống tinh thần cho
phụ nữ đơn thân. Đề tài cũng nêu ra các chính sách xã hội dành cho phụ nữ làm mẹ
đơn thân còn rât ít và còn lồng ghép trong các chính sách khác như: Chính sách cho

3


vay vốn đối với hộ nghèo, chính sách miễn, giảm tiền học phí đói với học sinh con
gia đình nghèo... Chưa có chính sách riêng đối với phụ nữ đơn thân. Việc thực hiện
các chính sách này cũng còn bất cập, ảnh hưởng đến tâm trạng của những phụ nữ
làm mẹ đơn thân. Chẳng hạn: Bị xóa khỏi danh sách hộ nghèo mặc dù chưa hết
nghèo; khi ra khỏi danh sách hộ nghèo thì không được hưởng bất cứ chính sách nào

của phụ nữ đơn thân.[3,71]
Theo Báo cáo đề dẫn hội thảo “Công tác xã hội với phụ nữ và trẻ em: kinh
nghiệm của một số quốc gia”, tác giả Trần Quang Tiến – Giám đốc Học viện Phụ
nữ Việt Nam có nêu: “Tình trạng nghèo đói vẫn đang là vấn đề toàn cầu, trong đó
phần đông người nghèo là phụ nữ và trẻ em gái. Thống kê của Liên Hợp Quốc cho
thấy số lượng phụ nữ sống trong nghèo khổ không giảm đi mà tăng thêm nhiều do
suy thoái kinh tế, thiên tai, biến đổi khí hậu và chiến tranh ở một số nước khu vực
Trung Đông. Ở Việt Nam, tình trạng nghèo đói đã có sự cải thiện đáng kể nhờ nỗ
lực của Chính phủ, các tổ chức quốc tế và trong nước thông qua triển khai các
chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất. Mặc dù vậy, phụ nữ,
nhất là phụ nữ đơn thân vẫn có tỷ lệ nghèo đói cao hơn” .[11]
Cũng nghiên cứu ở khía cạnh chuyên nghiệp hóa các dịch vụ CTXH nhưng
tác giả Hà Thị Thư (2016) lại nghiên cứu trên nhóm đối tượng yếu thế. Bài viết “Sự
chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm đối tượng yếu thế” của
tác giả một lần nữa khẳng định nhu cầu dịch vụ CTXH ở Việt Nam ngày càng cao.
Tác giả cũng đã phân tích vai trò của dịch vụ CTXH với nhóm đối tượng yếu thế và
chỉ ra hai khía cạnh của sự chuyên nghiệp là “con người chuyên nghiệp” và “môi
trường chuyên nghiệp” [17].
Phát biểu tại diễn đàn “Bình đẳng giới giảm nghèo bền vững”, Chủ nhiệm
Ủy ban Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai ngoài việc điểm lại những thành tích, nỗ
lực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo cũng như bình đẳng giới cũng đã cho rằng:
“Phụ nữ thường phải gánh chịu ảnh hưởng của nghèo đói nhiều hơn nam giới và
chính họ là những người nghèo nhất trong số những người nghèo” [9].
Một số nghiên cứu khác như “Nghiên cứu các mô hình giảm nghèo của các
đối tác Quốc tế ở Việt Nam”. Nghiên cứu về “Thực trạng hoạt động hỗ trợ việc làm
cho phụ nữ nghèo tại Yên Bái – tiếp cận theo hướng nâng cao năng lực”. Các tác
giả: Nguyễn Trung Hải, Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Giang, Nguyễn Tuấn Anh, Võ

4



Thị Cẩm Ly có “ Từ những nghiên cứu về phụ nữ đơn thân đến một số vấn đề đặt ra
trong nghiên cứu sinh kế của phụ nữ làm mẹ đơn thân”[ 5].
Những công trình nghiên cứu về vấn đề nghèo đói và phụ nữ đơn thân ở Việt
Nam nêu trên là nền tảng và tiến đề cho tác giả trong việc nghiên cứu về “Công tác
xã hội nhóm với phụ nữ nghèo đơn thân tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phụ nữ nghèo đơn thân và
công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân, đề tài tiến hành khảo sát thực
trạng công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân trên địa bàn huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình nhằm đưa ra một số khuyến nghị góp phần nâng cao
hiệu quả các hoạt động CTXH nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân ở huyện Lương
Sơn nói riêng, ở Việt Nam hiện nay nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phụ nữ nghèo đơn thân và CTXH nhóm
đối với phụ nữ nghèo đơn thân; Làm rõ các lý thuyết ứng dụng trong CTXH nhóm
với phụ nữ nghèo đơn thân và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động can thiệp nhóm
đối với phụ nữ nghèo đơn thân.
- Khảo sát, phân tích thực trạng công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo
đơn thân trên địa bàn huyện Lương Sơn. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc
trợ giúp phụ nữ nghèo đơn thân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ
nghèo đơn thân.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn
thân trên các nhóm khách thể sau:
- Phụ nữ nghèo đơn thân

- Nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp (cán bộ Lao động – Thương binh
& xã hội) và bán chuyên nghiệp (cán bộ các đoàn thể)
- Lãnh đạo đảng, chính quyền, các ban ngành

5


- Người dân địa phương (bao gồm cả nam và nữ)
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn huyện Lương sơn, tỉnh Hòa Bình.
- Về thời gian: Đề tài thực hiện từ tháng 12/2017 đến tháng 02/2018. Các số
liệu khảo sát được thu thập trong các văn bản, tài liệu, báo cáo của địa phương trong
3 năm trở lại đây (2015- 2016- 2017).
- Về đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng những khó
khăn, nhu cầu của phụ nữ nghèo đơn thân, đi sâu nghiên cứu các hoạt động công tác
xã hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân và những yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình trợ giúp nhóm đối tượng này.
- Về khách thể nghiên cứu: Số lượng khách thể là phụ nữ nghèo đơn thân tham gia
khảo sát được giới hạn tại xã NhuậnTrạch và thị trấn Lương Sơn, huyện Lương Sơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực tế về phụ nữ
nghèo đơn thân, nhu cầu của phụ nữ nghèo đơn thân trên cơ sở thực tiễn để đúc rút
lý luận và những đề xuất thực tiễn, hoạch định chính sách.
Nghiên cứu vấn đề trong hệ thống: hệ thống lý thuyết liên quan trực tiếp, các yếu tố
liên quan: Dịch vụ trợ giúp, hệ thống chính sách, khả năng của phụ nữ nghèo đơn thân …
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu
Tác giả sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu,
tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những

thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu như: danh sách hộ nghèo, hộ
phụ nữ nghèo đơn thân của huyện Lương Sơn, các báo cáo tổng kết, đánh giá
chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo hằng năm,...
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Tác giả thiết kế bảng hỏi gồm 22 câu hỏi dùng để hỏi 84 phụ nữ nghèo đơn
thân trên địa bàn huyện Lương Sơn để tìm hiểu những thông tin cơ bản về khách thể
nghiên cứu, về đời sống vật chất và tinh thần, những khó khăn, nhu cầu, nguyện
vọng và các hoạt động công tác xã hội nhóm trong hỗ trợ phụ nữ nghèo đơn thân tại
huyện Lương Sơn.

6


- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Trong nghiên cứu này, tác
giả tiến hành phỏng vấn sâu 06 phụ nữ nghèo đơn thân và 6 cán bộ lãnh đạo chính
quyền, các ban ngành đoàn thể ở địa bàn khảo sát (01 cán bộ LĐ – TB&XH xã; 01
chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ xã, 01 cán bộ y tế xã, 01 cán bộ mặt trận tổ quốc xã,
02 trưởng thôn) nhằm tìm hiểu sâu về những khó khăn, nhu cầu của PNNĐT, tìm
hiểu thực trạng các hoạt động công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT... để rút ra những kết
luận cần thiết.
- Phương pháp thảo luận nhóm:
Tác giả tổ chức 2 nhóm thảo luận, mỗi nhóm 06 phụ nữ nghèo đơn thân
nhằm thu thập thông tin về những nhu cầu, khó khăn, nguyện vọng của PNNĐT;
thông tin về các chính sách xã hội và sự trợ giúp của cộng đồng đối với họ.
-

Phương pháp quan sát:
Tác giả quan sát PNNĐT khi họ ở nhà, đi làm nhằm thu thập thêm thông tin,


làm rõ và chính xác hơn những thông tin đã thu thập được bằng bảng hỏi và qua
các cuộc phỏng vấn sâu.
-

Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
Tác giả đã vận dụng phương pháp công tác xã hội nhóm để hỗ trợ một nhóm

PNNĐT gồm 6 chị tại 01 xã, 01 thị trấn; Thông qua các buổi làm việc nhóm, sự
tương tác giữa các thành viên trong nhớm sẽ giúp PNNĐT thay đổi nhận thức, thái
độ, hành vi; nâng cao năng lực, tự giải quyết các vấn đề mà họ đang gặp phải.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu góp phần bổ sung
và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về CTXH nhóm nói chung, CTXH nhóm đối
với PNNĐT nói riêng, như: khái niệm, mục đích của CTXH đối với PNNĐT, tiến
trình CTXH nhóm với PNNĐT; vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH nhóm đối
với PNNĐT. Thông qua nghiên cứu này, có thể nhìn nhận về CTXH nhóm đối với
PNNĐT từ góc độ khoa học, mô tả, đánh giá vấn đề bằng những lý thuyết khoa học
liên quan ngành CTXH. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu có thể là nguồn tư liệu tham
khảo cho nghiên cứu về sau trong lĩnh vực này.

7


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu thực trạng CTXH nhóm đối với PNNĐT từ thực tiễn
huyện Lương Sơn, đặc biệt, kết quả thử nghiệm ứng dụng phương pháp CTXH
nhóm đối với PNNĐT đã góp phần khẳng định CTXH nhóm đối với PNNĐT là
hoạt động mang tính chuyên nghiệp, đòi hỏi NVCTXH phải có những kiến thức
nhất định về nhóm, về PNNĐT; có các kỹ năng làm việc nhóm mới có thể giúp họ

giải quyết các vấn đề của bản thân để vươn lên trong cuộc sống .
Những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của CTXH nhóm đối với
PNNĐT mà đề tài đề xuất trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn từ huyện
Lương Sơn là những gợi ý để lãnh đạo huyện, xã, cán bộ làm công tác xã hội nâng
cao tính chuyên nghiệp nghề CTXH trong các hoạt động trợ giúp PNNĐT.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phụ nữ nghèo đơn thân và công tác xã
hội nhóm đối với phụ nữ nghèo đơn thân.
Chương 2. Kết quả nghiên cứu thực trạng công tác xã hội nhóm đối với phụ
nữ nghèo đơn thân
Chương 3. Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm đối với phụ nữ
nghèo đơn thân tại huyện Lương Sơn và khuyến nghị

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN VÀ CÔNG TÁC
XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN
1.1. Tổng quan về phụ nữ nghèo đơn thân
1.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm phụ nữ:
Theo Bách khoa toàn thư: Phụ nữ hay đàn bà là từ chỉ giống cái của loài
người. Phụ nữ thường được dùng để chỉ một người trưởng thành, còn con gái thường
được dùng chỉ đến trẻ gái nhỏ hay mới lớn. Bên cạnh đó từ phụ nữ, đôi khi dùng để
chỉ đến một con người giống cái, bất kể tuổi tác, như là trong nhóm từ "quyền phụ
nữ". Phụ nữ có phát triển gene bình thường có khả năng sinh đẻ từ khi dậy thì cho tới
khi mãn kinh. Liên quan đến vấn đề giới tính, một phụ nữ có thể là một người có giới

tính trùng hợp với bản dạng giới, hoặc có các đặc điểm giới tính mà không phải là
nam cũng không phải là nữ (người lưỡng tính).
Phụ nữ là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay toàn
bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm giới tính
được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và
chức năng giới tính hoạt động bình thường.
Phụ nữ/nữ giới là từ dùng để phân biệt với đàn ông/nam giới, là một trong hai
giới tính truyền thống, cơ bản và đặc trưng của loài người. Nhìn theo khía cạnh sinh
học, nữ giới chỉ những người thuộc giống cái, với bộ nhiễm sắc thể giới tính XX.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với "phụ nữ", đều chỉ một
nhóm đối tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao hơn. Một số từ tiêu
biểu hay gặp là đàn bà, phụ nữ, con gái...
Trong đề tài này, phụ nữ là khái niệm dùng để chỉ một, một nhóm hay tất cả
nữ giới đã trưởng thành hoặc được cho là đã trưởng thành về mặt xã hội.
- Khái niệm phụ nữ nghèo:
Theo Tuyên bố Liên Hợp Quốc tháng 6/2008: Nghèo là sự phủ nhận quyền lựa
chọn và cơ hội, là sự vi phạm nhân phẩm con người; Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu
để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không đủ ăn, đủ

9


mặc, không được đi học, không được khám bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc
không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo
cũng có nghĩa là không an toàn, dễ bị bạo hành, không có quyền, bị loại trừ, phải sống
ngoài lề xã hội hoặc dễ gặp rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và vệ sinh.
Vì có nhiều khía cạnh được đề cập trong khái niệm nghèo nên tùy theo góc quan
sát cũng như quan điểm của mỗi tổ chức, cá nhân nghiên cứu nghèo mà có cách tiếp cận
khác nhau nhưng nhìn chung các khái niệm về nghèo đều phản ánh ba khía cạnh chủ yếu
của người nghèo đó là: có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân

cư, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người và
thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Như vậy, nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo không chỉ là việc
thiếu hụt về thu nhập mà còn là sự thiếu thốn hay không được thỏa mãn các nhu cầu
cơ bản của con người.
Từ hai khái niệm: phụ nữ và nghèo trình bày ở trên, ta có thể hiểu: “Phụ nữ
nghèo là những phụ nữ có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng
dân cư, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
người và thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”.
- Phụ nữ đơn thân:
Trong bài viết: “Cuộc sống của những người phụ nữ đơn thân giữa xã hội Việt
Nam hiện đại” tác giả Phạm Thị Thu, khoa Tiếng việt, trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội có viết: “Phụ nữ đơn thân là phụ nữ thiếu
vắng chồng hoặc có chồng nhưng không sống chung cùng chồng” [15,508],. Cũng
theo tác giả: Phụ nữ đơn thân có 2 dạng: Những người phụ nữ đã lập gia đình gồm cả
phụ nữ góa chồng, ly dị hay ly thân, những người phụ nữ có chồng đi xa vắng từ 3
đến 10 năm không tin tức, họ sống cùng gia đình, con cháu, một số ít không sống
cùng gia đình đặc biệt khi về già. Còn lại những phụ nữ chưa lập gia đình không lấy
chồng, đã nhiều tuổi, họ không lấy chồng vì những nguyên do khác nhau: có người
không chồng nhưng có con ngoài giá thú, thường họ sống với con hoặc cha mẹ đẻ.
Những người phụ nữ không chồng không con thì sống với anh chị em ruột, hoặc cha
mẹ của mình. Số người sống độc thân đơn côi rất ít” [15,508].

10


Trong cuốn sách “Single women in Viet Nam” – “Cuộc sống của những người
phụ nữ đơn thân ở Việt Nam”, tác giả Lê Thi đã đưa ra một định nghĩa khá cụ thể về
phụ nữ đơn thân: “Họ là những phụ nữ chưa kết hôn hoặc đã từng kết hôn nhưng vợ
chồng họ sống xa cách với nhiều lý do khác nhau”. Bà cũng chia phụ nữ đơn thân

thành hai nhóm chính: Phụ nữ đã kết hôn bao gồm những người phụ nữ rơi vào tình
trạng góa bụa, ly hôn, ly thân hoặc thiếu vắng chồng trong một thời gian dài. Phụ nữ
chưa kết hôn gồm những người phụ nữ chưa từng lấy chồng và sẽ không bao giờ lấy
chồng, kể cả họ đang sống độc thân hay đã từng sinh con hoặc nhận con nuôi [13].
Trong đề tài này, phụ nữ đơn thân bao gồm cả hai dạng nói trên: Phụ nữ đã
kết hôn nhưng đã ly hôn hoặc chồng chết, hoặc chồng không sống cùng trong một
thời gian dài và phụ nữ chưa từng kết hôn nhưng không muốn/không thể kết hôn,
trong đó có cả những phụ nữ có con và không có con.
- Phụ nữ nghèo đơn thân:
Khái niệm phụ nữ nghèo đơn thân trong đề tài này là những phụ nữ mang hai
đặc tính: nghèo và đơn thân. Đó là những phụ nữ không có chồng hoặc chồng chết,
hoặc bỏ chồng, không sống chung với chồng; có mức sống thấp hơn mức sống trung
bình của cộng đồng dân cư, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối
thiểu dành cho con người và thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển
của cộng đồng”.
Nói về phụ nữ nghèo đơn thân, trong luận văn thạc sĩ “Công tác xã hội cá
nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Nghĩa Thái, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An”, tác
giả Vũ Thị Phương Hảo có mô tả:“Phụ nữ nghèo đơn thân là những người nghèo có
học vấn thấp, nuôi con một mình, có hoặc không có việc làm ổn định, gặp rất nhiều
khó khăn trong cuộc sống và sinh hoạt”. Tác giả cũng bình luận: “Đa số phụ nữ
nghèo đơn thân là những người lao động chân tay, làm nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và có chuyên môn thấp. Họ là những người ít có cơ hội tiếp cận với khoa học
công nghệ, tín dụng và đào tạo, nếu có được tiếp xúc thì e dè, xấu hổ, mặc cảm, tự ti.
Ngoài ra, phụ nữ nghèo đơn thân còn gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống gia đình,
nhất là khi quyết định công việc một cách đơn lẻ. Ngoài xã hội họ là người mặc cảm,
tự ti, dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi, họ có ít cơ hội thăng tiến mặc dù công
việc với mức độ và cường độ ngang nam giới và bị trả lương thấp” [4,18].

11



Các nghiên cứu về phụ nữ nghèo đơn thân mà đề tài đã tổng quan đều cho
thấy cuộc sống của phụ nữ nghèo đơn thân gặp rất nhiều khó khăn về vật chất, tinh
thần, họ mải mê với vòng quay “cơm, áo, gạo, tiền” nên không có thời gian chăm lo
cho bản thân mình, ít có thời gian quan tâm đến con cái cũng như những hệ lụy của
xã hội, càng ít cơ hội được tiếp cận với khoa học công nghệ để vươn lên nên khả
năng thăng tiến là rất thấp. Cuộc sống của phụ nữ nghèo đơn thân khó có niềm vui
trọn vẹn vì điều kiện cuộc sống gia đình và những cách ứng xử, đối xử trong gia đình,
cộng đồng, làng xóm đối với họ đều ảnh hưởng đến tâm trạng, tình cảm nói riêng, đời
sống tinh thần của các chị nói chung.
1.1.2. Đặc điểm phụ nữ nghèo đơn thân
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý
Những phụ nữ khi bước chân lên con đường làm mẹ đơn thân dù là tự nguyện
hay bắt buộc, thì cũng đều trải qua những đấu tranh về mặt tâm lý, họ phải lựa chọn giữa
nên và không nên, họ phải chuẩn bị chu đáo về mặt tài chính cũng như những kiến thức
để trở thành một bà mẹ hoàn hảo trong cả hai vai trò: Cha và Mẹ, khó khăn hơn nữa khi
họ đã là phụ nữ đơn thân mà còn mang trên vái mình gánh nặng là hộ nghèo.
So với các bà mẹ bình thường, mẹ nghèo đơn thân có nhiều vấn đề về sức
khỏe và tâm lý hơn. Họ dễ bị kiệt sức, suy giảm trí nhớ, stress, họ không có kiến thức
về việc chăm sóc sức khỏe cho bản thân nên hậu quả thì khó lường .
Họ không có kiến thức về làm ăn kinh tế, nuôi dạy con cái, nghề nghiệp chủ
yếu là làm nông nghiệp, thu nhập bấp bênh, phụ thuộc vào thời tiết, thiên tai,... Rồi
những vấn đề về tài chính đè lên vai, khi con ốm đau mà không ai phụ giúp,... Tất cả
những điều đó khiến cho tâm lý của người mẹ trở nên nặng nề, cáu gắt, lo âu, và dễ
mất bình tĩnh, từ sự bất ổn đó sẽ dẫn đến những hành động và lời nói thiếu sáng suốt,
ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.
Bởi vì đặc điểm xã hội và hoàn cảnh nêu trên nên một số phụ nữ nghèo làm
chủ hộ cũng có những đặc điểm tâm lý giống với phụ nữ nghèo nói chung như buông
xuôi, cam chịu số phận, thiếu nghị lực và cố gắng cần thiết để vươn lên. Một số khác
có tâm lý ngại tham gia vào các hoạt động tập thể, không mạnh dạn và rụt rè, tự ti

mặc cảm, nên thường ít tiếp xúc với mọi người xung quanh. Nếu phải tham gia thì họ
cũng rất e ngại khi phải trình bày ý kiến, quan điểm của mình.

12


Việc chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ của chị em phụ nữ nghèo đơn thân hầu
như là rất ít, họ chủ động giải quyết công việc theo ý kiến của mình hoặc là buông
xuôi, mặc cho sự việc muốn ra sao thì tùy. Có số ít tìm kiếm sự giúp đỡ của cá nhân
nhưng hầu như cũng k tìm được lời giải thích rõ ràng, bởi người mà họ tìm kiếm cũng
thuộc hoàn cảnh như họ và họ không đưa ra được lời khuyên cũng như chính kiến
giành cho người khác.
Bên cạnh tâm lý tự ti, mặc cảm thì một số hộ phụ nữ nghèo đơn thân cũng có
tâm lý cam chịu, buông xuôi, thiếu nghị lực và cố gắng cần thiết để vươn lên. Họ lại
thường xuyên phải đối mặt với các rủi ro, do vậy họ luôn tìm cách né tránh với những
vấn đề mang tính rủi ro cao.
1.1.2.2. Đặc điểm thể chất
Nhà danh y lớn của Việt Nam thế kỷ 18 - Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
đã viết trong cuốn sách:"Nội kim yếu” đã chỉ rằng: "Thể chất và tinh thần luôn luôn
khang kiện, mà tận hưởng hết tuổi thọ, ngoài trăm tuổi mới có thể chết". Tư tưởng đó
của ông thể hiện cách xem xét sức khoẻ của con người trong mối quan hệ hữu cơ
giữa thể chất và tinh thần. Cơ thể khoẻ mạnh thì tinh thần mạnh mẽ. Cả thể chất và
tinh thần khoẻ mạnh thì tuổi thọ của con người cũng sẽ dài lâu. Phụ nữ nghèo đơn
thân có hoàn cảnh éo le, tâm trạng mang nhiều yếu tố tiêu cực, lại khó khăn về kinh
tế, nhà cửa tạm bợ, không có thu nhập hoặc thu nhập thấp, nhiều người phải bươn trải
kiếm sống từng ngày, ít có điều kiện được khám chữa bệnh nên đa số họ có sức khỏe
yếu; nhiều người mắc các bệnh mãn tính[25].
Trong Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài: “Tâm trạng của phụ nữ
làm mẹ đơn thân trong giai đoạn hiện nay” của Tiến sĩ Bùi Thị Mai Đông, có nêu:
“Không chỉ là những khó khăn về vật chất và tinh thần, những người mẹ đơn thân

còn gặp không ít khó khăn trong vấn đề sức khỏe. Hầu hết các bà mẹ đơn thân hiện
nay trên thế giới đều gặp vấn đề về sức khoẻ, từ những bệnh nhỏ nhặt, vặt vãnh nhất
đến những bện nan y khó chữa. Có trăm ngàn lý do dẫn đến những khó khăn này,
nhưng ở các nước hiện đại, phụ nữ làm mẹ đơn thân chịu ảnh hưởng nhiều của tâm lý
mà gây nên bệnh. Khi không có một gia đình hoàn hảo, họ phải “gồng” mình để gánh
vác gia đình, chăm lo cho con cái như một người đàn ông trụ cột, nhưng họ cũng phải

13


mềm mỏng, dịu dàng như một người mẹ; bên cạnh đó là những áp lực về công việc
và tài chính. Chính vì thế, các bà mẹ đơn thân phải chịu sức “nặng” tâm lý gấp ba bốn
lần người bình thường”. [3,27].
-

Các mối quan hệ xã hội
Do tâm lý mặc cảm, tự ti nên phụ nữ nghèo đơn thân ngại tiếp xúc, giao tiếp

với bên ngoài. Đa số là giao tiếp với người thân trong gia đình hoặc một vài người
bạn thân quen từ trước Họ ít đi đây đó để gặp gỡ bạn bè, giao lưu, ít tham gia các
hoạt động tập thể như hội họp, giao lưu...chính vì vậy mà các mối quan hệ của họ
cũng rất hạn chế.. Mặt khác, do ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến, phụ nữ
nghèo, đơn thân không được xã hội, cộng đồng coi trọng; một số địa phương còn có
những định kiến với phụ nữ bỏ chồng hoặc bị chồng bỏ, phụ nữ không lấy chồng mà
có con...vì thế tiếng nói của những phụ nữ này ít có trọng lượng do ít được lắng
nghe....Tất cả những điều này đã làm giảm cơ hội được quan tâm, chia sẻ, được hỗ
trợ, giúp đỡ từ những người khác của phụ nữ nghèo đơn thân.
Nói tóm lại, ngoài những đặc điểm cá nhân, phụ nữ nghèo đơn thân có một số
nét tiêu biểu, đặc trưng cho tình trạng nghèo, đơn thân của họ, đó là tâm lý mặc cảm,
tự ty, cam chịu, rất khó khăn về kinh tế; việc làm không ổn định, thu nhập bấp

bênh;,... Họ rất cần được sự hỗ trợ từ phía cộng đồng, xã hội để thoát nghèo.
1.1.3. Những khó khăn và nhu cầu cơ bản của phụ nữ nghèo đơn thân
1.1.3.1. Những khó khăn của phụ nữ nghèo đơn thân
- Khó khăn về việc làm, thu nhập: Đa số PNNĐT thất nghiệp hoặc không có
nghề nghiệp ổn định, chủ yếu là thu nhập thấp, lao động bằng chân tay. Nhiều người
làm thuê, không công việc ổn định, làm nghề thủ công, mây tre đan, thu nhập hàng
tháng thấp, bấp bênh, không đủ trang trải cho sinh hoạt hằng ngày.
- Khó khăn về nơi ở: Hầu hết PNNĐT có nhà cửa tạm bợ, hoặc có nhà nhưng
vật liệu chính thường lâu đời, cũ kỹ, tường không được chắc chắn và mái dột.
- Khó khăn về sức khỏe thể chất, tinh thần: PNNĐT thường có sức khỏe yếu, ít
được chăm sóc sức khỏe y tế, bởi vậy có nhiều bệnh mãn tính. Sức khỏe tinh thần bị
ảnh hưởng từ những khó khăn do hoàn cảnh bản thân, thường mặc cảm, tự ti, xấu hổ
về bản thân. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử của cộng đồng: xã hội luôn coi thường
những người không có chồng, không chồng mà chửa, chửa hoang,... nên làm cho
PNNĐT luôn có tâm lý mặc cảm tự ty, tội lỗi.

14


- Thiếu thốn tình cảm: PNNĐT thường sống một mình hoặc sống cùng cha mẹ,
con cái, tuy nhiên họ thiếu một chỗ dựa vững chắc là bờ vai của người chồng, họ
không có ai để tâm sự, chia sẻ niềm vui nỗi buồn cũng như những gánh nặng trong
cuộc đời mà họ gặp phải.
- Khó khăn trong tham gia các hoạt động xã hội: PNNĐT ít có điều kiện tham
gia các hoạt động xã hội, bên cạnh đó, do mặc cảm, sống khép mình nên họ ngại giao
tiếp, không mạnh dạn và ít tham gia vào các hoạt động tập thể và nếu có tham gia thì
họ cũng tham lấy lệ và không có ý kiên riêng của mình.
1.1.3.2. Nhu cầu cơ bản của phụ nữ nghèo đơn thân
Đặc trưng của phụ nữ nghèo đơn thân là khó khăn về kinh tế, việc làm không
ổn định, thu nhập bấp bênh, vì vậy, nhu cầu cơ bản nhất của họ là được hỗ trợ để có

công ăn việc làm; được vay vốn sản xuất, kinh doanh, mang lại thu nhập ổn định để
lo cho con cái, để cải thiện cuộc sống vật chất; ngoài ra nhu cầu được động viên, chia
sẻ về tinh thần, tâm lý; giúp họ vượt qua sự mặc cảm, tự ti, hòa đồng cùng bà con
làng xóm để được cảm thông, tôn trọng, sau đó mới đến các nhu cầu khác như chăm
sóc sức khỏe, giáo dục con cái...Hơn ai hết, PNNĐT luôn muốn hòa nhập cộng đồng,
không bị tách rời cộng đồng, muốn tham gia các hoạt động xã hội như những người
phụ nữ khác.
1.2. Một số vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm nhóm
Theo quan điểm giải thích cổ điển, “Một nhóm được định nghĩa như là hai hay
nhiều người có tương tác với một người khác theo cách mỗi một người đều gây ảnh
hưởng và chịu ảnh hưởng của mỗi người khác” (Từ điển xã hội học, tr.299).
Theo các nhà xã hội học: “Nhóm xã hội là một tập hợp của những cá nhân
được gắn kết với nhau bởi những mục đích nhất định. Những cá nhân có những hoạt
động chung với nhau trên cơ sở cùng chia sẻ và giúp đỡ nhau nhằm đạt được những
mục đích cho mọi thành viên” (Từ điển Xã hội học phương Tây hiện đại, 1990).
1.2.1.2. Khái niệm Công tác xã hội
Công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn ứng dụng trong
hệ thống an sinh xã hội; được hình thành và phát triển ở nhiều quốc gia từ gần một

15


thế kỷ nay. Tùy thuộc vào thời gian, không gian văn hóa, mỗi quốc gia có những định
nghĩa khác nhau về CTXH.
Theo Hiệp hội nhân viên CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế
(2011): “Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới
mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền,
giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng

các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự
tương tác của con người với môi trường sống” [ 19,4].
CTXH là một nghề thúc đẩy xã hội thay đổi, bằng cách giải quyết vấn đề trong
mối quan hệ giữa người với người, thúc đẩy trao quyền và giải phóng con người.
Mục đích cuối cùng của CTXH là đảm bảo hạnh phúc cho mọi người. Người làm
CTXH sử dụng lý thuyết hành vi con người và các hệ thống xã hội để can thiệp vào
những thời điểm khi con người tương tác với môi trường sống của mình. [19,2].
Theo từ điển Bách khoa ngành CTXH: “Công tác xã hội là một ngành khoa
học xã hội ứng dụng nhằm giúp con người thực hiện chức năng tâm lý xã hội của
mình có hiệu quả và tạo ra những thay đổi trong xã hội để đem lại sự an sinh cao nhất
cho con người”, là “Một nghệ thuật, một khoa học, một nghề giúp người dân giải
quyết vấn đề từ cấp độ cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng”.
Trong đề tài này, tác giả sử dụng khái niệm Công tác xã hội của tác giả Bùi
Thị Xuân Mai: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ
giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng
cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn
lực và dịch vụ nhằm giúp cánhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa
các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội”. [8,63].
CTXH được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm vào vô số các
tương tác phức hợp giữa con người và môi trường của họ. Sứ mạng của CTXH là tạo
ra năng lực giúp con người phát triển tối đa tiềm năng, làm phong phú đời sống và
ngăn ngừa các trục trặc. CTXH chuyên nghiệp tập trung vào quá trình giải quyết các
vấn đề và sự thay đổi. Do đó, NVCTXH là tác nhân đổi mới trong xã hội và đời sống

16


các cá nhân, gia đình, cộng đồng. CTXH là một hệ thống liên kết các giá trị, lý thuyết
và thực hành.
Có thể nói, CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự

thay đổi và phát triển xã hội. Bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề xã hội,
vào quá trình tăng cường năng lực, giải phóng tiềm năng ở mỗi cá nhân, nhóm, cộng
đồng, CTXH giúp con người phát triển hài hòa, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con
người. Mục tiêu cơ bản của CTXH không chỉ nhằm vào việc trợ giúp những người
cần được giúp đỡ mà là vì lợi ích, sự ổn định và tiến bộ của toàn xã hội.
1.2.1.3 Khái niệm công tác xã hội nhóm
Trong công tác xã hội, có nhiều định nghĩa về công tác xã hội nhóm:
Theo Từ điển CTXH của Barker (1995), CTXH nhóm là: “Một định hướng và
phương pháp can thiệp CTXH, trong đó các thành viên chia sẻ những mối quan tâm
và những vấn đề chung họp mặt thường xuyên và tham gia vào các hoạt động đưa ra
nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể. Đối lập với trị liệu tâm lý nhóm, CTXH nhóm
không chỉ là trị liệu những vấn đề tâm lý, tình cảm, mà còn là trao đổi thông tin, phát
triển kỹ năng xã hội, lao động, thay đổi các định hướng giá trị và làm chuyển biến các
hành vi chống lại xã hội thành các nguồn lực hiệu quả. Các kỹ thuật can thiệp đều
được đưa vào quá trình CTXH nhóm nhưng không hạn chế kiểm soát những trao đổi
về trị liệu”. [21,85].
Như vậy có thể thấy sự khác biệt rõ nét trong trị liệu tâm lý nhóm và CTXH
nhóm ở những hoạt động mang tính chất chuyên sâu hơn và thường được các nhà tâm
lý học, tâm thần học sử dụng trong quá trình hỗ trợ, trị liệu những thân chủ có bị tổn
thương sức khỏe tâm thần và rối nhiễu tâm lý nghiêm trọng[21].
Tác giả Toseland và Rivas (1998) cho rằng có nhiều cách tiếp cận với CTXH
nhóm và mỗi cách có điểm mạnh và ứng dụng thực hành cụ thể. Họ đưa ra định nghĩa
bao quát được bản chất của CTXH nhóm, tổng hợp các điểm riêng biệt của các cách
tiếp cận CTXH nhóm: “Công tác xã hội nhóm là hoạt động có mục đích với các
nhóm nhiệm vụ và trị liệu nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm xã hội và hoàn
thành nhiệm vụ. Hoạt động này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong
nhóm và tới toàn thể nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ”. [24,12].

17



Tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2008) cho rằng: CTXH nhóm là một phương
pháp can thiệp chính của CTXH; là một tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên
trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhau, chia
sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào các hoạt động nhóm
nhằm đạt được mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết những mục đích
của cá nhân thành viên giải tỏa những vấn đề khó khăn. Trong hoạt động CTXH
nhóm, một nhóm thân chủ được thành lập, sinh hoạt thường kỳ dưới sự điều phối
người trưởng nhóm (có thể là nhân viên xã hội, có thể là thành viên của nhóm) và đặc
biệt là sự trợ giúp, điều phối của nhân viên xã hội (trong trường hợp trưởng nhóm là
thành viên của nhóm). [7,28-29].
Luận văn này sử dụng khái niệm Công tác xã hội nhóm của tác giả Hà Thị
Thư (2012): “Công tác xã hội nhóm là một phương pháp của công tác xã hội nhằm
trợ giúp các thành viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường hoạt động tương
tác, chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung khi tham gia vào các hoạt
động nhóm để đạt tới mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết những mục
đích của cá nhân thành viên”. [16,61-62].
Nhóm trong CTXH bao gồm những thành viên có cùng hoàn cảnh khó khăn
nhất định, có chung vấn đề và nhu cầu cần được giải quyết, đáp ứng như nhóm phụ
nữ bị bạo hành, nhóm phụ nữ bị buôn bán; nhóm người có HIV/AIDS, nhóm trẻ em
lang thang hay nhóm trẻ bị nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, Vì thế CTXH viên
liên kết họ lại với nhau vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Một
trong những yếu tố quan trọng của CTXH nhóm đó chính là nơi sinh hoạt nhóm. Ở
nơi này, các hoạt động nhóm được thực hiện giúp cho các thành viên nhóm được thỏa
mãn nhu cầu cá nhân của mình. Thông qua môi trường sinh hoạt nhóm, các thành
viên nhóm được đáp ứng nhu cầu giao tiếp nhóm. Nhiệm vụ của CTXH viên trong
CTXH nhóm là tạo môi trường thuận lợi cho các thành viên nhóm có cơ hội được thể
hiện tối đa tiềm năng phát triển năng lực, được bộc lộ cảm xúc và diễn tả cảm nghĩ,
suy tư của mình. Giúp họ thay đổi thái độ, hành vi, cảm xúc của chính mình và hiểu
được người khác. Giúp họ tăng cường sự gắn bó, chấp nhận nhau, tạo sự tương tác

giữa các thành viên, không khí thoải mái để thực hiện mục đích nhóm đặt ra. Để thực

18


hiện được nhiệm vụ của mình trong hoạt động CTXH nhóm thì CTXH viên cần phải
có các kỹ năng cơ bản của CTXH nhóm đó là kỹ năng tổ chức giao tiếp nhóm, kỹ
năng thúc đẩy tiến trình nhóm và kỹ năng điều phối nhóm[16,62-63].
Trong CTXH nhóm, hoạt động nhóm là nơi thỏa mãn nhu cầu của cá nhân;
Đối tượng tác động là mối quan hệ tương tác trong nhóm; nhóm tăng cường khả năng
tự giải quyết vấn đề; anh hưởng của nhóm giúp thay đổi hành vi, thái độ của cá nhân;
nhóm là môi trường bộc lộ; các yếu tố cần quan tâm trong CTXH nhóm: Xác định
đối tượng; nơi sinh hoạt, bối cảnh sinh hoạt; nhu cầu cần được đáp ứng; mục tiêu cần
đạt được; giá trị (sinh hoạt nhóm dựa trên quan điểm gì?); Lý thuyết (sử dụng lý
thuyết nào?); Phương cách thực hành.
Trong công tác xã hội có 2 loại nhóm lớn: Nhóm nhiệm vụ và nhóm can thiệp:
- Nhóm nhiệm vụ hay còn gọi là nhóm hành động là loại hình nhóm rất phổ biến
giành cho nhân viên CTXH tại địa phương, đó có thể là các ban ngành đoàn thể, cán
bộ bán chuyên trách, cán bộ hội, trưởng thôn,... thông qua loại nhóm này tìm ra giải
pháp cho các vấn đề mà đối tượng yếu thế đang gặp phải. Loại hình nhóm này có ba
dạng: Nhóm đáp ứng nhu cầu của thân chủ; nhóm đáp ứng nhu cầu của tổ chức và
nhóm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng.
- Nhóm can thiệp là là nhóm có các hoạt động hỗ trợ /trị liệu trực tiếp đối với
thân chủ yếu thế hoặc các nhóm có nhu cầu hoàn thiện bản thân. Nhóm can thiệp lại
được chia thành 5 loại nhóm là:
+ Nhóm giáo dục: Nhằm trang bị cho PNNĐT kiến thức về các lĩnh vực mà họ
quan tâm như tuyên truyền về biện pháp phòng tránh thai, chăm sóc sức khỏe sinh
sản, cách nuôi dạy con cái, kiến thức về mây tre đan, kiến thức về chăn nuôi gà thả
vườn…, góp phần nâng cao nhận thức, đặc biệt là các kỹ năng tự bảo vệ, chăm sóc
bản thân, nâng cao sức khỏe của thân chủ.

+ Nhóm trị liệu: Nhằm giúp cho PNNĐT trong nhóm giải tỏa cảm xúc tiêu cực,
vượt qua khủng hoảng, tổn thương tâm lý, từ đó ổn định tâm lý, có suy nghĩ, nhận
thức và hành vi tích cực.

19


+ Nhóm phát triển: Nhằm cung cấp cơ hội và môi trường để cho các thành viên
nhận thức mở mang và thay đổi suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của mình và những
người khác.
+ Nhóm tự giúp: Tạo cơ hội cho thân chủ đỡ nhau bằng cách cho vay tiền, giúp
đỡ nhau bằng ngày công cụ thể như cỏ lúa, làm vườn, dỡ khoai, hỗ trợ nhau con
giống,… tạo cơ hội để chị em tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn
trong cuộc sống. Cùng hoàn cảnh và đồng cảm giúp chị em gần gũi, cảm thông, chia
sẻ với nhau nhiều hơn, hiệu quả trợ giúp cao hơn.
+ Nhóm giải trí: với nhóm giải trí này thân chủ có cơ hội được vui chơi, giải tỏa
sự căng thẳng về tâm lý bằng các hoạt động cụ thể như liên hoan văn nghệ, các chị
được tham gia ca hát, ăn bánh kẹo,… Giúp cho thân chủ có cơ hội được giao lưu,
quan tâm chia sẻ và giúp đời sống tinh thần phong phú hơn.
1.2.1.4. Khái niệm công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT
Từ việc phân tích các khái niệm công cụ nghiên cứu của đề tài đã trình bày ở
trên, trong luận văn này, tác giả đưa ra khái niệm công cụ công tác xã hội nhóm đối
với PNNĐT như sau: “Công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT là phương pháp của
công tác xã hội nhằm trợ giúp những PNNĐT trong nhóm được tạo cơ hội và môi
trường hoạt động tương tác, chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung
khi tham gia vào các hoạt động của nhóm để đạt tới mục tiêu chung của nhóm và
hướng đến giải quyết những mục tiêu của cá nhân thành viên, giải tỏa những vấn đề
khó khăn về tâm lý, đáp ứng nhu cầu cần trợ giúp trong đời sống của PNNĐT”.
1.2.2. Mục đích, chức năng, nhiệm vụ của công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT
1.2.2.1. Mục đích của công tác xã hội nhóm đối với PNNĐT

Mục đích của CTXH nhóm đối với PNNĐT: Tạo điều kiện thuận lợi cho
PNNĐT là thành viên nhóm có môi trường tương tác với các thành viên khác trong
nhóm, cùng nhau chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, động viên về tâm lý, tinh thần, tương
trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, đặc biệt những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống.
Cùng nhau chia sẻ những mối quan tâm, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm nuôi dạy con
cái, chăm sóc sức khỏe, đặc biệt những kiến thức về làm ăn, phát triển kinh tế, hướng

20


×