TỰ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CÂU 1: Đồng chí hãy phân tích: Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM, làm rõ mối quan hệ giữa các nguồn gốc
đó và khẳng định nhân tố có vai trò quan trọng nhất.
(Truyền thống dân tộc - Tinh hoa văn hóa nhân loại - Chủ nghĩa Mác-Lênin - Chủ quan của Hồ Chí Minh).
Bài làm
Chủ tịch HCM - vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, điều đó đã được dân tộc VN và cả nhân loại ngày nay thừa
nhận. Với thiên tài trí tuệ của mình, với lòng yêu nước nồng nàn và thương dân sâu sắc, Bác - từ một con người giản dị bình thường
đã trở thành nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận thiên tài của cách mạng VN. Người là sự kết tinh những giá trị tinh hoa nhất của văn
hóa dân tộc và của nhân loại, là bước phát triển mới của CN Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của VN. Tư tưởng ấy có giá trị vô cùng
to lớn, định hướng cho CM VN trong hơn nữa thế kỷ qua, góp phần thúc đẩy tiến trình văn minh, tiến bộ của nhân loại. Hiện nay tư
tưởng HCM đang tiếp tục soi đường cho CM nước ta trong sự nghiệp đổi mới, cương lĩnh của Đảng ta năm 1991 đã xác định:” Đảng
lấy CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết
sâu sắc thực tiễn lịch sử Đảng ta và CM VN từ khi có Đảng lớn Hội nghị TW 6 (lần 2) khóa 8 khi bàn về quyết định những nhiệm vụ
cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, một lần nữa khẳng định quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng là:” Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Tư tưởng HCM là sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo CN Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, là lý luận chiến lược CM d.tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH, là khoa học về quy luật phát triển xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, kinh tế chưa phát triển, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân VN trong thời đại mới.
Hay có thể nói đó là một hệ thống những luận điểm về cách mạng VN từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người, xây dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, góp phần vào CM thế giới.
Tư tưởng HCM hình thành và phát triển từ trong quá trình Người tham gia các hoạt động tìm đường cứu nước, từ
những kinh nghiệm phong phú được tích lũy qua quá trình hoạt động phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và thực
tiễn lãnh đạo CM VN, tư tưởng của người được hình thành không tách rời những nguồn gốc xã hội lúc bấy giờ.
Hồ chủ tịch là người kế thừa xuất sắc những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Đó là truyền thống kiên cường bất khuất, nhân nghĩa, yêu chuộng tự do hòa bình, đoàn kết cộng đồng
d.tộc. Bác là người tiếp thu, nhận thức rất sớm và sâu sắc những truyền thống tốt đẹp đó. Trong cảnh nước mất, nhà tan,
nhân dân lầm than dưới hai tầng áp bức bóc lột chính là nguồn động lực hun đúc cho Bác hình thành nguồn gốc tư tưởng
đầu tiên của Người, nguồn gốc đó là toàn bộ tinh hoa văn hóa VN được kết tinh qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, nổi bật nhất là chủ nghĩa yêu nước VN.
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử và cả thế giới ngày nay thừa nhận, sống
trên một mảnh đất không rộng người không đông, mảnh đất của bao thời kỳ giặc ngoại xâm qua lại, nhiều kẻ thù mạnh
hơn gấp bội, qua các thời kỳ giặc ngoại xâm phương Bắc: từ Triệu, Đnh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập… đã đánh bại
các triều đại Tần, Hán, Đòng, Nguyên, Minh, Thanh, sản sinh ra các anh hùng hào kiệt từ hai bà Trưng, Lý Thường Kiệt,
Lê Lợi, Quang Trung. Từ thời kỳ Pháp xâm lược với chính sách người dân, hòng xóa tên VN trên bản đồ thế giới cũng
không khuất phục được nhân dân ta. Nhiều sĩ phu yêu nước đã tập hợp lực lượng chống lại thực dân Pháp, khởi nghĩa nổ
ra khắp nơi như Ba Đình, Bãi Sậy, phong trào Đông kinh nghĩa thục với các tên tuổi của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu trình…khởi nghĩa. Ở Thái Nguyên, Yên Bái. Chủ nghĩa y6eu nước, truyền thống đoàn
kết, ý chí tự lực, tự cường đã thúc giục những con người ưu tú, trong đó có Nguyễn Tất Thành, quyết ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Đó cũng là tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ và hành động của HCM trong suốt cuộc đời. Người
nói:” Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
Nói về Chủ nghĩa Mác LêNin, HCM khẳng định:” đó là vũ khí tư tưởng không gì thay thế được, nó là cẩm nang, là
mặt trời soi sáng ta đi tới CNXH, CNCS” với phép biện chứng duy vật đã giúp Bác có được tư duy và phương pháp luận
đúng đắn, nhờ đó Bác đã thành công trong trong quá trình hoạt động CM, gần mười năm bôn ba qua nhiều châu lục, khảo
sát thực tiễn qua nhiều nước Tư bản và thuộc địa, Bác đã sớm nhận thức được xu hướng của thời đại, từ một người yêu
nước, từ nhận thức hết sức nhạy bén, sáng tạo và trí tuệ sáng suốt Bác đã gặp CN Mác-Lênin như một cuộc hẹn hò từ
trước” Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đã soi sáng và tạo ra những bước ngoặt phát triển tư tưởng
của HCM, từ yêu nước chưa có định hướng chuyển sang lập trường của CN M-Lê nin và Người đã rút ra kết luận :
”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Đó là cuộc
CM dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc phong kiến và
tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm CM XHCN, xây dựng CNXH và CNCS
Ở VN. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp CN yêu nước và CN quốc tế của giai cấp
công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội và giải phóng con người.
Đối với tông giáo, Bác hiểu rất sâu sắc, vận dụng rất sáng tạo của Nho giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác như việc
liên hệ đạo đức người CM với đạo tam tài, trời, đất. Bác nói:” Ông Mác có phép DVBC, ông Khổng có đức trí dũng con
người, Đức chúa Giêsu có lòng nhân ái, Đức phật Thích ca có lòng từ bi bác ái, Tôn Dật Tiên có chủ nghĩa tam dân. Nếu
các vị ấy còn sống thì chắc họ sẽ sống hoàn mỹ với nhau, bởi vì các vị đó có một điểm chung là muốn giải phóng con
người, giải phóng nhân loại, tôi nguyện làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Những giá trị tốt đẹp ấy đã trở thành nguồn gốc rất quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách, tư tưởng HCM
trong cuộc đời và sự nghiệp đã làm cho nhiều người nể phục. Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, hoạt động Ở nước
ngoài 30 năm, qua nhiều quốc gia châu lục hành trang của Người là chủ nghĩa yêu nước và văn hóa VN. Năm 1923, tại
đại hội quốc tế V tại Liên Xô, một nhà thơ Liên Xô đã từng nhận xét:” Từ Nguyễn ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không
phải là văn hóa Châu âu mà có lẽ là văn hóa tương lai”, lời tiên đoán đó sau 67 năm đã trở thành hiện thực vào năm 1990
khi UNESCO công nhận HCM “ vị anh hùng giải phóng dân tộc của VN và là một nhà VH lớn”.
Từ bản lĩnh, phẩm chất, tính cách của HCM cho ta thấy, ngay từ thuở nhỏ Bác đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tính
nhân ái và sớm có ý thức Y.nước, cứu nước, tự tin vào mình, Bác coi trọng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưng không tán thành
con đường đi của các bậc tiền bối ấy. Ở con người Bác có linh khiếu chính trị cộng với nghị lực phi thường nên Bác đã rất thành công
trong lãnh đạo CM. Với hai bàn tay Bác đã quyết tâm xa quê đi tìm đường cứu nước mà lòng quặn đau nỗi nhớ:” Đất nước đẹp vô
cùng nhưng Bác phải ra đi”. Nhờ vào sức lực trí tuệ, vượt mọi gian khó mà Bác đã chiến thắng tất cả, ta thử tưởng tượng trong hoàn
cảnh hiện nay, lớp trẻ phải làm gì để học tập người thanh niên ấy. Sống trong lòng CNTB, thực dân, với khả năng, tư chất thông minh,
Bác không màng, không tưởng tới bất cứ một điều gì cho mình, một mình đến với CN M-Lê nin, tự ghiền nghiền ngẫm, so sánh, đối
chiếu với thực tiễn để chọn đó làm lý tưởng cho bản thân, cho d.tộc, bác quả là một người vĩ đại- một con người mà:
Giàu sang không thể quyến rũ.
Nghĩa khí không thể chuyển lay.
Uy lực không thể khuất phục.
Kể cả khi trở thành người đứng đầu Đảng và nhà nước Bác vẫn là con người hết sức dung dị, bình thản nhưng rất vĩ đại. Nhân dân
ta gọi người là Bác, cả đời người là của nước non. Cơ sở nội tại, nhân tố chủ quan trong con người HCM là một trong những cơ sở
hình thành tư tưởng của Bác.
Như vậy, qua phân tích tư tưởng HCM, cùng với nguồn gốc nội tại, có 3 nguồn gốc cơ bản đó là: CN Mác-Lênin, chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong các nguồn gốc hình thành nên tư tưởng HCM, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy Người tự giác đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin, còn CN Mác-Lê nin đã nâng CN yêu nước lên một bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới.
CN Mác-Lê nin là nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng HCM.
Tinh hoa văn hóa nhân loại đã giúp cho HCM hiểu sâu sắc hơn CN Mác-Lê nin, làm phong phú bản sắc tư tưởng của Người, do
kết hợp được dân tộc với thời đại, phương Đông với phương Tây và nâng tầm văn hóa chính trị của Người ngang tầm với thời đại. Tư
duy HCM hình thành là sự tổng hợp, chắt lọc tư duy độc lập qua trí tuệ và nhân cách lớn của Người. Trên cơ sở một bản lĩnh chính trị
kiên định và cốt cách văn hóa độc đáo của Người. Đó là kết quả tổng hợp quá trình đấu tranh lâu dài trong thực tiễn, hiểm nguy, gian
khó qua nhiều châu lục, một quá trình học tập, tích lũy kinh nghiệm sống và chiến đấu của Người.
Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM đã quy định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng đó. Tư tưởng HCM là kết quả của sự
vận dụng sáng tạo CN Mác-Lê nin trong điều kiên cụ thể của nước ta. Tư tưởng HCM là tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng,
toàn dân tộc ta đã đang và sẽ biến thành sức mạnh vật chất soi đường chỉ lối cho dân tộc ta đi tiếp chặng đường đổi mới, xây dựng
CNXH.
Tính khoa học sáng tạo của HCM đã được lịch sử đấu tranh CM 70 năm qua kiểm chứng, trải qua bao khúc quanh của
lịch sử dân tộc và những biến cố khắc nghiệt của d.tộc, thời đại, tư tưởng của Bác vẫn luôn cùng con cháu thời đại HCM
vững bước đi tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, tư tưởng đó là niềm tự hào của mọi thế hệ
VN. Dưới ánh sáng của CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM, toàn Đảng, toàn dân ta càng vững tin vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng. Mỗi CB, đảng viên và người dân VN cần phải ra sức học tập, rèn luyện tu dưỡng
theo tư tưởng của Người góp phần xây dựng một nước VN độc lập, thống nhất bền vững trong thời đại ngày nay, tư tưởng
HCM vẫn sống mãi với non sông VN.
Câu 1a: Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài Làm
ĐH Đảng lần IX khẳng định : “tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng VN, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thưà và phát
triển các giá trị truyển thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” và “tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”
Nghị quyết 09 Bộ Chính trị (khoá VII) viết:”Chủ tịch HCM đã sớm nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học,
tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với hoàn cảnh thực
tế nước ta; đồng thời Người đã kế thừa phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống thống đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại.
Tư tưởng HCM được hình thành từ những nguồn gốc đó “
Tư tưởng HCM là sự kế thừa và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN mà đỉnh cao là chủ
nghĩa yêu nước
Truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự cường là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bản giá trị văn hóa tinh thần VN.
Mọi học thuyết đạo đức tôn giáo du nhập vào VN đều được tiếp nhận, khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
Tại ĐH II (1951) của Đảng, Chủ tịch HCM nói:”dân ta có một lòng nồn nàng yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước.”
Các dân tộc đều có lòng yêu nước. Song truyền thống yêu nước VN có những nét đặc sắc : một là tinh thần độc lập
tự chủ, anh dũng bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới ở vào hoàn
cảnh lịch sử phải đấu tranh trường kỳ như thế, gay go quyết liệt như thế để chống ngoại xâm, để bảo vệ độc lập tự do bản
sắc và phẩm giá dân tộc như dân tộc VN. Hai là giàu tính cộng đồng, tính nhân dân, tính nhân bản trong tư tưởng tình
cảm yêu nước VN ngay thời phong kiến nước chủ yếu không phải là Vua mà trước hết là dân là đồng bào, là phẩm giá
dân tộc và phẩm giá con người. Ba là do hai dặc tính trên tư tưởng yêu nước truyền thống VN có xu hướng gắn với tiến
bộ XH. Tư tưởng yêu nước VN chưa đựng khát vọng về tự do công bằng bình đẳng XH của nhân dân. Các vị anh hùng
dân tộc đều có đường lối ít nhiều đáp ứng khát vọng ấy. Nhân dân VN yêu nước mình nhưng không ít kỷ hẹp hòi dân tộc
mà tôn trọng các dân tộc khác khoan dung và quý trọng tình hoà hiếu.
Dân tộc VN có truyền thống đoàn kết nhân ái tinh thần tộng đồng lá lành đùm lá rách trong hoạn nạn khó khăn.
Dân tộc VN có truyền thống lạc quan yêu đời trong muôn nguy ngàn khó ngươi LĐ vẫn độ viên nhau “chớ thấy sóng cã
mà ngả tay chèo” và tiếng cười vẫn không ngớt vang lên trong cuộc sống. Dân tộc VN cần cù thông minh sáng tạo trong
SX và chiến đấu đồng thời cũng là dân tộc ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhân tinh hoa VH nhân loại. Người VN từ
xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi thủ cựu thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giử vững bản sắc dân tộc nhân dân ta đã
biết chọn lọc, tiếp thu cải biến những cái hay, cái tốt cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình.
Tư tưởng HCM là sự kết tinh trọn vẹn sinh động của những giá trị truyền thống cao quý đó. Chủ nghĩa yêu nước VN là nguồn
gốc sâu xa của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ tuổi thanh niên HCM đã là một trong những người con yêu nước ưu tú nhất tiêu biểu nhất
của dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với người lúc đó là cứu nước giải phóng dân tộc cứu đồng bào bị đọa đày đau khổ. Người
coi đấy là lẽ sống thiêng liêng nhất, Người nói :”tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy
là tất cả những đều tôi hiểu”. Đối với Người tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không nhằm tự do cho đồng bào, độc lập cho tổ
quốc . Cả cuộc đời Người”chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành “. HCM lúc thiếu thời rất khâm phục tinh thần yêu nước
xã thân vì nước của các sĩ phu văn thân, các chiến sĩ như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
Nhưng Người không tán thành đường lới cứu nước của các vị. Tư tưởng yêu nước của HCM thời trẻ, ngay khi chưa gặp CNXH, đã
thể hiện có tầm vượt trước những quan niệm cứu nước đương thời. Bởi đó là một tư tưởng yêu nước sáng suốt có tính phê phán
không bảo thủ. Nó hướng tới việc tìm con đường thật sự CM và KH dẫn đến mục tiêu triệt để giải phóng dân tộc. Đó là tư tưởng yêu
nước mang đậm tính nhân dân, tính nhân bản. Cứu nước trước hết là cứu hàng triệu “đồng bào bị đoạ đày” , những “người cùng
khổ”. trong quan niệm về mục tiêu cứu nước của HCM (khi chưa là người Mác xít) nước độc lập phải đi đôi với quyền tự do ấm no
hạnh phúc. Rõ ràng mục tiêu ấy không thể tìm thấy ở con đường cứu nước trên ập trường phong kiến và cả trân lập trường TS hay
tiểu TS. Ở tuổi 13 cũng như một số nhà yêu nước đương thời HCM đã sớm bị hấp dẫn bởi khẩu hiệu”tự do bình đẳng bác ái”. Song
khác các vị ấy HCM muốn tìm hiểu đến tận nơi “ cái gì ẩn đằng sau” những từ đẹp đẽ ấy không chỉ trên lý thuyết mà ngay trên thực
tế. Với một hoài bảo và lòng yêu nước như thế làm hành trang HCM ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy là chủ nghiõa yêu nước
truyền thống đang đòi hỏi điược đổi mới là tiền để tư tưởng đưa HCM đến một cách tự nhiên với chủ nghĩa Mác Lênin, đáp ứng yêu
cầu bức xúc của lịch sử lúc đó là phải xác định một đường lối cứu nước đúng đắn. Tư tưởng yêu nước HCM phản ánh yêu cầu giải
phóng bức xúc của dân tộc VN và các dân tộc thuộc địa nói chung.
Tư tưởng HCM là sự tiếp thu và phát triển tinh hoa của VH nhân loại (VH Đông tây)
Tư tưởng càng vĩ đại khi nguồn gốc của nó càng sâu xa, cơ sở của nó càng rộng lớn. Tư tưởng HCM không chỉ kết
tinh những giá trị dân tộc mà còn bắt nguồn từ tinh hoa VH nhân loại cả phương Đông và phương Tây mà Người đã thâu
thái được. HCM xuất thân trong một gia đình khoa bản, từ nhỏ đã được hấp thu một nền Nho học vững vàng. Vì vậy
không có gì lạ khi thấy trong tác phẩm của mình Người sử dụng khá nhiều mệnh đề của Nho giáonhưng đã đem lại cho nó
một ý nghĩa mới. HCM cũng đã chỉ ra những hạn chế lớn của Nho giáo như phân chia đẳng cấp,c oi thường phụ nữ, khinh
LĐ chân tay… HCM căn bản không dùng học thuyết Khổng tử để cải tạo XH song Người nói :”Tuy Khổng tử là phong
kiến và tuy trong học thuyết của Khổng tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”
Người cho rằng để kế thừa những cái hay trong tư tưởng các bậc tiền bối cần theo phương pháp Lênin . Người nói :”Chỉ
có những người CM chân chính mới thu thái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại. Lênin dạy chúng ta
như vậy” Tù tuổi thiếu niên, HCM đã tiếp cận những yếu tố VH phương Tây qua trường học Pháp Việt. Trong cuộc đời
hoạt động CM của mình Chủ tịch HCM đã sống 30 năm ở nước ngoài mà chủ yếu là ở Châu âu nên Người cũng chịu ảnh
hưởng rất sâu rộng của nền VH dân chủ CM phương Tây. Người đã từng sống và làm việc ở thủ đô của các nước TB phát
triển nhất như Mỹ, Anh và nhất là Pháp… Tại quê hương của tự do bình đẳng bác ái, Nguyễn Aùi Quốc đã tiếp xúc trực
tiếp với các tác phẩm cũa các nhà triết học Khai sáng như Vonte, Rútxô, Môngtéckiơ… những lýù luận gia của CM Pháp
Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng VH phương Tây cũng như đối với những giá trị phương đông vơí tinh
thần phê phán Người đã trực tiếp thấy rõ ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông dương, những thống khổ không
sao kể siết của đồng bào mình, đã tận mắt trong thấy tội ác dã man của bọn thực dân ở tất cả các nước thuộc địa mà
Người đi qua, trực tiếp chứng kiến những bất công phổ biến ngay ở những nước “văn minh”. Qua thực tế HCM đã sớm
phát hiện ra mặt trái của nền văn minh phương Tây. Song điều đó không ngăn cản Người tiếp thu kế thừa những giá trị tốt
đẹp của văn minh phương Tây
Tư tưởng HCM là sự vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
Trên cơ sở những nhân tố tư tưởng nói trên đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Aí Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác Lênin. Tư tưởng HCM là kết quả sự gặp gở giữa chủ nghĩa yêu nước VN và chủ nghĩa Mác Lênin. Việc Nguyễn Aùi
Quốc đến với chủ nghĩa Mác Lênin, tìm thấy ở chủ nghĩa Mác Lênin “cái cần thiết” và “ con đường” giải phóng dân tộc
VN, “ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi tới giải phóng” là bước quyết định trong quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng yêu nước ở Nguyễn Aí Quốc có bước nhảy vọt về
chất-tư tưởng của Nguyễn Aùi Quốc trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch HCM luôn nhấn mạnh rằng : yêu nước
anh dũng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc không phải phẩm chất riêng có ở những người công sản mà là vốn có ở
hàng triệu người trong Đảng cũng như ngoài Đảng. Song chỉ có Đảng của giai cấp CN được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác
Lênin mới có đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước
hiện đại trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa XH KH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Được tư tưởng KH của giai cấp CN quốc tế soi sáng phong trào gải phòng dân tộc VN đã tìm ra đường lối cứu nước đúng
đắn. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính lý luận Mác Lênin đã cung cấp
cho HCM thế giới quan và phương pháp luận DVBC để tổng kết kiến thức tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn tìm
ra con đường cứu nước đúng đưa Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời, khắc phục căn
bản khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Theo Lênin một người “chỉ xứng đáng với danh hiệu nhà tư tưởng khi
nào họ đi trước phong trào tự phát chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải quyết, trước những người khác, tất cả các vấn đề
lý luận CT sách lược và các vấn đề tổ chức mà “những yếu tố vật chất” của phong trào hút phải một cách tự phát” HCM
là một nhân vật kiệt xuất trong những con người như thế.
Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy HCM đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Còn chủ nghĩa
Mác Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở HCM lên bươ81c phát triển về chất phù hợp với thời đại mới.
Người nói “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo
quốc tế thứ 3. Từng bước một trong cuộc đấu tranh vửa nghiên cứu lý luận Mác Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần
tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người LĐ trên thế giới khỏi
ách nô lệ” Như vậy tư tưởng HCM là thuộc hệ tư tưởng Mác Lênin. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng HCM cùng nằm
trong các phạm trù cơ bản của lý luận Mác Lênin . Tuy nhiên tư tưởng HCM không phải chỉ là sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện VN mà còn là sự phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác Lênin ở thời
dại các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do.
Cuối cùng phải nói đến những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của HCM là nhân tố rất quan
trọng để hình thành và phát triển tư tưởng HCM
Đó tà tư chất bản lĩnh trí tuệ, tâm hồn, phong cáh đặc biệt được tôi luyện trong hoạt động thực tiễn lâu dài. Đó là tư
duy độc lập tự chủ sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường sáng sốt trong việc nghiên cứu tìm hiểu phong trào thế
giới đặc biệt là các cuộc CM TS rút ra những kết luận cần thiết để vận dụng vào điều kiện nước ta. Đó là khổ công học
tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc ,
phong trào công nhân quốc tế đễ có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin KH về CM của giai cấp vô sản quốc tế và đó là
tâm hồn của một chiến sĩ nhiệt thành CM một trái tim yêu nước thương dân vô bờ bến sẳn sàng chịu đựng hy sinh cao
nhât vì độc lập của tổ quốc vì tự do hạnh phúc của đồng bào. Chính thông qua phẩm chất trí tuệ và năng lực đặc biệt đó
mà truyền thống vẽ vang của dân tộc cùng với các giá trị kim cổ đông tây được hấp thụ chắc lọc thành một sản phẩm đặc
biệt-tư tưởng Hồ Chí Minh..
Tóm lại trong các nguồn gốc nói trên chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy Người tự giác đến
với chủ nghĩa Mác Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước lên một bước phát triển mới về chất phù
hợp với thời đại mới. Chủ nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tinh hoa văn
hóa nhân loại đã giúp HCM hiểu sâu chủ nghĩa Mác Lênin, làm phong phú bản sắc tư tưởng của Người do kết hợp được
dân tộc với thời đại, VH phương Đông và phương Tây và nâng tầm VH CT của Người ngang tầm thời đại…Sự hình thành
tư tưởng HCM không phải là số cộng giản đơn ba bộ phận đó. Ở đây diễn ra một quá trình tổng hợp chắc lọc qua tư duy
độc lập, qua trí tuệ và nhân cách lớn của HCM trên cơ sở một bản lĩnh CT kiên định và cốt cách VH độc đáo của Người .
Đó cũng là kết quả tổng hợp của cả quá trình lăn lộn đấu tranh lâu dài trong thực tiễn gian khổ hiểm nguy ở hầu khắp các
châu lục; là một quá trình tự rèn luyện tự học tập tích lũy kiến thức, kinh nghiệm sống và chiến đấu của Người.
Câu 2 : Làm rõ những sáng tạo của HCM trong tư tưởng G.phóng dân tộc.
Nguồn gốc của tư tưởng (lý luận, thực tiễn); từng nội dung, so sánh với các tư tưởng khác, với chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng của quốc tế cộng sản để thấy rõ sáng tạo trong tư tưởng HCM; ý nghĩa p.pháp luận.
TRẢ LỜI :
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là hạt nhân cốt lõi, là tư tưởng trung tâm, xuyên suốt toàn bộ học thuyết
tư tưởng HCM.
Tư tưởng yêu nước “không có gì quí hơn độc lập tự do” luôn luôn đứng ở hàng đầu trong bản giá trị tinh
thần VN, nhưng trước Nguyễn Ái Quốc, HCM nó vẫn dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Điểm khác
biệt giữa HCM và các lãnh tụ yêu nước tiền bối là ở chỗ người đã gặp được thời đại ta đã tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc trong quĩ đạo cuộc CM vô sản. Vì vậy ngay từ khi bắt gặp luận cương của Lê nin hình thành
đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, ở HCM đã có sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH.
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc:
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ 20, tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc ở HCM khẳng định
trong một luận đề nổi tiếng: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phóng chỉ có thể sự nghiệp của CNCS và cuộc cách mạng thế giới”
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc là thực hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc và giai cấp,
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Nội dung của thực thể này được HCM xây
dựng thành một hệ thống luận điểm dưới đây.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản : thất bại của
các phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là do chưa có đường lối đúng, khi chủ nghĩa đế quốc trở
thành hệ thống thế giới, Nguyễn Ái Quốc ví chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa 2 vòi”, một vòi bám vào chính quốc,
một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc cùng một lúc cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là phải
thực hiện cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở
thuộc địa như là một trong những cái cứu cánh cách mạng vô sản, cùng tiến bước với cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo . Nguyễn Ái
Quốc khẳng định: muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có Đảng Cách mệnh … Đảng
có vững thì cách mạng mới thành công … Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ .nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông do Đảng
cộng sản lãnh đạo. cách mạng giải phóng dân tộc1theo Nguyễn Ái Quốc là việc chung ca dân chúng chứ không
phải việc của một hai người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sỉ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó không được quên cái cốt của nó là công nông và do Đảng lãnh đạo.
Phải nhớ: “công nông là chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh, nhưng phải có Đảng cộng sản lãnh đạo
thì mới đoàn kết được và CM mới thành công.
Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế một thời gian dài đã tồn tại một quan điểm xem thắng lợi của CM thuộc địa
phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình chung đã làm giảm tính
năng động sáng tạo của các phong trào CM ở thuộc địa.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc do đánh giá đúng đắn sức
mạnh của chủ nghĩa y.nước và tinh thần D.tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rằng CM
thuộc địa không những không phụ thuộc và CM vô sản ở chính quốc mà có thể và cần phải tiến hành trước và
bằng thắng lợi của mình, nó có thể giup đở những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào
khủng hoảng tàng lý luận Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được th.hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của
quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân. Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 8 tháng 5-1941dưới
sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra quyết định: cuộc CM Đông Dương kết liễu bằng mọi cuộc khở nghĩa
vũ trang mở đầu có thể là khở nghĩa từng phần trong từng địa phương … mà mở đường cho cuộc tổng khở nghĩa
to lớn. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang người đã về nước chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn
luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang chủ động đón thời
cơ, chóp thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa tháng 8 giành thắng lợi trong cả nước.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và từ những kết luận
rút ra qua khảo sát, nghiên cứu phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở một số nước thuộc địa như: Aán Độ,
HCM chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường CM bạo lực. Năm 1947, nhân dịp kỷ niệm
ngày thành lập G.phóng quân VN. Người khẳng định: D.tộc VN nhất định phải được giải phóng. Muốn G.phóng
thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có LL lượng thì
phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm”
Trong quá trình lãnh đạo CM nhờ biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của dân tộc,
vận dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tiếp thu tinh hoa lý luận và kinh nghiệm
quân sự của thế giới. HCM đã đẻ ra và hoàn chỉnh dần lý luận về bạo lực CM ở VN.
Theo HCM, bạo lực CM ở VN là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân sự, hai lực lượng là lực
lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. CM bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để
chống lại bạo lực phản CM, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền dưới hình thức đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang.
Khẳng định G.phóng D.tộc phải bằng con đường CM bạo lực. Song, HCM luôn luôn chủ động, tích cực đưa ra
giải Pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển CM. Thực tiễn CM VN đã chứng minh tư tưởng này của
HCM.
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư tưởng HCM. Với tư
tưởng này HCM chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự do, thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn
vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới.
Với những đóng góp đó HCM đã được nhân dân tôn vinh là nhà G.phóng D.tộc và nhà văn hóa lớn.
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc – HCM đã vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê nin về CM thuộc
địa thành một hệ thống luận điểm mới, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp tiến
hành CM G.phóng D.tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng minh hùng hồn tính khoa học
đ.đắn, tính CM s.tạo của tư tưởng HCM
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn nổi bật trong hệ thống tư tưởng HCM. Với tư
tưởng này HCM chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự do, thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn
vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Với những đóng góp đó HCM đã được
nhân loại tôn vinh là anh hùng G.phóng D.tộc và nhà văn hóa lớn.
Câu 2b : Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong tư tưởng về Cách mạng giải phóng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần qúi báu của Đảng và dân tộc. Tư tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc
những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta. Trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người thì cách mạng giải phóng dân tộc là một trong những vấn
đề cớ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở điều này đã thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh mà dưới đây chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Người đã mắt thấy tai nghe những nỗi khổ cực nhọc nhằn
của một dân tộc mất nước, cảm nhận được sự tàn ác dã man của bọn thực dân đế quốc : “Lịch sử việc người Âu xâm
chiếm Châu Phi cũng như bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc điạ nào thì từ đầu đến cuối đều được viết bằng máu những
người bản xứ “. Yêu nước thương dân, sau bao năm : “Lênh đênh bốn bể một con tàu” Người đã tìm ra con đường cưu
nước cứu dân : “ Muốn cưú nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Chỉ
có con đường này mới giải phóng được hai mặt cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫm giữa hội Việt Nam
Đế Quốc Tay Sai và mâu thuẫn nhân dân với điạ chủ phong kiến muốn giải quyết được hài hòa vấn đề giai cấp và vấn đề
dân tộc. Theo Người : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và cách mạng thế giới. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá
tính triệt đổ của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng quần chúng lao động bị ápbức, vì thế Người đã chọn con
đường cách mạnh vô sản, theo gương cách mạng tháng 10 Nga là một cuộc cách mạng nằm trong dòng chảy liên tục của
quá trình giải phóng con người.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, Người đã xác định cách mạng Việt Nam phải trãi
qua hai giai đoạn mà đã được thể hiện Q. VVVT là : “Chủ trương làm TS dân quyền cách mạng và thổ địa CN để đi tới
XHCS”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện rất rõ ràng và đó
là luận điểm trọng tâm xuyên suốt toàn b ộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Đó là điểm khác biệt căn bản giữa con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các ngà yêu nước khác như : Phan Bội Châu, Phan Chu trinh, Nguyễn Thái Học …
Phan Bội Châu đã phải thốt lên : “Than ôi ! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại không một thành công”, thì ngược
lại, Hồ Chí Minhlà người duy nhất tìm ra con đường đúng đắn để cứu nước, giải phóng cho nhân dân lao động..
Trong tư tưởng về chủ nghĩa giải phóng dân tộc đã thể hiện sự sáng tạo thiên tài của Hồ Chí Minh. Đó là luận điểm
về cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạnh vô sản chính quốc và tác động
trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Là người yêu nước, lăn lộn trong phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế lại là
người hoạt động rất tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới nên Người hiểu rõ hơn ai hết về thuộc địa, về
chủ nghĩa thực dân, về những nối thống khổ mà nhân dân thuộc địa phải gánh chịu. Người đã thấy được tinh thần cách
mạng đang ầm ỉ và ngày càng mãnh liệt của nhân dân Đông Dương. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương
giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư
bản đã chuẩn bị đatá rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi.
Hồ Chí Minh đã vì chủ nghĩa đế quốc như con đĩa hai vòi, mộtvòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút
máu nhân dân thuộc địa. Khi cách mạng bùng nồ thì hàng trăm triệu nhân dân thuộc địa sẽ hình thành một lực lượng
khổng lồ thủ tiêu một trong những ĐK tồn tại của chủ nghĩa tư bản, cắt bớt một vòi của chủ nghĩa đế quốc và như thế họ
có thể giúp đỡ người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn, cắt đứt cái vòi còn lại của chủ
nghĩa đế quốc ở chính quốc. Theo Hồ Chí Minh : “An Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng cũng dễ dàng”. Như vậy, Hồ Chí Minh chẳng những hiểu rõ về sức
mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân tộc mà còn thấy được tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phòng dân
tộc. Theo Người, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc quan hệ mật thiếc với nhau như hai cánh của một con
chim trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.Trong cuộc đấu tranh đó, khi có chủ nghĩa Mác –
Lênin soi đường và được Đảng Cộng Sản lãnh đạo thì nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể chủ động tự đứng lên : “đem
sức ta mà tự giải phòng cho ta”. Mặc dù, ở các nước thuộc địa CN, thương nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn
nhỏ bé, trình dộ thấp kém. Hồ Chí Minh sớm ý thức được về sức mạnh tự giải phóng của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Theo Người cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của bản thân các dân tộc bị áp bức. “Hỡi anh em ở các nước thuộc
điạ ! Anh em phải làm thế nào để được giải phóng ? vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng :
công cuộc giải phóng, anh em chỉ có thể thực hiện được bằng nổ lực của bản thân anh em …”. Luận điểm dân tộc tự đứng
lên giải phóng được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nói như vậy, không có
nghĩa là không cần sự giúp đỡ của bè bạn năm châu, ngược lại sự giúp đỡ đó lá rất quí báu, song “chỉ có chúng ta mới giải
quyết được số phận chúng ta, và hoàn cầu cũng chú ý đến chúng ta khi chúng ta mạnh. Tóm lại, lực lượng đoàn kết và
chiến đấu của toàn dân vẫn là tất cả, vẫn định đoạt tất cả”. Ở Hồ Chí Minh, việc tập hợp lực lượng cách mạng cũng thể
hiện sự linh hoạt sáng tạo của Người. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, “nghĩa
là sĩ, nông, công, thương đều chống lại cường quyền …”, giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, của đồng bào
ta. Nhờ vậy, mà cách mạng Việt Nam đã tổ chức được một lực lượng cách mạng vô cùng to lớn dướisự lãnh đạo giai cấp
công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam, giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Như vậy, tư
tưởng cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính
quốc là sáng tạo thiên tài của HoÀ Chí Minh làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về CMDT nói
chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng. Luận điểm này có ý nghĩa chủ đạo thực tiễn rất quan trọng đối với
phong trào giải phóng dân tộc. Nó chỉ ra cho nhân dân các dân tộc thuộc địa không nên trông chờ ỷ lại vào cách mạng
chính quốc mà phải chủ động đứng lên tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, góp phần tích cực vào
cách mạng thế giới trong đó có cả cách mạng ở chính quốc. Thực tiễn cách mạng Việt nam mà điển hình là cách mạng
tháng 8 thành công đã chứng minh và khẳng định tính đúng đắn của luận điểm trên.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi
cho toàn Đảng, toàn dân nhứt là trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Giươngcao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
cần kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần tự lực
tự cường (phát huy nội lực trong xây dựng đất nước, giữ gìn sự trong sáng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ quan điểm có áp bức thì có đấu tranh, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho
nên hễ bị áp bức càng nặng thì lòng cách mạng càng cao, chí cách mạng càng quyết. Người đã chỉ rõ nhân dân thuộc địa
chịu đau khổ gấp ngàn lần nội đau của giai cấp công nhân chính quốc. Trên thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn
áp và hành hạ như người dân thuộc địa.
(*) Lênin là người thấy được sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân tộc. Ngườiđã nhấn mạnh tư tưởng kết
hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa, yêu cầu Đảng CS ở chính quốc giúp
đỡ phong trào này. Tuy nhiên, cũng như những người lãnh đạo QTCS, Lênin cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào
cách mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng chính quốc, chỉ có thể nổ ra thắng lợi khi cách mạng vô sản ở
chính quốc thành công.
Câu 2 c : Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Trả lời :
Từ giữa thế kỷ 19, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, mặc dù các phong trào chống Pháp liên tục nổ ra, người
trước ngã người sau đứng lên nhưng tất cả các cuộc nổi dậy ấy đều thất bại. Nguyên nhân có nhiều nhưng suy cho
cùng nguyên nhân chủ yếu là chưa có một đường lối đúng.
Bằng thiên tài trí tuệ và nghị lực phấn đấu phi thường vượt qua những hạn chế của những người yêu nước cùng
thời, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành không tán thành chủ trương cứu nước của cụ Phản ánh Bội
Châu, cũng như cụ Phan Chu Trinh, tuy người hết sức khâm phục tinh thần yêu nước của hai cụ: “cụ Phan Chu Trinh
thì yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương … chẳng khác gì xin giặc nhủ lòng thương”, “cụ Phan Bội Châu hy vọng
Nhật giúp đở để đuổi Pháp, điều đó rất nguy hiểm chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rướt Beo cửa sau”
Chính vì thế, Nguyễn Tất Thành quyết định tìm đường cứu nước khác.
Tháng 6/1911 Nguyễn Tất Thành ra đi với mục đích: “tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác.
Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của
CM tư sản Pháp đã thúc dục Nguyễn Tất Thành đi đến những nước có cuộc CM tư sản thắng lợi.
Suốt nhiều năm xông pha, người đã có mặt ở nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người thuộc nhiều dân tộc khác
nhau. Khi đến các nước tư bản phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, người nhìn thấy cảnh giai cấp công nhân bị áp bức
bóc lột thậm tệ. Khi sang các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh người tận mắt thấy nhiều dân tộc , bị thực dân
thống trị hết sức hà khắc, giã man. Nhận ra kẽ thù chung, người đi đến kết luận quan trọng: dù màu đã có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu
ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (Hồ Chí Minh toàn tập NXB chính trị QG Hà Nội 1995, tập 1, trang 266).
Từ tấm lòng yêu nước thương dân, đến sự phân biệt XH có hai giống người, ở người đã có sự chuyển biến sâu sắc ,
hình thành ý thức giai cấp rõ rệt khiến người đến một cách rất tự nhiên với chủ nghĩa Lê nin, chủ nghĩa Mác - Lê nin
đỉnh cao của trí tuệ nhân lọai, khi được đọc luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Những năm hoạt động trong phong trào cộng sản , phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc , tiếp tục
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin , học tập kinh nghiệm của các Đảng cộng sản , kinh nghiệm của Liên xô quê
hương của CM tháng 10 Nga, người đã tích lũy những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, hình thành dần
đường lối cứu nước. Luận cương của Lê nin đã giải đáp trúng những vấn đề mà Bác Hồ đang tìm hiểu và người đi
đến khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CM vô sản”. Có
thể nói đây là bước ngoặc căn bản sau 10 năm đi tìm chân lý để giải phóng đồng bào, kết thúc một quá trình chuyển
biến trong nhận thức tư tưởng của Bác Hồ từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Tìm thấy cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, ngày 3/2/1930 người chủ trì thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh: muốn thực hiện thành công CM giải phóng dân tộc , điều kiện đầu tiên
đảm bảo phải có Đảng cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp vô sản, người đại diện cho dân tộc Việt
Nam.
Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do người trực tiếp sọan thảo như: chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt
là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành
cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Đó là chủ trương làm CM tư sản dân quyền, CM và thỗ địa CM để đi tới XH cộng
sản.
Nhva ngay từ khi thành lập Đảng , tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa XH đã được
thể hiện rất rõ ràng. Đây là luận điểm trung tâm xuyên suốt trong tòan bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê nin nhận thức được xu thế phát triển của thời đại , Hồ Chí Minh sớm chỉ ra CM giải
phóng dân tộc phải đi theo con đường của CM vô sản và CM Việt Nam là một bộ phận khắng khít của CM thế giới.
Từ luận điểm coi chủ nghĩa đế quốc là con đĩa 2 vòi, CM ở chính quốc và CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa là hai
cánh của một con chim, là hai dòng thác của trào lưu CM thế giới. phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào
điều kiện cụ thể một nước thuộc địa , Hồ Chí Minh đã di đến một luận điểm mới: CM thuộc địa không phụ thuộc vào
CM ở chính quốc , mà cần được tiến hành với tinh thần chủ động sáng tạo, tự lực đứng lên đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta. Hơn nữa lại còn có thể giúp đỡ được người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hòan tòan. Do vậy ở những nước thuộc địa phải đặt lên hàng đầu CM giải phóng dân tộc để đi tới chủ nghĩa XH.
Đây là bài học lịch sử lớn, có ý nghĩa nguyên tắc nói lên nguyên lý: thực tiễn là tính chất của chân lý , CM là sáng
tạo giáo điều , rập khuôn sẽ dẫn tới thất bại.
Luận điểm các dân tộc đứng lên tự giải phóng , được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo CM Việt
Nam. Trong CM tháng 8, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “đem sức ta ra mà tự giải phóng cho ta” trong kháng chiến
chống mỹ là tinh thần “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính” … với tinh thần đó Hồ Chí Minh luôn luôn đề
cao sức mạnh động lực dân tộc , xây dựng lực lượng CM trong nước là yếu tố quyết định thắng lợi cuộc CM. Mặt
khác người vẫn hết sức tranh thủ sự đồng tình , giúp đỡ của các lực lượng CM , lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Người xác định CM giải phóng dân tộc là của tòan dân , nghĩa là Sĩ, Nông , Công, Thương đều chống lại cường
quyền , không phân biệt giai cấp Đảng phái, địa vị XH , giàu nghèo. Tuy vậy trong tòan dân , Hồ Chí Minh và Đảng
ta khẳng định: CM Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo dựa trên nền tảng liên minh Công-Nông và Trí thức.
Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần yêu nước của bộ phận tư sản dân tộc Việt Nam. Theo người, công nhân, nông
dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc cùng với các thân sĩ yêu nước hợp thành lực lượng cách mạng trong cách mạng giải
phóng dân tộc. Sắp xếp lực lượng CM của Hồ Chí Minh vừa đúng với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin , vừa
phù hợp với đặc điểm của dân tộc, đất nước Việt Nam.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách thuộc địa tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và từ những kết luận rút ra qua khảo sát ,
nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở một số nước thuộc địa , Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc
phải thực hiện con đường CM bạo lực.
Trong quá trình lãnh đạo CM , người biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của dân tộc, vận
dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ nghĩa Mác - Lê nin , tiếp thu tinh hoa lý luận và những kinh nghiệm quân
sự của thế giới , Hồ Chí Minh đã đề ra và dần dần hoàn chỉnh lý luận bạo lực CM. Đó là sự tổng hợp các yếu tố
chính trị , quân sự , với nhiều bước đi, nhiều biện pháp , hình thức đấu tranh cụ thể để đạt được mục tiêu của từng
chặng đường tiến tới mục đích cuối cùng là đánh đổ thực dân, giành độc lập dân tộc tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Khẳng định giải phóng dân tộc phải bằng con đường bạo lực CM, song Hồ Chí Minh luôn chủ động , tích cực đưa
ra giải Pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của CM. Thực tiễn CM Việt Nam đã chứng minh tư tưởng
này của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam khẳng định: công lao to lớn nhất của Hồ Chí Minh là
người đã tìm con đường cứu nước đúng đắn , gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa XH và cống hiến
suốt đời cho mục tiêu đó. Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh chẳng những đã đưa nước Việt Nam đến độc lập tự do,
thống nhất tòan vẹn mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. chính vì
thế Hồ Chí Minh đã được nhân lọai tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, đẩy nhanh nhân văn hóa thế giới.
Ngày nay Đảng ta và nhân dân ta vẫn kiên định con đường CM với mục tiêu ma Hồ Chí Minh đã lựa chọn: “Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh … tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi ,
là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” (VKĐH 9 trang 20, 21).
Đảng ta xác định mục tiêu CM: dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân mục đích để phát huy sức mạnh toàn dân tộc để xây
dựng đất nước.
Các dân tộc Việt Nam đều có quyền bình đẳng tạo điều kiện giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế.
Kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
CÂU 3: Phân tích cơ sở để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa XH.
Cơ sở lý luận..
Vận dụng và quán triệt quan điểm duy vật về lịch sử của học thuyết Mácxít. Hồ Chí Minh quan niệm lịch sử XH
loài người là một quá trình tự nhiên của sự thay thế lần lượt các phương thức SX, Hồ Chí Minh nghiên cứu lý luận
hình thái KT XH của chủ nghĩa Mác - Lê nin , học thuyết này cho rằng sự phát triển của XH loài người là sự thay
thế nhau của các học thuyết KT XH. Chính vì thế, XH TBCN nhất định sẽ được thay thế bằng XH CSCN ma giai
đoạn đầu của nó là chủ nghĩa XH. Sự thay thế này được thực hiện nhờ hai tiền đề quan trọng là sự phát triển của
lực lượng SX và sự trưởng thành của giai cấp vô sản. Sự thay thế này là một quá trình lịch sử tự nhiên.
XH loài người phát triển theo hướng đi lên với những hình thái ngày càng cao hơn về chất. Nếu chế độ tư bản tất
yếu ra đời từ chế độ PK thì CNTB cũng sẽ xác lập các tiền đề khách quan để tự phủ định chính nó. Tiến lên chủ
nghĩa XH là qui luật vận động khách quan của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Kết luận này của Hồ Chí Minh
hoàn toàn tuân thủ các nguyên lý phổ biến của học thuyết Mác - Lê nin và hình thái KT XH.
Nhưng ở mỗi nước tùy theo đặc điểm điều kiện của mình ma không nhất thiết phải tuần tự tuân theo các giai
đoạn phát triển của hình thái KT XH , có thể bỏ qua một, hai giai đoạn (My,û Úc không có giai đoạn PK) Lê nin
đã phát triển tư tưởng CM không ngừng của Mác và Aêng để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới chủ
nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN của các dân tộc thuộc địa. Trên nền lý luận chung đó Hồ Chí Minh đã lĩnh hội
những vấn đề mấu chốt cho dân tộc mình. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa XH là sự phát triển tất yếu không chỉ đối
với đã qua CNTB mà còn có đối với VN.
Mặt khác, Hồ Chí Minh không phải trên cơ sở phân tích sự chín muồi của cơ sở KT làm xuất hiện chủ nghĩa XH
như là một phương thức cần thiết để giải quyết những mâu thuẫn của CNTB , mà người chú ý đến một phương
diện khác không kém phần quan trọng là chủ nghĩa XH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB. Tại các nước thuộc
địa, những hình thức bóc lột nô dịch của bọn thực dân làm bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính bẩm sinh không
thể khắc phục được của CNTB. Đó là cơ sở để người lao động ý thức giác ngộ sứ mệnh lịch sử của mình, nhất là
đối với giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến CM , trước vận mệnh quốc gia dân tộc , chờ thời cơ để vùng dậy thủ
tiêu xiềng xích thực dân, thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng chính họ thoát khỏi bất kỳ một
hình thức áp bức bóc lột nào.
Về cơ sở thực tiễn, xuất phát từ truyền thống văn hóa lịch sử dân tộc Việt Nam có lòng vị tha nhân ái. Trong XH
PK Việt Nam cũng xuất hiện nhiều mầm mống tư tưởng XHCN: đề cao dân chủ, lấy dân làm gốc (Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi …)
Việc đoàn kết xây dựng làng xóm, lối sống cộng đồng cũng nói lên được nhân tố XHCN sớm hình thành trong
con người Việt Nam. Đồng thời như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những mặt tích cực của
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo như trọng hiền tài, đạo đức , văn hóa , mong muốn XH tốt `. Đây cũng là những cơ
sở hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đi lên chủ nghĩa XH ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là con người sống hòa nhập vào thực tiễn tệ luôn luôn gắn bó lý luận với thực tiễn. Người sinh ra
và lớn lên trong XH PK nên có điều kiện, cơ hội nhìn thấy những bất công, áp bức của giai cấp thống trị, bọn
cường hào ác bá đối với quần chúng nhân dân.
a)-
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, giai cấp thống trị đã cấu kết với thực dân Pháp áp bức nhân dân ta nặng nề
hơn. Tại các nước thuộc địa trong đó có VN, bọn thực dân áp dụng bóc lột , cai trị dã man, tàn bạo để vơ vét tài
nguyên, của cải quí giá đem về chính quốc.
Chính từ đó đòi hỏi bức xúc cần phải giải phóng dân tộc thoát khỏi xiềng xích thực dân, nảy sinh ý thức giác ngộ
dân tộc, giác ngộ giai cấp , chủ nghĩa XH, chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một chế độ XH có khả năng phá bỏ
hoàn toàn mọi xiềng xích , nô dịch.
Đánh giá về vị trí lịch sử và chức năng XH của các cuộc CM dân chủ tư sản , Hồ Chí Minh cho rằng những cuộc
CM ấy không triệt để.
Trong quan niệm của HCM cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc CM không phải là những lý
tưởng , khâu khẩu hiệu được nêu ra mà là qui mô giải phóng quần chúng lao động bị áp bức. CM dân chủ tư sản ,
do bản chất của nó chỉ là sự thay thế một hình thức áp bức bóc lột này bằng hình thức áp bức bóc lột khác, đại bộ
phận người lao động vẫn sống cực khổ. CM Việt Nam không thể lập lại những vết xe của các cuộc CM tư sản ấy.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng: CM tháng 10 Nga là cuộc CM nằm trong dòng chảy liên tục của quá trình
giải phóng con người. Xét về bản chất , CM tháng 10 như là sự nỗi trội vượt xa và khác hẳn các cuộc CM XH đã
từng diễn ra trong lịch sử trước đó. Đảng cộng sản đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đánh đổ địa chủ giai cấp tư
sản đem lại tự do cho nhân dân lao động, đồng thời giúp cho các dân tộc khác giải phóng. Nhờ cuộc CM đó mà
nhân dân lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ yếu, giành được độc lập ruộng đất trở về tay người
dân cày.
Đối với Việt Nam , Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào
khác con đường CM vô sản , con đường CM tháng 10.
Đặt CM giải phóng dân tộc nằm trong phong trào CM vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa XH đã khiến
quan điểm giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh mang tính toàn diện và triệt để. Trong điều kiện Việt Nam, độc lập
dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến tới chủ nghĩa XH , đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Độc lập dân tộc không phải là mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa XH và con đường đi lên chủ nghĩa XH ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của CM Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc , giải phóng giai cấp , giải phóng
con người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa XH. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta để giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Để giữ vững được mục tiêu chủ
nghĩa XH cần phải xây dựng , chỉnh đốn Đảng , nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước , phát huy dân chủ , tăng cường Pháp chế.
Khắc phục những biểu hiện : chủ quan, nóng vội , duy ý chí. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị nhằm tạo niềm tin trong quần chúng nhân dân, bảo vệ vững
chắc chế độ XHCN. Cần phải kết hợp hài hòa giữa phát triển KT với thực hiện tiến bộ công bằng XH , đảm bảo
được định hướng XHCN. Cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , nội lực với ngoại lực, phải biết
dựa vào nhân dân , vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới,
tận dụng thời c
Câu 3a : Làm rõ căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở VN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung cơ bản trong toàn bộ tư tưởng của Người.
Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc đang bị đoạ đày đau khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay
sai, với tấm lòng yêu nước thiết tha Người đã ra đi tìm đường cưú nước, giải phóng cho dân tộc khỏi áp bức bóc lột và
Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản. Người nhận thấy “ Chỉ có CNXH, CNCS mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức, những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Việc lực chọn con đường
XHCN là một phát hiện thiên tài và là cống hiến to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam. Vậy cơ sở nào để Hồ Chí
Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở Việt Nam ? Đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng làm rõ dưới đây..
Cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vũ
khí tư tưởng và lý luận cách mạng khoa học của thời đại đã giúp cho Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng đúng
đắn cho dân tộc. Ra đời vào giữa thế kỷ 19, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết giữa lúc phong trào
chủ nghĩa quốc tế đang khủng hoảng đường lối, đã trở thành lý luận soi đường và phương pháp đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới sau cách mạng tháng 10
Nga 1917, là thực tiễn sinh động chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin , chứng minh sự
đúng đắn của con người chủ nghĩa vô sản, cách mạng tháng 10 Nga đã cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh
và ý nghĩa của nó đã được Hồ Chí Minh đánh giá : “ Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng 10 chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa có cuộc cách mạng nào có
ý nghĩa to lớn sâu xa như thế”. Hồ chí Minh cũng đã lựa chọn đi theo con đường cách mạng thế giới để giải phóng dân
tộc và đi lên CNXH. Đó là sự lựa chọn đúng qui luật, phù hợp xu thế lịch sử. Lý luận về HTKT – XH của chủ nhiã Mác Lênin đã chỉ rõ xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên trải qua 5 hình thức kính tế xã hội mà hình thức kinh tế
xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thức kinh tế xã hội trước nó. Và thực tiễn, lịch sử cũng đã chứng minh loài người đã
trải qua hình thức kinh tế xã hội : Công sản nguyên thủy, CHNL, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện nay đang là thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nếu chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chủ nghĩa tư bản cũng
sẽ xác lập các tiền đề kết quả để tự phủ định nó, và theo Hồ Chí Minh, logic tiến lên xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa
tư bản mở đường cho sự ra đời một chế độ xã hội mới là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là qui luật vận
động kết quả của lịch sử trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ là thứ vũ khí lý luận không gì thay thế
được, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam là mặt trời soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối
cùng, đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở Hồ Chí Minh, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếp thu
những nguyên lý cơ bản, tiếp thu phương pháp biện chứng chứ không sao chép giáo điều. Người vận dụng sáng tạo lý
luận về chủ nghĩa không ngừng vào cách mạng Việt Nam. Người đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp. Theo Người : “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khắng khít của
cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến lên thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là mục đích cuối cùng
mà nó chỉ là màn giáo đầu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa và chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới thức sự giải phóng
được nhân dân lao động, mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mọi người.
Chủ nghĩa xã hội là ước mơ của nhân dân lao động trên toàn thế giới, nó đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản đầy
máu và nước mắt. Đó là máu và nước mắt của giai cấp vô sản, chính quốc và của nhân dân thuộc địa : Hồ Chí Minh đã
nói : Chủ nghĩa đế quốc là con đĩa hai vòi, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân
thuộc địa. Và một vòi nhơ nhớp đó đã vươn tới Việt Nam vào năm 1858 khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta và đặt ách đô
hộ trên toàn cõi Việt Nam. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho tính chất xã hội Việt Nam thuộc
điạ một nhiệm hai màu hai mâu thuẫn cơ bản la ømâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn nông
dân với điạ chủ phong kiến. Từ thực trạng xã hội Việt Nam đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải giải quyết hai mâu thuẫn đó,
phải giành độc lập – tự do, phải xoá bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột bất công, thiết lập một xã hội công bằng nhân ái. Đây
cũng là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh lực chọn mục tiêu Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi vì chỉ có cách mạng xã hội
chủ nghĩa mới xây dựng được một xã hội tốt đẹp mới giải quyết được hài hòa cả hai môi trường của xã hội Việt Nam bấy
giờ. Một khía cạnh khác mà Hồ Chí Minh đã nhận thấy là sự cai trị dã man, những hình thức bóc lột tàn bạo của bọn thực
dân đối với người bản xứ đã làm cho tinh thần cách mạng thêm ầm ĩ, mãnh liệt, làm cho ý thức độc lập , tự chủ, tinh thần
yêu nước càng trỗi dậy, ở các dân tộc Đông Dương. Người đã kết luận : “ Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất
rồi chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Đây là một luận điểm
sáng tạo và hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội ra đời chính từ sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Tại
các nước thuộc điạ các hình thức bóc lột, nô dịch của bọn thống trị đã làm bộc lộ những khuyết tật phải nhân tính bẩm
sinh không thể khắc phục được chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ SMLS của mình trước
vận mệnh quốc gia, dân tộc chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng xóa bỏ mọi xiềng xích, nô dịch,
là một xã hội không có người bóc lột, Người đã trở thành ngọn cờ vẫy gọi các dân tộc thuộc điạ vùng dậy làm cách mạng
giải phóng dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, sự lựa chọn con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa là xuất phát từ thực trạng xã hội Việt Nam, song bên
cạnh đó, sự lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội còn xuất phát từ thực tiễn của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Trải qua bao năm bôn ba nước ngoàivà khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giớinhư cách mạng tư sản Pháp
1789, cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tháng 10 Nga 1917. Người đã rút ra những kết luận quan trọng. Người đã
phát hiện ra rằng các cuộc cách mạng tư sản như : cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng không triệt
để, tuy thành công nhưng không đến nơi đến chốn vì người lao động vẫn chưa hoàn toàn được giải phóng, xã hội còn đầy
bất công. Đảng viên Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng
nhân dân lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ tư sản do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế hình thức áp bức bóc lột
khác và tại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan của Hồ Chí MInh chỉ có cách mạng tháng 10 Nga
là triệt để là thành công đến nơi, nhân dân lao động đã được giải phóng và trở thành người chủ của xã hội. Người đã nhận
định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, điạ chủ, rồi lại ra sức cho công nông các nước và dân bị
áp bức các thuộc điạ làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người đã lựa chọn
con đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng tháng 10 . Trên đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn để Hồ
Chí Minh lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Ở đây, không thể không bàn đến một
nhân tố đã đóng góp vào sự lựa chọn đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Nhân tố đó chính là bản lĩnh cốt cách và tinh
thần cách mạng triệt để của Hồ Chí mInh. Trong những thập niên đầu thế kỷ 20 không phải chỉ có Hồ Chí Minh là người
Việt Nam duy nhất được đọc lý luận Mác - Lênin, được biết về cách mạng tháng 10, nhưng duy nhất chỉ có Hồ Chí Minh
là dứt khoát và quyết tâm theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng tháng 10, tinh thần quyết tâm đó của
Hồ Chí MInh đã được thể hiện trong suốt quá trình đấu tranh chủ nghĩa và thực tiễncủa cách mạng Việt Nam đã chứng
minh cho sự lựa chọn đó là sáng suốt và đúng đắn. Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là công
cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho cả dân tộc đi đến mục tiêu mà. Người đã lựa chọn cho
nhân dân ta từ những năm 30 của thế kỷ 20. Đảng ta củng cố xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
MInh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảngvà cách mạng Việt nam. Giương cao ngọn cờ tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên trì với mục tiêu đấu tranh dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn
duy nhất đúng, là vấn đề có tính nguyên tắc. Phải giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đổi mới để
có chủ nghĩa xã hội và hơn chứ không phải để “ đổi màu”. Vết xe đổ của Liên Xô và đã là bài học xương máu cho cách
mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới, cần đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí MInh . Tư tưởng Hồ Chí MInh là di sản tinh thần quí báu của Đảng và dân tộc, tư tưởng đó luôn sống động mang tính
khoa học và cách mạng cho nên cần được giữ gìn. Mỗi cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và hành
động theo tư tưởng của Người. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua không thể tách rời tư tưởng
Hồ Chí MInh và ngày nay tư tưởng đó tiếp tục sáng soi cho toàn Đảng toàn dân trên chặng đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, biết bao ước mơ cao đẹp “ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh” của Người trở thành hiện thực
CÂU 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền.
(“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là độc lập dân tộc, là hòa bình và ấm no”; Đảng ta là tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc và thời đại;
là lương tâm, đạo đức của dân tộc; là ý chí của dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nh.dân gắn bó với nhân dân.)
TRẢ LỜI:
Là người sáng lập, tổ chức và rèn luyện Đảng ta Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt đến công tác xây dựng
đảng. Trong những di sản tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại, những luận điểm của Người về xây
dựng đảng là bộ phận cực kỳ quan trọng. Những tư tưởng về đảng của Hồ Chí Minh hết sức phong phú, toàn
diện, sâu sắc, sáng tạo trong đó Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đảng cầm quyền.
Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân và ý chí, bản lĩnh làm cách mạng đến nơi của mình, Hồ Chí Minh đã
khảo sát và tìm hiểu các kiểu đảng chính trị trên thế giới, nhằm tìm ra nhân tố thắng lợi công cuộc giải phóng
nước nhà.
Từ những kinh nghiệm thực tiễn cùng với sự tiếp thu vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt
là năm nguyên tắc xây dựng “đảng kiểu mới” của Lênin, Hồ Chí Minh đã tuân theo những nguyên tắc ấy và tổ
chức thành lập đảng cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có đảng của cách mạng chân chính, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của đảng cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Ơ nước ta, đảng là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa yêu nước với phong trào yêu nước, đảng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, phải phục vụ cho được đại bộ phận giai cấp công nhân. Tuy giai cấp
công nhân còn nhỏ bé nhưng có khả năng lãnh đạo cách mạng. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của
đảng, bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở chủ nghĩa Mác-Lênin, ở sự kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dân chủ rộng rãi đi đôi với kỷ luật chặt chẽ,
thực hiện nghiêm túc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, đảng phải là một mối đoàn kết thống nhất từ trung
ương đến cơ sở, từ chủ trương đến hành động, phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của đảng..
Từ cách mạng tháng Tám 1945 cho đến cuối đời trên cương vị đứng đầu Nhà nước, đứng đầu một đảng cầm
quyền, Người cùng tập thể lãnh đạo giải quyết không biết bao nhiêu vấn đề lớn quốc gia trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao, những vấn đề của cuộc kháng chiến kiến quốc, của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và sự nghiệp giải phóng Miền Nam
thống nhất nước nhà. Trong đó vấn đề đảng cầm quyền bao giờ cũng là trung tâm then chốt nhất được Người
quan tâm chú ý. Hồ Chí Minh quan niệm đảng cầm quyền là đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong
điều kiện đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và đảng trực tiếp lãnh đạo bộ
máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chức năng quan trọng nhất, cốt lõi nhất của một đảng cầm quyền là đảng phải lãnh đạo được chính quyền
nhà nước. Bảo đảm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước này thực sự mang bản chất
giai cấp công nhân. Bộ máy công chức nhà nước thực sự là công bộc của dân. Đảng lãnh đạo chính quyền bằng
chính sách và đường lối, chủ trương, bằng việc bố trí cán bộ, bằng việc kiểm tra giám sát quá trình thực hiện
đường lối đó của nhà nước. Bên cạnh đó đảng phải lãnh đạo được các tổ chức chính trị xã hội, đồng thời đảng
cầm quyền phải giữ được mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân, đảng phải thật sự gắn bó máu thịt với nhân dân vì
cơ sở xã hội của đảng là liên minh công nhân-nông dân và tầng lớp trí thức.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn của một đảng cầm quyền trước hết là đảng phải có lý luận tiên
tiến, cách mạng và khoa học. Người cho rằng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa nòng cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Người khẳng định “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Nắm lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin tức là nắm lập trường giai cấp công nhân- lập trường cách mạng triệt để,
đó là quan điểm cách mạng và khoa học; đó là phương pháp duy vật biện chứng từ đó thực hành đúng và sáng
tạo lý luận chủ nghĩa Lênin trong hoạt động thực tiễn.
Tiêu chuẩn thứ hai yêu cầu đảng phải có đường lối đúng đắn, sát hợp. Đó là đường lối phản ánh được mục
tiêu của dân tộc, phản ánh được xu thế phát triển của dân tộc và thời đại. Nó giải quyết được hài hòa mối quan
hệ lợi ích của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, giải quyết được những vấn đề bức xúc của đời sống xã
hội.
Để xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, Hồ Chí Minh yêu cầu đảng phải thực hiện các nguyên
tắc tổ chức và xây dựng đảng. Trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ –đây là nguyên tắc để phân biệt một
đảng có phải là đảng Macxit, đảng của giai cấp công nhân hay không. Đảng phải thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Đảng phải coi phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc bén trong việc xây dựng đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với việc xác định tính tất yếu phải có đảng lãnh đạo thì phải gắn liền với
việc thường xuyên chỉnh đốn đảng nhằm để: giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong đảng; ngăn ngừa, khắc phục
thống nhất quan liêu, tự mãn và để nâng đảng lên ngang tầm nhiệm vụ.
Trong xây dựng đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ.
Người đánh giá rất cao vị trí của cán bộ trong sự lãnh đạo của đảng. Nếu không có đội ngũ cán bộ tốt thì đường
lối dù tốt đến đâu cũng không thể trở thành hiện thực được.
Đồng thời với quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến công tác cán bộ của đảng, quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ. Người yêu cầu “Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ” the
những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công minh, khách quan.
Cán bộ phải được đào tạo từ gốc, đào tạo từ chuyên môn lẫn lý luận. Việc sử dụng cán bộ theo Hồ Chí Minh
phải “Khéo dùng cán bộ”. Tức là đặt đúng người đúng việc và có kiểm tra, giúp đỡ thường xuyên để cán bộ đó
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh luôn luôn lưu ý vấn đề tăng cường mối quan hệ giữa đảng với nhân dân. Người cho rằng phải
luôn luôn học hỏi nhân dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng đảng. Phải có trách nhiệm nâng cao dân trí,
phải là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân, đồng thời cũng không được theo đuôi quần
chúng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, những quan điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng đảng cầm quyền được đảng ta vận dụng và xem là vấn đề then chốt trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trước mắt là thực hiện tốt nghị quyết VI hội nghị BCH trung ương đảng lần 2 khóa VIII về một số vấn đề cơ
bản và cấp bách trong công tác xây dựng đảng hiện nay trên cả ba lĩnh vực: nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống của cán bộ đảng viên và một số vấn đề tổ chức. Về nhận thức, tư tưởng chính trị phải kiên định
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò
lãnh đạo của đảng, không ngừng củng cố niềm tin, lý tưởng cho cán bộ đảng viên và nhân dân. Đảng phải đề ra
đường lối đúng đắn, sáng suốt, sát hợp với tình hình đất nước và xu thế của thế giới. Về tổ chức: Đảng củng cố
sắp xếp lại bộ máy tổ chức trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và xây dựng đảng, đồng thời làm tốt công
tác cán bộ của đảng, tăng cường công tác phát triển đảng viên, đi đôi với nâng cao chất lượng đảng viên. Về đạo
đức lối sống: trước tình trạng suy thoái, biến chất về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ của cán bộ
đảng viên, đảng ta cần phải tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức lối sống, tác
phong cho cán bộ đảng viên, thực hiện có nề nếp việc phê bình và tự phê bình, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, tệ tham nhũng, quan liêu…để làm trong sạch đội ngũ cán bộ
đảng viên.
Bên cạnh đó, để bảo đảm vai trò của đảng cầm quyền chúng ta cần tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội
bộ, cảnh giác và chống âm mưu phá hoại đảng của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Tóm lại, có thể nói những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và cả những
việc làm, tấm gương đạo đức hàng ngày của Người thật sự là những đóng góp quan trọng vào việc phát triển
học thuyết Mác-Lênin về đảng cộng sản, về xây dựng đảng nói chung và đặc biệt là đảng cầm quyền.
Đối với nước ta, những quan điểm tư tưởng đó đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình rèn luyện, xây
dựng đảng ta trưởng thành như ngày nay và vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện đảng lãnh đạo công cuộc đổi
mới đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH cơ bản, dân chủ, V.minh
Câu 4a : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh.
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước
ta và đã trở thành một tài sản tinh thấn quí báu của Đảng và của dân tộc. Trong toàn bộ tư tưởng của Người thì tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đảng CS là một bộ phận quan trọng, là sự kế thừa, bổ sung và phát triển, sáng tạo tư tưởng của Mác –
Ănghen và nhứt là những nguyên tắc về Đảng kiển mới của Lênin trong điều kiện Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định
cách mạng : “trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thời vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thứ liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững,
thuyền mới chạy”. Đảng CSVN ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Đảng đã đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu KQ của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ đang khủng hoảng đường lối cứu nước. Cách mạng tháng 8 thành công mở ra một kỷ nguyên mới
cho dân tộc, đưa Đảng ta lên đảng cầm quyền, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội. Trên cương vị mới Đảng
tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tiến lên
CNXH. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh.
Đảng ta là Đảng của giai cấp côngnhân và nhân dân lao động : “Là Đảng cách mạng, là Đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích
của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Là một Đảng cầm quyền, Đảng có chức
năng lãnh đạo cùng nhiệm vụ và lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội. Sự lãnh đạo đó được thể hiện bằng đường lối chủ
trương, bằng quy hoạch bố trí đội ngũ cán bộ và bằng việc kiểm tra đôn đốc giám sát, sự lãn đạo của Đảng là nhân tố đảm
bảo cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Muốn thực hiện được vai trò chức năng của một Đảng cầm quyền, hoàn thành được sứ mệnh mà giai cấp và dân tộc
đã ủy thác, Đảng ta phải được trang bị lý luận tân tiến, cách mạng và khoa học. Hồ Chí Minh cho rằng : “Đảng muốn
vững mạnh phải lấy công nhân làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo CN ấy. Đảng mà không có CN
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Vào những năm đầu thể kỷ 20, khi Nguyễn Tất Thành (Hồ
Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước, trên thế giới, trên thế giới có rất nhiều hệ thống lý luận, nhưng sau bao năm
bôn ba hải ngoại, lăn lộn với phong trào công nhân, tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin và cách mạng T.10 Nga, Hồ Chí
Minh đã khẳng định : “Bây giờ học thuyết và CN và những chủ nghĩa chân chính nhứt , chắc chắn nhứt, cách mạng nhứt
là chủ nghĩa Lênin” và Đảng ở Việt Nam phải là một Đảng “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học chỉ ra thế
giới quan và phương pháp luận đúng đắn để giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa đứng lên làm cách
mạng cải tạo thế giới giải phóng cho giai cấp, cho dân tộc khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Sự đúng đắn của đường lối cách
mạng do Đảng ta vạcg ra ngay từ buổi đầu mới thành lập bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh đã quán triệt sâu sắc chủ nghĩa
Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Đảng ta vượt qua những trận thử thách … Như vậy, Đảng ta không những
đã giành được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực đã đập tan mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh quyền lãnh đạo
cáchmạng với Đảng ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vạch ra được lối chủ trương đúng đắn, sát hợp đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà thực tiễn cách mạng Việt Nam là chứng minh hùng hồn nhứt để đảm
bảo sứ mệnh dẫn lối soi đường đó thì việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng ta và
là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh : “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch,
kiểu mẫu”. Đảng ta phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc về tổ chức và xây dựng Đảng mà trong đó tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, phê bình và tự phên bình là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản và quan trọng nhứt trong học thuyết vì Đảng kiểu mới của Lênin và được Hồ
Chí Minh rất coi trọng và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể để xây dựng Đảng CSVN. Tập trung nghĩa là thiểu số phục tùng
đa số, cấp dưới phục tùngcấp trên, tất cả Đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người nhấn mạnh :
“Đảng tuy đông người nhưng ít khi tiến hành chỉ như một người”. Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh dân chủ (trong
Đảng) “Dân chủ là của quí báu nhứt của nhân dân”, phải chú ý thực hành rộng rãi dân chủ của Đảng “Phải thực sự mở
rộng dân chủ để tất cả các Đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình, phải gom góp ý kiến của Đảng viên để giúp đỡ trung
ương chuẩn bị đại hội Đảng cho thật tốt”. Ở Hồ Chí Minh về nguyên tắc này dân chủ + sinh hoạt Đảng là sự thống nhất
biện chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dướisự chỉ đạo tập trung. Nguyên tắc
này là tiêu chí quan trọng để xem xét một Đảng còn là Đảng mác – xít chân chính nữa hay không ?
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta. Hồ Chí Minh cho rằng : “tập thể lãnh đạo
và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau. Nếu lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc
đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”. Còn nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ỷ cho người
kia, người kia ỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành như tục ngữ có câu : “Nhiều sải không ai đóng cửa chùa”.
Phê bình và tự phê bình được coi là “quy luật” phát triển của Đảng “Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén
nhứt, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ đó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, ưu điểm, tiến bộ
không ngừng”.
Hồ Chí Minh cho rằng con người ai cũng có khuyết điểm chỉ khác nhau ở mức độ và trạng thái biểu hiện mà thôi.
“Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm”.
Theo Hồ Chí Minh “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc
cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Mỗi cán bộ Đảng viên phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa
chữa hàng ngày giống như mỗi ngày phải rửa mặt, và vấn đề này Hồ Chí Minh rất gương mẫu thực hiện.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, còn phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên
của Đảng. Chỉnh đốn Đảng để lúc khó khăn không bị bi quan dao động, để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo khi cách mạng
chuyển sang giai đoạn mới. Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ phải “chấn chỉnh” bộ máy càng “chỉnh đốn”. Các đoàn thể
quần chúng và “muốn làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Chỉnh đốn là để tăng cường sự
đoàn kết nhất trí trong Đảng, để tăng cườngsức chiến đấu của Đảng. Người đã chỉ ra rằng “Sự đoàn kết nhất trí trong
Đảng càng thêm vững chắc bảo đảm cho Đảng ta càng trong sạch, càng mạnh mẽ, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng vĩ
đại của chúng ta càng giành được thắng lợi to lớn hơn nữa”.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên, Người rất quan tâm đến giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
Đảng viên về tất cả các mặt trong đó có 03 vấn đề chủ yếu nhứt là : Suốt đời phấn đấu hy sinh cho Đảng, cho tổ quốc ;
Đặt quyền lợi của Đảng, của tổ chức lên trên hết ; có một đời tư trong sáng”. Theo Hồ Chí Minh “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, “Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người đã so sánh “cán bộ là dây chuyền
của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạythì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”. Trong sử dụng
cán bộ, Người yêu cầu phải “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”, phải “khéo dùng cán bộ” ; “dùng người như dùng gỗ. Người
thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được” ; phải “chiêu hiền đãi sĩ”, “cần người hiền tài” “có gan
cất nhắc cán bộ” ; phải chống bệnh tự phong, cục bộ, đầu óc phe phái , họ hàng.
Quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan niệm của
Người là “Nước lấy dân làm gốc, bao nhiêu lợi ích vì dân, bao nhiêu quyền hạn đềucủa dân”. Đảng, cán bộ Đảng viên
“Vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh : “Đảng phải gắn bó máu thịt
với dân. Dân là lực lượng vô tận của cách mạng, thắng lợi của cách mạng là do Đảng đã tổ chức và giải phóng được lực
lượng đó”.
Người đã chỉ rõ giữ chặt chẽ mối quan hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng lực lượngcủa Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi.
Do vậy cán bộ Đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải : “Học dân chúng”, phải “nâng cao dân chúng,
nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Cả cuộc đời của Hồ chí Minh là một tấm gương về gần dân, hiểu dân, và vì
dân. Người đã lo vun đắp cho cái “gốc” nhân dân bền vững để cây đời cách mạng trổ hoa kết trái thắng lợi.
Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CSVN nói chung và về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững
mạnh la rất phong phú,là bước phát triển học thuyết Mác – Lênin về Đảng CS vào Việt Nam. Những giai đoạn của Hồ Chí
Minh vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay và mãi mãi là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của
chúng ta. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay có ý nghĩa then chốt.
Đại hội VII của Đảng đã xác định : “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn”. Đảng ta phải thực hiện tốt những nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, phải xây dựng các tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ Đảng viên phải đảm bảo nâng cao chất lượng, số lượng trong sạch về
đạođức, lối sống. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta phải kiên trì
mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ và phát triển học thuyết và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh chống DSHB, chống đa nguyên đa đảng đối lập, phủ nhận quyền lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng CSVN
CÂU 5: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trên cơ sở hiến pháp và pháp luật ?
(Vị trí của vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật, vì sao?; Nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở hiến pháp và
pháp luật, có hệ thống P.luật hoàn chỉnh, tiến bộ; có đội ngũ cán bộ, công chức...)
1/ Cơ sở hình thành
Thuở thiếu thời HCM đã tận mắt chứng kiến thực trạng của bộ máy nhà nước thực dân phong kiến Ở nước ta, đó
là một kiểu nhà nước không thể chấp nhận được. Người nhận thức nhà nước PK tuy có thời đã có pháp luật, nhưng
quyền hành lại tập trung vào tay nhà vừa, do vậy, thời PK nhà nước là sự thống trị của chế độ độc tài chuyên chế.
Trong xã hội thực dân PK, sự cai trị của NN theo kiểu chuyên chế, không có luật pháp dân chủ mà theo kiểu toàn
quyền do Pháp đặt ra cho chế độ thuộc địa Ở Đông Dương, cai trị bằng lệnh, mang dấu ấn cá nhân chứ không thực
hiện chế độ ra các đạo luật thể hiện nhân quyền, bảo đảm về mặt pháp luật.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, HCM đã bắt gặp ánh sáng chân lý của CN Mác-Lênin. Từ những lý luận của
CN Mác-Lênin về vấn đề nhà nước của GCCN, của đại đa số quần chúng nhân dân lao động. HCM đã rút ra những
quan điểm cơ bản để hình thành tư tưởng của mình và sau này trở thành đường lối của ĐCSVN là bộ máy N.nước
và pháp luật của CM phải xuất phát từ lợi ích của dân, do dân và vì dân. Khi giành được chính quyền phải chăm lo
giữ chính quyền, có được chính quyền phải xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, tức là nhà nước phải thuộc
về số đông mới tồn tại được.
Qua theo dõi phát triển cách mạng thế giới, HCM đã rút ra tư tưởng của mình về vấn đề nhà nước.
Công xã Pari ( 1871 ) thất bại là do tổ chức nhà nước không có người dân và ít trí thức tham gia, không tạo được
sức mạnh toàn dân.
Các cuộc CMTS Pháp (1789), Mỹ (1776), Anh (1664), Trung Quốc (1911)… có tiến bộ ( tự do, bình đẳng, bác
ái ) nhưng thực sự là mang tiếng mị dân, chính quyền không thuộc về nhân dân mà thuộc về số ít người, tức là nằm
trong tay giai cấp thống trị, không vì lợi ích của quần chúng nhân dân lao động.
CM Tháng Mười Nga giành được thắng lợi hoàn toàn, lập ra nhà nước Xô viết của Công-Nông-Binh.
Qua đó HCM đã chọn con đường CM tháng Mười và kiểu nhà nước Xô viết, đó cũng là nhà nước theo học thuyết
Mác-Lênin.
Bằng sự thiên tài của mình, HCM đã sáng suốt lựa chọn mô hình nhà nước kiểu mới cho dân tộc Việt Nam: nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, HCM đã thể hiện những tư tưởng
đó bằng hành động thực tiễn qua những giai đoạn của CMVN, từ khu giải phóng Ở Việt Bắc đến lễ đài tại quảng
trường Ba Đình-Hà Nội, với bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước kiểu
mới Ở Việt Nam hình thành, ngày 6/1/1946 nước ta tổng tuyển cử bầu ra quốc hội, ngày 2/3/1946, quốc hội đã cử ra
chính phủ chính thức và các cơ quan n.nước. HCM được bầu làm chủ tịch nước VNDCCH. Từ năm 1945 đến khi
qua đời (1969), trong suốt 24 năm giữ cương vị chủ tịch nước, trải qua các thời kỳ lúc bình yên, lúc sóng gió của
CM, HCM đã cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng một nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Dựa
trên cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, tư tưởng HCM về vấn đề nhà nước là sự chỉ đạo lâu dài đối với CM VN.
2/ Nội dung tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước phải thể hiện được bản chất GCCN và tính chất của dân, do dân, vì dân.
Theo tư tưởng HCM, nhà nước ta là nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân, mang tính chất nhân dân và mang
bản chất GCCN. Vì nhà nước bao giờ cũng là của GC và phục vụ GC đó. Nhà nước kiểu mới Ở Việt Nam là nhà
nước do Đảng lãnh đạo. Người đã nhiều lần khẳng định: Đảng ta là một đảng cầm quyền, nguyên tắc Đảng lãnh đạo
nhà nước không bao giờ coi nhẹ. Nhà nước ta đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt đảng phái,
tôn giáo, giàu nghèo, gái trai… Người xác định cái cột lõi: Liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với tầng
lớp trí thức do GCCN lãnh đạo. Người cũng rất chú ý đến nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong tổ chức và quản lý
nhà nước phải thể hiện sự thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công, phân cấp rõ ràng.
Xây dựng một nhà nước của dân, do nhân dân lao động làm chủ là điểm cơ bản nhất trong tư tưởng HCM về xây
dựng NN. Thực tế cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 và sau đó quốc hội chính th71c tổ chức ra bộ máy NN đã thể
hiện rõ TT HCM về NN, huy động toàn thể nhân dân tham gia công việc quản lý NN, nhân dân đóng vai trò làm chủ
NN. Thiết lập quyền bính của nhân dân trong xây dựng NN, mối liên hệ về trách nhiệm giữa đại biểu quốc hội đối
với cử tri.
Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân lao động, nhà nước phải vì dân, vì lợi ích chính đáng của nhân dân,
mọi hoạt động của NN đều phải hướng tới phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ: Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm,
việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. NN phải lo
cho dân có ăn, có mặc, có chỗ Ở, được học hành.
NN chú ý vai trò chuyên chính, vì muốn có dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự, muốn chuyên chính thực
sự phải thực sự dân chủ với nhân dân.
Không ngừng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ công chức theo yêu cầu chuẩn hóa. Người
cán bộ công chức phải vừa có đức vừa có tài, phải liên hệ mật thiết với dân, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,
trung thực và luôn có chí tiến thủ. HCM coi trọng việc chuẩn hóa đội ngũ công chức, đồng thời lựa chọn người vào
đội ngũ cán bộ, công chức NN thông qua biện pháp thi tuyển ( thể hiện qua sắc lệnh do Người ký năm 1948 và
1950 ).
Xây dựng nhà nước trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xây dựng hiến pháp rất được HCM chú ý, Người
muốn làm càng sớm càng tốt. Do vậy chỉ sau một năm độc lập, nước ta đã có hiến pháp (1946). HCM cũng rất quan
tâm đến việc ban hành các đạo luật và sắc luật về từng mặt như tổ chức quốc hội, chính phủ, hội đồng nhân dân, bảo
vệ tài sản, tính mạng nhân dân, hôn nhân gia đình… và những văn bản dưới luật như nghị định, thông tư…Trong
việc xây dựng hệ thống pháp luật, HCM rất chú trọng tính nhân văn, với Người, pháp luật là do con người và vì con
người. Trong tổ chức thi hành pháp luật, Người kiên quyết yêu cầu mọi công dân phải sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật, luôn đòi hỏi sự bình đẳng trước pháp luật.
Trong việc phát huy vai trò và hiệu lực của quản lý của cơ quan NN, chính phủ, cơ quan NN phải thực sự nghiêm
khắc thi hành chức trách của mình, trong mọi lĩnh vực hoạt động, từ hành chính đến kinh tế, đối nội cũng như đối
ngoại, bảo đảm theo đúng hiến pháp.
Đối với bản thân đội ngũ công chức trong bộ máy Nhiều NN phải toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ vì dân vì
nước mà làm việc đến nơi đến chốn.
NN tổ chức tốt quá trình giáo dục, động viên quần chúng tham gia xây dựng NN, xây dựng hệ thống pháp luật và
giám sát các cơ quan cũng như đội ngũ công chức thi hành nhiệm vụ. Đề cao tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của
mọi người, làm chủ phải gắn với kỷ cương, kỷ luật, hiến pháp, pháp luật của NN, thực hiện tốt nghĩa vụ của người
công dân đối với đất nước.
NN kiểu mới Ở Việt Nam phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Điều này đã trở thành một nguyên tắc trong xây
dựng NN mà HCM luôn nhấn mạnh. Vì Đảng và NN đều có một mục tiêu chung là bảo đảm nền độc lập và đi lên
CNXH.
Đảng lãnh đạo NN phải thông qua một hệ thống giải pháp, đề ra cương lĩnh đường lối để NN thực hiện. Bố trí
nhân sự cán bộ phải đúng. Nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên thông qua việc kiểm tra giám sát.
Đồng thời phải luôn rà soát, khắc phục những hiện tượng cồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ về tổ chức bộ
máy NN, về chính sách pháp luật, kịp thời tìm giải pháp khắc phục.
Tư tưởng HCM về xây dựng NN trên cơ sở hiến pháp và pháp luật là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống yêu
nước của dân tộc với lý luận về NN của CN Mác-Lênin bằng nhân sinh quan của HCM. Trên cơ sở lý luận và thực
tiễn sâu sắc, Người đã nêu lên quan điểm về NN của CMVN là NN của dân, do dân, vì dân. NN thật sự dân chủ, do
nhân dân LĐ làm chủ trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, đồng thời NN phải thể hiện được bản chất của GCCN, do
ĐCS lãnh đạo, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi hoạt động của NN đều vì lợi ích chính đáng của nhân
dân.
Trong giai đoạn hiện nay tư tưởng HCM được Đảng và NN ta vận dụng trong việc xây dựng NN pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện bằng những vấn đề sau:
1/ Tiếp tục kiện toàn củng cố tăng cường hệ thống bộ máy và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức. Kiện toàn tổ
chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của quốc hội, tăng cường công tác lập hiến, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, sửa đổi, bổ sung hiến pháp 1992 phù hợp với tình hình mới. Trong công tác hành pháp, xây dựng
nền hành chính trong sạch, vững mạnh, định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức NN, nâng
cao tính chủ động Ở cơ sở. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, không để xảy
ra trường hợp oan sai. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và đạo đức của cán bộ công chức, thực hiện việc thi
tuyển công chức, định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ công chức, sắp xếp theo đúng chức đẩy nhanh, năng
lực công tác.
2/ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, đồng thời phát huy tác dụng của pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, xây
dựng mới, sửa ổi bổ sung luật cũ, tổ chức thi hành luật nghiêm túc. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương,
tăng cường pháp chế. Nâng cao chất lượng đại biểu quốc hội, HĐND các cấp, mở rộng dân chủ để nhân dân tham
gia quản lý XH, xây dựng luật trưng cầu ý dân. Quản lý bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân nâng cao ý
thức chấp hành luật pháp.
3/ Khắc phục những bất cập, yếu kém, chống tệ nạn tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, công chức NN. Đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, lợi dụng chức quyền trong bộ máy NN và toàn bộ hệ thống
chính trị, từ TW đến cơ sở. Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức về chính trị, tư tưởng,đạo đức CM.
Có hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người có chức có quyền vi phạm pháp luật, gây nghiêm trọng, gây hại
cho dân, cho nước.
4/ Xây dựng NN pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cải cách tổ chức và hoạt động của NN gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với NN, xây dựng bộ máy NN tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên
trong các cơ quan NN.
Nội dung tư tưởng HCM về xây dựng NN pháp quyền được Đảng và NN ta vận dụng thực hiện trong công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước, như ĐH IX của Đảng đã khẳng định:” NN ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của dân,do dân, vì dân. Quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan NN trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. NN quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật./.
Câu 5a : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà Nước quản lý xã hội bằng pháp luật
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc. Tư tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc
những tinh hoa nhân loại và của dân tộc, là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt
Nam. Trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người thì tư tưởng về nhà nước chính là sự kế thừa và phát triển của Hồ Chí
Minh về các kiểu nhà nước trong lịch sử, là sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước vào điều kiện
nước ta.
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, Người đã ra đi tìm đường cứu nước và đã tìm thấy con người
cách mạng vô sản, đồng thời Hồ Chí Minh cũng lựa chọn xây dựng một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, một nhà nước
của dân do dân, vì dân khác về bản chất so với nhà nước thực dân phong kiến. Người đã nhận thức được tất cả các nhà
nước trước cách mạng vô sản đều chỉ là nhà nước của một số ít người, nhà nước của giai cấp bóc lột. Vì thế Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ : “Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao
cho dân chúng, chớ để trong tay một bọn ít người”
Nhà nước kiểu mới theo Hồ Chí Minh là một nhà nước của dân, do dân. “Tất cả quyền bính trong lúc này là của
toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một người con rồng cháu tiên, bất kỳ già trẻ gái trai, giàu
nghèo, nồi giống, tôn giáo đều phải gánh vác một phần …”. Nhân dân là người bầu ra nhà nước, bầu ra quốc hội và chính
phủ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh “tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài có đức
để gánh vác công việc nước nhà” và “hễ là công dân đều có quyền đi bầu cử”. Nhân dân có quyền kiểm soát, góp ý, phê
bình chính phủ, dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân nếu họ không còn xứng đáng, làm hại dân.
Nhà nước kiểu mới là phải coi việc đưa lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình. Đó
là nhà nước vì dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân trên hết “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho
dân ta phải hết sức tránh”. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước dân, nhà nước là công bọc, là đầy tớ của nhân dân, phải
yêu dân, kính dân.
Như vậy nhà nước kiểu mới theo Hồ Chí Minh là nhà nước của dân do dân vì dân, thể hiện rõ quan điểm : “Nước
lấy dân làm gốc”. Đó là nhà nước xây dựng trên khối liên minh chủ nghĩa, trí thức doa Đảng CSLĐ là nhà nước quản lý
xã hội bằng hiến pháp và pháp luật. Vấn đề xây dựng một nhà nước pháp quyền dựa trên cơ sở phục vụ nhân dân, đã đượ
thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người có ý thức rất sớm về tầm quan trọng của pháp luật trong việc quản lý xã
hội, trong bảng yêu sách của nhân dân An Nam do Người soạn thảo gởi đến hội nghị Vecsây 1919 đã thể hiện tư tưởng
pháp quyền của Hồ Chí Minh. Người đã yêu cầu “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng
được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu Châu” “Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các
đạo luật. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, pháp luật phải là ý chí của giai cấp công nhân đồng thời là ý chí của nhân
dân lao động, là văn kiện của một giai cấp thống trị. Luật pháp của chế độ thực dân phong kiến, đặt ra là để bảo vệ lợi ích
cho giai cấp bóc lột … còn hiến pháp, pháp luật của ta là bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động. Pháp luật là phải lấy
chữ nhân làm trọng và phải thấy mối quan hệ giữa đức trị và pháp trị. Đây là điểm rất đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, một tư tưởng thắm đượm chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn, luôn chú trong đến con người, vì sự nghiệp giải
phóng con người, luôn tìm cách hướng con người đến cái chân thiện mỹ. Người đã bao giờ cũng nhấn mạnh đến cả hai
yếu tố “có lý có tình”. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”. Người dùng sức cảm hóa để ngăn ngừa
tiêu cực có thể xảy ra với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng bao dung, nhân
hậu nhưng Người cũng rất nghiêm khắc bỏ qua sai lầm, khuyết điểm, không bao che, luôn đòi hỏi sự bình đẳng trước
pháp luật.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Người đã có ý trước hết tính hợp hiến, hợp pháp của quyền
lực nhà nước. Khi nhà nước Việt Nam mới ra đời năm 1945, Người muốn làm nhanh “càng sớm càng tốt” cuộc tổng
tuyển cử để bầu ra quốc hội và sau đó là ủy ban soạn thảo hiến pháp đầutiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Trong 24 năm làm chủ tịch nước (1945 – 1969) Hồ Chí Minh đã chủ trì soạn thảo hai hiến pháp năm 1946 và 1959. Đó là
cơ sở pháp lý của quyền lực nhà nước. Người cũng thường xuyên nhắc nhỡ hoạt động của bộ máy hành pháp, trị pháp
phải dựa trên cơ sở vững chắc của hiến pháp và pháp luật.
Hồ Chí Minh không theo thuyết “tam quốc dân lập”, đây là lý luận xây dựng nhà nước tư sản được nhà nước áp
dụng từ trước đến nay. Quan điểm của Hồ Chí Minh là không có sự chia sẻ quyền lực mà quyền lập pháp (quốc hội) hành
pháp (chính phủ), tư pháp (viện kiểm sát tòa án) phải thống nhất chặt chẽ với nhau để tất cả quyền lực đều thống nhất là
quyền lực của nhân dân. Nhưng giữa các quyền đó có sự phân công, phối hợp nhau, tránh chòng chéo và phản quyền.
Nhà nước quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật là tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền. Tư tưởng này được thể hiện rất sớm qua bản yêu sách 8 điểm gời đến hội Nghị Vec-sây 1919. Người chú trọng đặc
biệt đến việc xây dựng pah1pluật và việc đưa pháp luật vào thực hiện có kết quả trong cuộc sống. Theo Người, phải tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, làm cho dân nắm được pháp luật, hiểu được luật và làm theo uật. Người yêu cầu
các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức kể cả cán bộ chủ chốt phải gương mẫu chấp hành. Ngay cả Đảngcầm quyền cũng
phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương về chấp hành hiến pháp
và pháp luật, không có ngoại lệ nào dù đó là chủ tịch nước.
Về xây dựng bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh nhất quán quan điểm xây dựng ở Việt Nam. Quốc hội lthực sự là cơ
quan quyền lực cao nhất ; chính phủ là cơ quan hành chính cao nhứt. Với một nền hành chính quốc gia hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ đặt dưó7i sự kiểm soát chặt chẽ của nhân dân. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng tổ chức tư
pháp hiện đại và dân chủ. Tòa án được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc của cơ quan tài nghĩa là độc lập với cơ
quan hành chính, trong xét xử cóphụ thẩm nhân dân tham gia, thẩm phán do chính phủ bổ nhiệm, phiên tòa xét xử công
khai, quyền bào chữa của các bị cáo được bảo đảm trong xét xử. Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
không có quyền can thiệp. Tóm lại, một bộ máy nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ máy nhà nước
hiện đại, dân chủ, có hiệu lực, phải cấu tạo luôn luôn thì yêu cầu kết quả của từng thời kỳ cụ thể, tránh tùy tiện, tránh. Hồ
Chí Minh cũng coi trọng vấn đề cán bộ, công chức nhà nước, đề cao vị trí và vai trò của họ. Người cho rằng : “Cán bộ là
dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán
bộ là những người đem chính sách của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dỡ thì chính sách hay
cũng không thể thực hiện được”. Người có quan điểm nhất quán về tiêu chuẩn cán bộ – viên chức nhà nước là phải vừa có
đức, có tài, vừa hồng “vừa chuyên”. Hai mặt đó phải luôn luôn đi đôi với nhau mà đứa phải là gốc. Theo Hồ Chí Minh
tiêu chuẩn người cán bộ – công chức nhà nước có những yêu cầu là : phải tuyệt đối trung thànhvới sự nghiệp cách mạng
(là yêu cầu đầu tiên phải có), thành thạo công việc, phải có mối liên hệ mật thiết với dân, phải dám phụ trách, dám quyết
đoán, dám chịu trách nhiệm nhất là trong những tình huống khó khăn, thất bại không hoang mang, thắng lợi không kiêu
ngạo, phải trung thực, luôn có chí tiến thủ, luôn luôn tự phê bình và phê bình, biết người, biết việc, không thành kiến,
không bao che.
Trong việc lựa chọn người vào đội ngũ cán bộ – công chức nhà nước, Hồ Chí Minh coi trọng biện pháp thi tuyển đội
ngũ cán bộ – công chức. Điều này thể hiện rõ trong hai sắc lệnh do Người ký 1948, 1950 hoặc sắc lệnh năm 1946 qui
định tiêu chuẩn chuyên môn hóa cán bộ tư pháp. Những qui định về thi tuyển, về tiêu chuẩn hoá đội ngũ viên chức nhà
nước của Người vẫn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình cải cách hành chính hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước và pháp luật trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải xây
dựng một nhà nước và đảm bảo cho nhà nước thật sự là của dân do dân, vì dân, phát huy hơn nữa vai trò và quyền lực của
nhân dân trong xây dựng nhà nước của mình. Bộ máy nhà nước phải hoạt động có hiệu lực từ quốc hội đến chính phủ và
cơ quan tư pháp. Xây dựnghệ thống pháp luật hoàn chỉnh, khắc phục tình trạng pháp luật thiếu, sơ hở, bất cập đồng thời
đưa pháp luật vào thực thi có kết quả, tuyên truyền giáo dục phápluật cho nhân dân. Tiếp tục đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ công chức nhà nước, nâng cao trình độ mọi mặt để không bị “đuối tần”, trước yêu cầu phát triển của đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa. Tổ chức thi tuyển công chức, phòng ngừa và hắc phục tình trạng một bộ phận
cán bộ công chức tham ô, những nhiễm, thoái hóa, biến chất.
Trong thời kỳ chống Pháp 1945 – 1954, do không có điều kiện họp đoàn thể quốc hội, Hồ Chí Minh với tư cách
là chủ tịch nước, buộc phải ra những sắc lệnh nhưng Người luôn tôn trọng tính hợp hiến của các sắc lệnh bằng cách xin ý
kiến ban thường trực quốc hội.
CÂU 6: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết (cơ sở của việc xác định khối đại đoàn kết; nguyên tắc, phương pháp xây dựng
khối đại đoàn kết)
Bài làm
Tư tưởng ĐĐK HCM là một hệ thống những luận điểm, những nguyên tắc, những phương pháp giáo dục và tập
hợp tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy với mức cao nhất sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại
vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
Đoàn kết là truyền thống quí báu, là sức mạnh vô địch của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì
vậy, tư tưởng ĐĐK HCM là nội dung xuyên suốt và nhất quán trong toàn bộ hệ thống tư tưởng HCM nói chung và là
cơ sở cho chiến lược của Đảng ta, nhờ đó mà đã dẫn tới những thành công của cách mạng Việt Nam trong cách mạng
dân tộc dân chủ và XHCN.
Tư tưởng ĐĐK HCM được hình thành trên cơ sở truyền thống đoàn kết, nhân ái, tình cảm trong lối sống tự nhiên
và triết lý nhân sinh của người Việt Nam. Đoàn kết dựa vào dân là tư duy chính trị và là kế sách giữ nước của ông
cha ta (biểu hiện trong thơ các văn học), và HCM đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng văn hóa của phương đông
có giá trị hợp lý như: tư tưởng nhân ái, tư tưởng đại đồng, tinh thần từ bi bác ái và những trào lưu dân chủ tư sản
phương tây về tư tưởng tự do bình đẳng, bác ái. Mặt khác HCM tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết và tập hợp lực lượng. Người đã thấm nhuần quan điểm cách mạng của
Mác: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cho nên cách mạng muốn mạnh
phải đoàn kết các dân tộc, các giai cấp và các tầng lớp khác thành lực lượng hùng mạnh để chống thực dân đế quốc
và áp bức bất công. Những quan điểm này được đúc kết thành các khẩu hiệu trong phong trào cộng sản như “GCVS
và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”.
Xuất phát từ thực tiễn XH Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX lúc này XH bị phân hóa sâu sắc, các
giai cấp khác thì có thái độ khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc, thực dân Pháp dùng chính sách chia rẽ để tự
làm cho mâu thuẫn XH gay gắt thêm. Phong trào quần chúng chống pháp của Việt Nam lúc này rất sôi nổi nhưng
đều thất bại (hệ tư tưởng phong kiến, tư sản dân chủ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…). HCM đã khảo sát tình hình
thế giới và đi đến kết luận rất quan trọng gắn liền với tư tưởng ĐĐK: trên thế giới có hai loại người là người bóc lột
và người bị bóc lột, họ có cùng cảnh ngộ, cùng tâm tư nguyện vọng. Vì vậy, họ đoàn kết lại với nhau để chống kẻ
thù chung. HCM cho rằng các phong trào giải phóng dân tộc chưa thành công là do các nước thuộc địa chưa đoàn
kết trên phạm vi toàn thế giới, HCM đã nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như Công xã Paris
(1871), vì tổ chức không khéo léo, không liên lạc với dân cày nên họ bị thất bại; còn cuộc cách mạng tháng Mười
Nga (1917) dạy chúng ta muốn cách mạng thành công phải dân chúng là gốc. Mặt khác tư tưởng ĐĐK HCM được
hình thành từ những nhân tố chủ quan của Người như môi trường giáo dục của gia đình, tư chất thông minh, bản lĩnh
chính trị vững vàng và tính năng động sáng tạo của HCM, Người sớm tiếp thu với các nhà tiền bối yêu nước (Phan
Chu Trinh, Phan Bội Châu…), có tinh thần phấn đấu vươn lên không ngừng trong học tập. Trong nắm bắt tri thức
của Người, HCM có bản chất nhân văn, đạo đức trong sáng, lòng rộng lượng bao dung, lo cho dân, lo cho nước, yêu
thương con người và có sức thu hút rất lớn với mọi người, thu hút được sức mạnh ĐĐK.
Tư tưởng ĐĐK HCM định hướng cho việc xây dựng củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự
nghiệp đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải phóng con người. Đoàn kết là truyền thống quí báu
của dân tộc ta, đã được HCM nâng lên tầm cao mới “Đoàn kết, ĐĐK, thành công đại thành công”, ở đây muốn nói
lên phạm vi và đối tượng ĐĐK rất rộng, nhiều tầng, nhiều lớp.
Đối với Đảng, thì việc đoàn kết trong Đảng là nhân tố hạt nhân của mọi sự đoàn kết, vì Đảng là người lãnh đạo
toàn diện, chỉ có đoàn kết nhất trí cao trong Đảng thì mới có thể tập hợp đoàn kết các tầng lớp khác. Đây là một
quan điểm luôn được HCM quan tâm và đã khắc ghi trong di chúc thiêng liêng của Người “Đoàn kết là cực kỳ quí
báu của Đảng ta. Các đồng chí từ TW đến cơ sở phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”.
Đoàn kết trong nước (toàn dân) là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, đoàn kết toàn dân là đoàn kết tất
cả những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, đảng phái, lứa tuổi… thể hiện trong đường
lối tập hợp lực lượng, xác định lực lượng cách mạng rất rộng rãi, bao gồm không chỉ nhân dân, công nhân, nông dân
mà còn cả tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc được biểu hiện thông
qua lời kêu gọi toàn dân (đặc biệt là lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến).
Tư tưởng đoàn kết quốc tế được HCM rất coi trọng, mặc dù yếu tố nội lực là chính, nhưng cũng phải đoàn kết với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đoàn kết với phong trào hòa bình, dân
chủ thế giới. Bởi vì trong thời đại mới, kẻ thù mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước là một bộ phận hữu cơ của
cách mạng thế giới, cho nên lực lượng cách mạng không thể là một lực lượng của một dân tộc mà là phải có lực
lượng to lớn của quốc tế đồng tình ủng hộ.
Tư tưởng ĐĐK HCM phải được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Trong XH, dân tộc và quốc tế có rất nhiều mối quan hệ lợi ích chồng chéo:
giữa cá nhân và tập thể, giữa gia đình và XH, giữa bộ phận và toàn thể, giữa giai cấp và dân tộc, giữa quốc gia và
quốc tế. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích này sẽ dẫn đến có đoàn kết hay không đoàn kết. Giải
quyết đúng mối quan hệ dân tộc, giai cấp HCM phát huy những điểm tương đồng để tập hợp lực lượng cách mạng và
khắc phục những hạn chế, những điểm khác biệt và mâu thuẫn giữa các quốc gia và các bộ phận. Tư tưởng ĐĐK
HCM dựa vào dân, tin tưởng vào dân, vai trò và khả năng cách mạng của nhân dân, trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân, cho nên Đảng và Nhà nước ta phải dựa vào dân, phải lấy dân làm gốc và coi
nhân dân là mục tiêu của đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Tư tưởng ĐĐK toàn dân HCM được xây dựng
trên nguyên tắc lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì nó đảm bảo tính giai
cấp của khối ĐĐK, bảo đảm lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên cơ sở liên minh công nông làm
nòng cốt. Liên minh công nông còn là xương sống của khối ĐĐK, nhằm đảm bảo vững chắc của khối ĐĐK dân tộc.
Khối ĐĐK của chúng ta là một tập hợp các lực lượng XH có định hướng chính trị rõ rệt và có tổ chức chặt chẽ, tổ
chức cao nhất là mặt trận dân tộc thống nhất có sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam, nó vừa là vấn đề lâu dài và
chiến lược, nhưng cũng không được tuyệt đối hóa vai trò liên minh và mặt trận.
Tư tưởng ĐĐK HCM được xây dựng trên các ph.pháp cụ thể sau:
Phương pháp tuyên truyền giáo dục và vận động quần chúng: yêu cầu phương pháp này là nội dung, cách thức
tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng phải thật sự khoa học nhằm mục đích làm cho mọi người tự nhận
thức được sự cần thiết phải tập hợp lại, đoàn kết lại để tự giác tham gia gánh vác công việc của cách mạng. Vì muốn
cho dân làm cách mạng phải cho dân hiểu, dân tin và vận động quần chúng thì phải nói đi, nói lại nhiều lần. Nội
dung tuyên truyền phải cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng và của Nhà nước thành những mục tiêu chính trị
cụ thể để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, nội dung phải sát hợp đối tượng nhằm đánh vào tâm lý thói quen,
công việc tuyên truyền phải thích hợp, cách nói và cách viết phải cụ thể làm cho nhân dân dễ hiểu.
Phương pháp XD và kiện toàn hệ thống chính trị tức là xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất từ thấp đến cao phù
hợp với trình độ của quần chúng nhân dân. Mặt trận là tổ chức rộng rãi liên quan đến việc tập hợp, đoàn kết dân tộc.
Do vậy mặt trận dân tộc càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối ĐĐK mạnh mẽ và bền chặt bấy nhiêu,
mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, có ch.trình hành động rõ ràng đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của
nh.dân, cán bộ đoàn thể phải gương mẫu, phải yêu dân, tin dân, học hỏi nhân dân và kính trọng nhân dân.
Phương pháp kế hoạch đồng bộ các giải pháp ứng xử nhằm mở rộng tối đa lực lượng cách mạng và thu hẹp tối đa
lực lượng đối địch. Theo HCM, chia lực lượng thành ba tuyến (tuyến cách mạng, tuyến trung gian và tuyến phản
cách mạng). Đối với lực lượng cách mạng phải phát huy điểm tương đồng để tập hợp lực lượng; đối với lực lượng
trung gian phải khơi gợi lòng yêu nước, xóa bỏ mặc cảm, hợp tác và trọng dụng họ một cách trung thành; đối với lực
lượng phản cách mạng phải chia rẽ, phải phân tán họ để thu hút những bộ phận nào có thể thu hút được.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 70 năm qua thể hiện sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng ĐĐK
HCM. Từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược ĐĐK của Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh
của cả dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc sâu xa của thắng lợi trong cách mạng Tháng 8 năm 1945, kháng chiến
chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
Bước vào c.cuộc đổi mới, ĐCS Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
của tư tưởng ĐĐK HCM.
Đặc biệt là hơn 15 năm đổi mới vừa qua càng cho phép Đảng và nhân dân ta nhận thức rõ ràng, lúc nào, nơi nào
tư tưởng ĐĐK HCM được quá trình và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ thuận lợi;
lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng ĐĐK HCM thì khi đó, nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Đường lối,
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta thể hiện sâu sắc sự quá trình tư tưởng ĐĐK HCM: “thực hiện ĐĐK các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần KT , mọi giới , mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong
Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu
nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập , thống nhất , vì dân giàu, nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi
ích chung của dân tộc , xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, hướng tới tương lai. Khối ĐĐK
toàn dân trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững
chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.