CHUYÊN ĐỀ
Dân ca sinh hoạt của người Thái ở Thanh Hóa
ThS. Ngô Xuân Sao
Trường Đại học Hồng Đức
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong kho tàng văn học dân gian, ca dao dân ca là một trong những bộ phận
chiếm số lượng lớn, quan trọng, thể hiện tâm hồn, bản sắc văn hóa của các dân
tộc. Ca dao, dân ca phản ảnh những tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người
với thiên nhiên, quê hương, đất nước, với ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, với
những người thân yêu...
Dân ca sinh hoạt là hình thức phổ biến trong văn hóa dân gian Việt Nam nói
chung, văn hóa Thái nói riêng. Dân ca sinh hoạt của dân tộc Thái rất phong phú,
đa dạng, mang tính hệ thống tương đối chặt chẽ, luôn gắn với diễn xướng và
mang đậm yếu tố địa phương
Dân ca sinh hoạt của người Thái ở Thanh Hóa có các loại như “Lăm”,
“Nhuôn” của người Táy Dọ vùng Thường Xuân, Như Xuân, “Khặp” của Tày
Mươi ở các vùng Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Lang Chánh, Bá Thước...
Qua khảo sát, nghiên cứu các vùng của người Thái sinh sống chúng tôi thấy
“Lăm”, “Đuôn” (nhuôn) không phổ biến trong dân ca sinh hoạt của người Thái
ở Thanh Hóa. Phổ biến và sử dụng rộng rãi, lưu giữ nhiều sắc thái văn hóa mang
đậm yếu tố bản địa của dân tộc Thái ở Thanh Hóa là các làn điệu khặp.
Chính vì vậy, trong chuyên đề này chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu
tìm hiều dân ca sinh hoạt của người Thái Thanh Hóa qua dân ca “Khặp”.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.
Môi trường tự nhiên, xã hội của người Thái ảnh hưởng tới dân ca
sinh hoạt
1.1. Người Thái là một trong những dân tộc cư trú lâu đời bên các dân tộc
Mường, Kinh ở Thanh Hoá. Vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước từ lâu
đời, người Thái thích sống cuộc sống ổn định “Tắng chặng kin pà, phừa na kìn
kháu”, nghĩa là “chặn nước ăn cá, làm ruộng ăn cơm” và làm nương dưới chân
đồi núi đá, làm ruộng dưới chân bản”. Bản người Thái định cư theo ruộng, có
thể có nhà phụ du canh theo rẫy. Con trâu là loại gia súc chủ yếu. Vừa dùng để
cày bừa, vừa để làm thịt, cúng tế, vừa bán lấy tiền, Bò dê, ngựa còn hạn chế vì
không có khả năng tự vệ trước sự tấn công của thú dữ. Nghề trồng lúa nước
trong các cánh đồng dọc theo thung lũng, sông, suối đã phát triển ở mức độ kỹ
thuật khá cao. Người Thái đã tích luỹ được một kho tàng kinh nghiệm về nước,
phân, cần, giống. Thời xa xưa, người Thái chỉ làm ruộng mỗi năm một vụ, vào
vụ mùa (từ tháng năm đến tháng mười) mà vẫn đủ lương thực để ăn quanh năm.
Còn vụ chiêm ít làm vì vụ chiêm xuân hay bị giá rét, ngại cày bừa. Về sau, do
nhu cầu lương thực tăng, người Thái đã làm ruộng mỗi năm 2 vụ, trong đó
ruộng thấp canh tác quanh năm, ruộng cao, bậc thang chỉ làm 1 vụ.
Sản phẩm nông nghiệp tương đối phong phú. Có nhiều giống lúa trồng ở
ruộng, rẫy. Mặc dù bữa ăn của người Thái chủ yếu dùng cơm nếp, nhưng lúa
gạo làm ra có đủ nếp, đủ tẻ, có nhiều loại thơm ngon như nếp cái, nếp cẩm, tám
thơm...Nhiều cánh đồng khá rộng, hàng trăm mẫu được coi là kho lúa nuôi sống
dân mường như: Mường Ký, Mường Lau, Mường Khoòng, Mường Mo, Mường
Mìn, Mường Khăng...
Do cộng cư lâu dài với các dân tộc khác như Mường, Kinh, Khơ Mú, Dao,
Thổ... văn hóa vật chất và phi vật thể người Thái Thanh Hóa có đặc điểm nổi bật
là:
- Giữ gìn được những nét chung nhất của cộng đồng người Thái Việt Nam
và người Tày – Thái cổ Việt Nam.
- Hình thành bản sắc địa phương về cả hình thức thể hiện, ngôn ngữ và
nội dung gắn với lịch sử, địa danh cụ thể trên vùng đất xứ Thanh.
- Văn hóa người Thái Thanh Hóa có sự giao thoa, hòa quyện với văn hóa
Mường - Việt, trực tiếp là nhóm Mường trong. Do quá trình hòa nhập đã diễn ra
hàng nghìn năm, hầu hết các lĩnh vực sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần của
người Thái và người Mường Thanh Hóa có nhiều mô típ tương tự nhau, không
còn phân biệt được nguồn gốc từ Mường hay từ Thái. Ví dụ như: Tập quán canh
tác ruộng nước, nương rẫy, ẩm thực, nhà ở, thuốc nam, y phục, tín ngưỡng, lễ
tục, thiết chế bản mường, nhạc cụ, múa hát... Riêng tiếng nói và chữ viết thì
không lẫn. Xét về mặt hình thức thì người Thái Thanh Hóa có nhiều nét giống
người Mường Thanh Hóa hơn là Thái Tây Bắc. Người Mường Thanh Hóa giống
người Thái hơn người Mường Hòa Bình – Phú Thọ.
- Người Thái Thanh Hóa có ký ức về văn hóa Chăm Pa, Lào và nhóm
Thái Phủ Quỳ (Nghệ An) nhiều hơn Tây Bắc.
1.2. Người Thái Thanh Hoá có tiếng nói, văn học dân gian, đặc biệt là
thần thoại, cổ tích gần gũi với người Thái ở Việt Bắc. Trong quan niệm của
người Mường cổ Thanh Hoá, người ta gọi người Thái và người Lào là một.
Người Thái ở Thanh Hoá thì ý thức rằng, phía dưới có người Kinh, phía trên có
người Lào, người Xá; người Lào là anh (gọi là Ái Lào), người Kinh là em út
(gọi là Lá Lúa). Ở Thanh Hoá không còn khái niệm về Thái đen, Thái trắng. Chỉ
phân biệt hai nhóm chính là nhóm ít hơn sinh sống dọc sông Chu gọi là Tày Dọ
và nhóm lưu vực sông Mã gọi là Tày Mươi. Thực tế tên Tày Dọ và Tày Mươi
không phải tự danh mà do nhóm kia đặt cho. Hai nhóm này có một vài đặc điểm
khác nhau về tiếng nói, y phục và sinh hoạt văn hoá. Nhóm Tày Dọ sông Chu
gắn với bộ phận ở Tương Dương (Nghệ An), có nhiều nét giống người Thái
trắng Sơn La - Lai Châu. Còn nhóm sông Mã, có số lượng đông, địa bàn rộng
hơn, cùng chung nhóm này có cả Mai Châu (Hoà Bình), Sầm Nưa (Lào) và Tày
Thanh (Nghệ An). Người Lào gọi nhóm này là Tày Đenh (thực tế người ta nhầm
Mường Đenh thuộc Lang Chánh với nhóm người Thái, Thanh Hoá).
Từ thời Hùng Vương và An Dương Vương (Thiên niên kỹ thứ I trước công
nguyên) Nhà nước Văn Lang và Âu Lạc hình thành trên địa bàn miền Bắc nước
ta mà chủ nhân cơ bản là tộc người Mường Việt và Tày Thái. Ba lưu vực sông
cái (lớn) là sông Hồng, sông Mã, sông Cả (Tiếng thái: Sông Hồng gọi là Nặm
Tao, sông Mã là Nặm Mã, sông Cả là Nặm Pao) là địa bàn cư trú của người Lạc
Việt. Đặc biệt sông Mã có nhiều di tích lịch sử từ thời đồ đá (Núi Đọ, Hang Con
Mong, Mái đá điều, Hang Điền Hạ); thời kỳ đô đồng nổi tiếng (Đông Sơn, Đa
Bút....). Rất có thể người Thái đã có mặt trên mảnh đất của mình thuộc lưu vực
sông Chu, sông Mã Thanh Hoá. Trong thời kỳ bắc thuộc, người Thái đã nhiều
lần nổi lên chống lại các quan lại phong kiến Trung Quốc sang cai trị nước ta. Bị
đàn áp, người Thái phải chạy ngược theo các dòng sông lên miền núi cao thượng
nguồn, lập bản mường mới. Sau đó người Mol (Mường) ở lại tiếp tục mở mang
làng xóm.
Thời kỳ thứ hai, có thể khẳng định chắc chắn được. Sau khi đánh đuổi quân
xâm lược phương bắc, Nhà nước phong kiến Việt Nam xây dựng chế độ Trung
ương tập quyền, mở rộng bờ cõi về phía nam và xác định ranh giới về phía tây,
người Thái đang sống trong các khu vực cát cử (theo đơn vị Mường) tình
nguyện gia nhập quốc gia Việt Nam. Những bộ phận phiêu bạt về phía tây có
thời cơ quay trở lại nơi đất đai màu mỡ, khang trang. Nhưng lúc này người
Mường và người Xá đã có mặt từ trước. Người Thái tiếp tục khai phá các thung
lũng trên cao để lập bản, làm ruộng và tiến sâu xuống các thung lũng sông,
xuống xen kẽ với người Mường. Người Xá thì nhường bộ, dần dần rút về phía
tây. Khi nước Lạn Xạng (Triệu voi) hình thành thì toàn bộ địa bàn người Thái
Thanh Hoá hiện nay nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Thời kỳ kháng chiến chống
quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo, vùng người Thái Thanh Hoá là căn cứ kháng
chiến của nghĩa quân Lam Sơn. Đồng bào cống hiến nhiều người, nhiều của để
củng cố lực lượng nghĩa quân trong thời kỳ hiểm nguy nhất.
Qua dấu tích về các nghĩa địa cổ (héo) và các tên địa danh. Người Thái đã
từng định cư thành từng quần thể theo sông Mã đến tận Eo Lê (ranh giới giữa
Cẩm Thuỷ - Vĩnh Lộc), theo sông Chu đến vùng Mã Cao (giáp giới Yên Định Ngọc Lặc). Sau đó, do một số biến cố lịch sử, người Thái lại chuyển đi nơi khác
hoặc hoà đồng vào cộng đồng người Mường, lấy họ của người Mường, nói tiếng
Mường.
Trong quá trình lịch sử, người Thái ở Thanh Hoá đã nhiều lần tiếp nhận các
cụm di dân từ Tây bắc vào, và cũng từ đây di chuyển đến phía nam (vào Nghệ
An) và phía Tây (sang Lào). Gia phả và lời mo đưa hồn trở lại quê cũ của một số
dòng họ còn xác định một số cuộc di cư.
Ở vùng Thường Xuân, lang đạo họ Cầm dẫn người di cư từ Tây Bắc qua địa
phận Lào vào lập nghiệp dọc theo sông Chu, lấy Chiềng Vạn làm nơi trung tâm,
đến đời Cầm Bá Thước là đời thứ 13. Ở vùng Bá Thước do họ Hà (Khà) di cư từ
mường Hạ (Mai Châu – Hòa Bình) vào từ thế kỷ XV
Ngoài ra còn một số trường hợp cá biệt do loạn lạc hoặc trốn chủ từ Mường
Lự, Mường Lào chạy đến trú ngụ; và một bộ phận nhỏ người Mường từ Hoà
Bình, người Kinh từ dưới xuôi đến nhập cư lâu đời đã bị Thái hoá.
Ngược lại từ Thanh Hoá, người Thái đã từng dịnh cư trong nội địa từ Tây
Bắc xung Đông Nam đến tận Như Thanh, Tĩnh Gia.
Ở vùng Thượng Lào, nhiều nhất là Tỉnh Hủa Phăn, dân cư Thái có tên là
Phu Thay hay Tay Đenh chiếm tỷ lệ cao, phần lớn có nguồn gốc từ Thanh Hoá.
Theo truyền khẩu thì có 3 đợt loạn lạc phải di cư hàng loạt. Đó là thời Khun Mín
Khun Hon (Vạ Lông Nhím) xảy ra vùng Mường Muần (Mường Ký ngày nay);
tiếp đến là thời Ngua Khàu Lệch Khàu Tong (Bò sừng sắt sừng đồng) xảy ra ở
vùng Mường Ca Da (Quan Hoá) và thời Văn Thân, sau thất bại của phong trào
yêu nước chống Pháp do thủ lĩnh Cầm Bá Thước (Thường Xuân) và Hà Văn
Nho (Bá Thước) lãnh đạo.
Như vậy, xét về mặt lịch sử, người Thái Thanh Hoá được hình thành và phát
triển từ một nhóm Tày, Thái cổ bản địa, trải qua nhiều biến cố lịch sử, được bổ
sung thêm một bộ phận từ nhiều địa phương Phía Bắc vào, đồng thời tiếp cận
với người Mường, người Kinh, Người Khơ Mú, xung quanh và giữ mối liên hệ
thường xuyên mật thiết với khối đồng tộc Tây Bắc, Thượng Lào, Nghệ An. Do
vậy, về huyết thống và văn hoá có sự hoà đồng của nhiều yếu tố, từ đó tạo nên
dân ca sinh hoạt của người Thái ở Thanh Hóa vừa mang đặc trưng Thanh Hoá,
vừa phản ánh tính chất chung của cộng đồng Thái Việt Nam, và sự tiếp nhận,
giao lưu với người Mường Việt.
2. Dân ca sinh hoạt của người Thái ở Thanh Hóa
2.1. Khái quát về dân ca sinh hoạt - khặp của người Thái ở Thanh Hóa
N hư đã trình bày ở phần trên, dân ca của người Thái ở Thanh Hóa chủ yếu
là khặp. Nói đến dân ca Thái Thanh Hóa cũng là nói đến khặp. Khặp hoặc khắp
là một loại hình dân ca của người Thái. Khặp có nghĩa là hát, khặp để kể lể tâm
tình, để tường thuật câu chuyện, để động viên nhau trong lao động thường ngày,
để vui chơi thăm hỏi, chúc tụng và đặc biệt là hát giao duyên. Những nhạc cụ
đệm cho lời khắp gồm khèn bè, các loại pí: pí ló, pí pặp, pí thiu, mắc hính, tính
tẩu.. Nét riêng trong khắp Thái ở Thanh Hóa thường mở đầu bằng một cụm từ
quen thuộc “Yêu đu lắm ne!” .
Là một thể loại hát dân gian nên các điệu khắp, lời khắp cũng từ xưa truyền
lại, sau này thế hệ con cháu phát triển thêm nhiều bài thơ, bài khắp mới làm
phong phú thêm kho tàng văn hóa của dân tộc mình và cũng để biểu lộ nhiều
cung bậc cảm xúc khác nhau, lứa tuổi khác nhau.
Khắp đối đáp giữa nam và nữ rất phổ biến. Ở mỗi địa phương cũng có một
làn điệu khắp riêng mà mọi tầng lớp nhân dân trong bản Thái đều biết.
2.2. Phân loại khặp
Theo Địa chí Thanh Hóa
(1)
Đến nay hầu như chưa có sự phân loại nào để
giúp ta có cái nhìn tổng quát về toàn bộ kho tàng khặp ở Thanh Hoá, có khi
người ta dựa vào các vùng, các địa phương để gọi các loại khặp. Nếu là người
Thái ở Lang Chánh hát thì gọi là khặp mường Chánh, ở Bá Thước thì gọi là
khặp Mường Kỷ, mường Khoòng... Đi thuyền trên sông Mã mà hát thì gọi là
khặp Lóng Má, trên sông Chu gọi là khặp Lóng Xăm.
Ngay ở một bản mường, người ở mạn dưới hát thì gọi là khặp poọng tớ, ở
mạn trên hát thì gọi là khặp poọng nưa. Những bài hát của đôi trai gái ngồi bên
nhau tình tự thì gọi là khặp xon láy. Trong buổi sinh hoạt mang tính cộng đồng,
vui vẻ, nhiều âm thanh náo nhiệt, khi hát cần cao giọng cho tiếng hát vang xa thì
gọi là khặp ơi. Có khi người ta còn căn cứ vào người hát là đàn ông hay đàn bà
mà phân biệt. Trong một buổi diễn xướng làm Chá hay làm Chiêng (tương tự
(1)
Địa chí Thanh Hóa tập II, Nxb KHXH, năm 2004. Tr.130-131
như đám hội nghi lễ ở vùng miền xuôi) bà Tày hát thì gọi là Khặp một, ông mo
hát thì gọi là Khặp mùn.
Khặp Thanh Hóa có thể phân thành các loại như sau:
a. Khặp nghi lễ: khắp mo (trong đám tang), khắp mùn, khắp mốt (trong cầu
cúng làm vía) (Xem thêm trong chuyên đề Dân ca nghi lễ)
b. Khặp trong sinh hoạt vui chơi của người Thái chỉ có khắp xự và Khắp ơi
Khắp xự là khắp kể chuyện. Người Thái có nhiều truyện thơ như Khăm
Panh, Ú Thêm, Khun Lủ nàng Ủa...Khi kể chuyện thơ cho người khác nghe thì
phải dùng “khắp xự”
Khắp ơi là hát vui chơi, chủ yếu hát giao duyên đối đáp nam nữ giống như
hát ghẹo của dân tộc Kinh, Xường trai gái của người Mường
Khắp ơi của người Thái Thanh Hóa rất phong phú về lời ca, phổ biến rộng
rãi trong tất cả các bản của người Thái.
Khắp ơi được vận dụng nhiều trong sinh hoạt hàng ngày. Lúc một mình
hay lúc làm lên rừng chặt cây đốn củi, hoặc ra nương cuốc đất làm rẫy người
Thái lại khắp lên để động viên an ủi, để giảm bớt mệt nhọc, cô đơn, để gửi hồn
mình theo gió theo mây, với núi với rừng, với thiên nhiên cây cỏ. Có khi từng
nhóm trai gái làm nương rẫy họ vừa làm vừa khắp, đối đáp với nhau giống như
hát lẻ trong hát ghẹo ở miền xuôi. Đặc biệt trong những cuộc rượu cần có đông
đủ dân bản thì khắp ơi được vận dụng để hát chúc rượu, hát vui chơi trong tiếng
trống, tiếng khèn, sáo, tiếng cồng chiêng, khua luống. Khắp ơi còn sử dụng phổ
biến trong khắp trai gái giao duyên, kể lể tâm tình.
2.3. Giá trị của dân ca (khặp) của người Thái
Khặp là một loại dân ca có những đặc điểm riêng. Khặp không có thủ tục
như hát quan họ, hát ghẹo, hát đúm; không có thể thức riêng như lối hát lẻ, hát
cuộc. Khặp không phải một nghề nghiệp, một sinh hoạt riêng như hát phường
vải, hát phường cấy, hay các loại hò chèo thuyền, hò dô cộ. Khặp cũng không
phải chủ yếu là trữ tình như Xường. Khặp có những lời như ca dao, nhưng
thường không phải là hát lẻ từng câu, mà thành bài, tuy nhiên nội dung những
bài ấy lại vượt quá xa yêu cầu của ca dao.
Những bài khặp là niềm vui, là món ăn tinh thần của người dân Thái. Họ
không thể làm mà không hát. Ở đâu cũng vậy, người Thái luôn sống trong âm
nhạc để được giải thoát những cái mệt mỏi sau ngày làm việc vất vả, chăm chỉ
cần cù, họ tự tìm đến những giai điệu âm nhạc đơn giản, gần gũi và thân thiện
với mọi người nhất. Rồi tình yêu trai gái của những con người nơi đây thông qua
những bài khặp cũng mộc mạc, trinh nguyên chân chất nhưng cũng không kém
phần lãng mạn, đắm say. Ngôn ngữ của những bài khặp bằng tiếng Thái, cất lên
bằng tiếng Thái, do chính người dân sáng tác và tự biểu diễn. Điều đó không
lầm lẫn với bất cứ một loại hình âm nhạc nào khác. Hát khặp có một cái gì đấy
rất riêng, rất độc đáo đối với người Thái nói riêng với dân tộc ta nói chung.
Những lời hát thật đơn giản, nhẹ nhàng, chậm rãi không quá vội vàng mà vẫn
toát lên được âm điệu của nó.
Nội dung những bài khặp thường là ứng tác. Có những bài đã quen thuộc,
vẫn có thể sử dụng và thêm bớt tuỳ hoàn cảnh môi trường. Lời hát trong khặp là
những lời được sắp xếp có vần có điệu như những câu thơ. Chủ yếu là loại thơ 7
chữ, thơ 5 chữ, đôi khi có thêm bớt. Không thấy những câu lục bát hay tương tự
lục bát như thơ của dân tộc Kinh, và cũng khó gặp những bài kiểu bát cú, tứ
tuyệt như ở dân tộc Tày, vẫn thường gặp là vần lưng rơi vào chữ thứ ba, thứ năm
trong câu thơ bảy chữ. Vần chân thường đặt theo lối gieo vần gián cách song
nhiều khi chỉ chú trọng chuyển thanh hơn là gieo đúng vần. Lời khặp có thể hát
đơn ca, tốp ca. Âm điệu thường réo rắt, gợi cảm.
Qua khặp, tâm hồn, cuộc sống của con người Thái thể hiện với nhiều dáng
vẻ khá chân thật và sinh động.
Tập hợp những bài khặp “vòng đời” ta có cả một tập hồ sơ tư liệu dân tộc
học. Có ở đây quan niệm về sự ra đời của con người từ lúc mới hoài thai cho
đến trưởng thành, dựng vợ gả chồng, đau ốm, chết chóc… gạt bỏ đi những hình
ảnh hoặc chi tiết huyền thoại, hoang đường có đậm màu sắc mê tín qua các nhân
vật Mé Hang, qua các hành động cầu vía, gọi hồn, chúng ta thấy ở đây nhiều chi
tiết về những người mẹ mang nặng đẻ đau, những tục lệ cưới xin, chạm ngõ, hồi
môn, những dấu tích của sự giao lưu miền xuôi, miền ngược. Cái tình sâu sắc
nhất trong lòng người Thái là cái tình đối với đất nước, quê hương, không phải
chỉ ở bản nhỏ hắt hiu mà rộng ra khắp vùng xuôi ngược (hồn có đi qua cả một số
vùng đồng bằng Thanh Hoá), ở lời cầu mong hạnh phúc, lời khuyên bảo, nhắc
nhủ nhau bám chặt lấy đồng ruộng, bản mường.
Điều này còn được thấy rõ hơn trong các bài ca giao tiếp của người Thái.
Qua những lời khặp, con người hiện lên giàu tình nghĩa và rất lịch thiệp. Một
cuộc viếng thăm, một buổi đãi khách có ý nghĩa thật trọng đại, chỉ là một “tạo
út”, một “ trai then” đến chơi thôi - không phải là người quyền quý cao sang gì
mà được tiếp đón ân cần của toàn mường bản, sự xao động của cả chim chóc,
núi rừng. Một thành viên trong nhà chủ có bận đi đâu vắng thì cũng có đến “90
hồn bảo lại”, “50 vía bảo quay”. Dân tộc Thái là dân tộc có tấm lòng hiếu khách
hiếm có !.
Thông qua những bài khặp giao duyên giữa những đôi trai gái Thái. Ta
thấy toát lên những lời ca tâm tình tình, cháy bỏng yêu thương, tình cảm tha
thiết, thơ mộng. Con người và tình yêu gắn bó rất chặt chẽ, đắm đuối với thiên
nhiên. Thiên nhiên chắp cánh cho tình yêu, người yêu muốn ôm ấp lấy cả tạo vật
để thể hiện lòng mình, nhưng vẫn rất hiền hoà khiêm tốn. Cái chất giao duyên
trong khặp Thái là vậy.
Những bài “khặp thả” cũng giống như loại hát đố ta thường gặp ở vùng
xuôi, nhưng không có ở đây cách đối đáp để thử tài kiến thức hay để giao cảm.
Đố và giải trong Khặp thả thực sự là để giới thiệu nhân sinh quan. Người lao
động Thái đang trình bày cách sống, cách suy tư của họ. Thế nào là đẹp, là xấu,
là cay đắng, ngọt ngào, là oán ghét yêu thương.
Khặp Thái vừa đặc sắc vừa dân dã. Khặp là hình thức diễn tự nhiên, có sàn
diễn cũng như không cần sàn diễn, trên nương đồi, trong đêm vui hay đi một
mình… tiếng khặp có thể khởi xướng mọi nơi mọi lúc, kể cả niềm vui và nỗi
buồn đều có thể cất lên thành lời. Chính vì thế, đến nay trên núi rừng vùng núi
Thanh Hoá, không kể tuổi tác, giới tính … tiếng khặp vẫn tồn tại, đi vào lòng
người.
Tất cả những làn điệu trong khặp, dù nói lên tâm trạng nào, trong hoàn
cảnh nào, dù khặp một mình hay khặp đối đáp đều chan chứa, thấm đượm và
ngọt ngào tình yêu thiên nhiên, bản mường, tình yêu giữa người với người, giữa
nam với nữ. Thực ra những làn điệu đó, những lời tâm tình ấy không cần đợi
đến khi đã lớn, đã đến tuổi yêu người Thái mới được biết đến mà từ thuở còn
nằm nôi, các ông, các bà, các chị đã rót vào giấc ngủ trẻ thơ những bản tình ca
mượt mà.
Một trong những điệu hát dân ca được cộng đồng Thái nâng niu, truyền
miệng nhiều nhất là khặp tua. Khặp tua nghĩa là gọi nhau đi hát, đến hội hát đối
đáp. Lối diễn xướng cộng đồng, trí tuệ tập thể được chọn lọc từ trí tuệ từng
thành viên nghệ nhân.Khắp tua được diễn xướng với những sinh hoạt trong đám
cưới, làm nhà, mừng nhà mới, làm vía, họp họ... Có khắp tua ngoài trời, khắp
tua trong nhà, khắp tua trên nương rẫy, khắp tua ngoài ruộng lúa, khắp tua đi
chăn trâu, khắp tua dệt cửi…Khắp tua cổ truyền nhất và độc đáo nhất là được tổ
chức đám hát ngay trong nhà sàn Thái, ngôi nhà của chủ đám vui. Đám vui được
bày mâm, bát, có quy ước về thể lệ cuộc đua tranh hát hay, giọng ngọt. Khắp tua
được tuân theo tiến trình là hát từng chặng. Khặp trong đám cưới cũng tuân theo
quy luật ấy.
Những tâm tình của người Thái dù đi đâu về đâu hay làm công việc gì, lúc
lên nương hay ra đồng, lúc ra suối hay ở nhà dệt cửi…họ đều có thể khặp, khặp
để vơi đi nỗi niềm. Vui cũng khặp mà buồn cũng khặp. Người Thái thích khặp
để trang trải nỗi lòng hơn là nói, chỉ có lời khắp và âm điệu của các bản tình ca
ấy mới đủ sức truyền tải hết độ rung động tâm tình của họ và chỉ có qua lời khắp
họ mới được an ủi, mới có thêm niềm tin, hy vọng vào cuộc sống.
2.4. Một số phương diện chính trong dân ca (khắp) sinh hoạt của người
Thái Thanh Hóa
2.4.1. Khắp trong hôn nhân
2.4.1.1.Khắp giao duyên
Nét độc đáo trong khắp trai gái của người Thái là: chỉ diễn ra thành cặp đôi
nam nữ. Một trai, một gái đã ưng nhau và đang tiến tới muốn xây dựng gia đình.
Cả hai mượn tiếng khặp vừa để tỏ tình vừa giãi bày với nhau thay cho lời nói
thông thường. Khặp giao duyên của người Thái là bản tình ca của đôi trai gái
truyền lại từ nhiều đời và vẫn được các thế hệ sau tiếp tục khặp.
Trình tự các chặng trong khắp giao duyên:
a) Dạo đầu - khắp xin được vào chào hỏi bố mẹ, anh em
b) Chào mừng – khắp mừng. Chàng trai khắp ca ngợi bản mường, chúc sức
khoẻ người già, cha mẹ, chú bác, họ hàng nhà cô gái...đến khi trời đã
khuya, bố mẹ cô gái đã đi ngủ nhường lại sàn nhà bếp lửa cho đôi trai gái
đến lúc này họ mới khặp tình yêu.
c) Khắp yêu: cô gái bưng đĩa trầu, ngồi cạnh chàng trai và cất tiếng khặp. Từ
đây khắp là những lời thủ thỉ tâm tình, hai bên đối đáp qua lại, gửi cho
nhau những lời yêu thương đắm đuối, tha thiết mặn nồng
d) Khắp thề nguyền
“không yêu nhau quả táo chín ăn chẳng trôi,
Đã yêu nhau thì chòa rào gai cũng nuốt được”
e) Khắp tạm biệt: trời gần sáng đôi trai gái tạm biệt
“Con gà đã gáy sang canh,
Gáy ba gáy tư là trời gần sáng
Anh xin ra về,
Chào em ở lại”
* Sau đây xin khảo tả một bài khặp trong hôn nhân của người Thái - Tày
Dèng sưu tầm ở Yên Thắng, Yên Khương Lang Chánh.
Bước 1: Khặp ướm hỏi:
Điệu khặp này được cất lên trong thời kỳ chàng trai và cô gái tìm hiểu
nhau:
Chàng trai cất lời ướm hỏi:
1. Hỏi thăm
Nam:
Không phải tôi từ nhà sòng sọc đến đây để tán
Không phải tôi từ bản sòng sọ tới đây để thưa
Tôi chi mong cởi mở lòng mình cho khỏi đắng
Trang trải lòng mình cho khỏi buồn
Nghe tin chuyền trong bản trong mường
Tin rằng có quả bưởi rơi đến bản
Có quả “xán” rơi đến mường
Có con gái vua Long vương lạc đường đến trú
Người đến hôm nay hay đến hôm qua?
Đến hôm qua tôi đang đi rẫy
Đấn hôm nay tôi đang đi ruộng
Chim sẻ hay chim sẻ đến mách
Chim chích hay chim chích đến thưa
Chim khướu đen, khướu hoa đến báo
Chim “én cậu” đến báo tin thêm
Anh liền bỏ “chóp” cán “mạy láy” trên rẫy chạy
Bỏ bừa cây “xum” cây “xa” bên “nà” chạy tới
Anh mới vội về nhà
Bước qua vụng nước mát
Tạt vào bến nước trong
Rửa mặt, rửa tay, trở gót lên nhà
Chị trong nhà dọn mâm cơm ra
Cô trong nhà dọn mâm cơm tới
Vừa ăn vừa lường ý hỏi
Nghe nói cá “tệt” lên sông Chu hàng đống
Ca bống lên sông Mã hàng đàn
Ai có chài, có lưới đi quăng
Anh ước có đôi lưới nhỏ đi giăng hai đầu vụng nước
Giữ cá lại để được làm quen
Anh mon men xem người vào bản
Chị trong cửa mang bọc quần áo ra
Cô trong nhà mang khăn áo tới
Anh thay áo, ngắm mình, đi tìm rủ bạn
Xuống nhà dưới rồi tới nhà trên
Tìm bạn được bạn vừa đôi
Tìm người được người cùng lứa
Rủ nhau cùng tới
Đến sân thấy bố trong nhà ngồi cửa sổ đan chài
Mẹ trong nhà quay sa kéo sợi
Thấy người mới đến ngồi sàn
Anh muốn chào dưới sân, lo là không sang
anh muốn chào từ cầu thang sợ là không trọng
Anh chào trên giường, trên phản mới quý nhau
Người đến à, mặc áo hoa cà
Người đến à, mặc áo hoa sung
Người mặc áo nhung, áo lụa ngọc ngà
Sáng sủa. nết na như con nhà chúa
Hay phải con vua ở nước nào về ?
Về đường sông hay đến đường đồng
Đi đường sông anh xin hỏi thăm cá
Đi đường nà anh xin hỏi thăm lúa, thăm cơm
Hỏi thăm lúa “cao hộc” có còn đủ hái
Nếp cái “cai cá” có còn đủ cắt
Vịt chân sắt viền vàng có còn ra ruộng
Dê sừng nhọn chân thiếc nạm bạc, chân thiếc nạm vàng
Đũa đặt ra còn đủ mâm cơm
Bố mẹ anh em còn bình yên tất cả ?
Chàng trai bày tỏ với cô gái nỗi tâm tình muốn được làm quen tìm hiểu cô
gái cho nên đã khặp những lời ca, cùng nói chuyện và hỏi thăm gia cảnh.
Cô gái khắp đáp lời:
Chọn lời đẹp gái thưa
Tìm lời thương gái nói !
Cảm ơn nhiều, cảm ơn nhiều lắm
Cảm ơn vì tôi đến nhà có người danh giá hỏi thăm
Mình đi tới nơi có người tới hỏi
Hỏi thăm lúa “cai hộc” em không hề cấy
Hỏi thăm lúa “cai cá” em không hề trồng
Đũa đặt ra còn đủ quanh mâm
Bố mẹ, anh em bình an tất cả
Lời khặp của cô gái cũng là câu trả lời của cô gái với chàng trai: Bố mẹ,
anh em còn đầy đủ và bình yên.
Tiếp theo là những lời trao tình trao nghĩa giữa chàng trai và cô gái, chàng
trai ngỏ lời mong muốn có được cô gái về làm vợ mình, để nhà cửa có người
chăm lo, nhưng do thẹn thùng hay vì xốn xang lòng, cô gái luôn khiêm tốn chối
bỏ lòng mong ước tốt đẹp của chàng trai và đưa vào đó những lời khiêm tốn,
nếu chàng trai lấy cô gái về thì chàng trai sẽ thêm chịu nhiều thiệt thòi, thất bại
và sẽ không được như chàng trai mong muốn.Những lời tâm sự đó đã được
chàng trai và cô gái trao gửi cho nhau, để mỗi người “hãy gói mang về”.Còn
“tình ước” của họ đã “đeo” lại nơi bản Mường.
Ngày tiếp theo chàng trai, cô gái gặp nhau họ lại tiếp tục khặp:
“ Hết ngày này ngày khác lại mở
Qua ngày này ngày mới lại kề
Ăn cơm xong trai nhớ khoác chài
Đem chài tơ đi quăng bên hón
Đi đón chụ nơi chốn hẹn hò
Đi đón chụ ở gò xương xa
Ăn cơm xong gái cầm binh đi xúc
Xúc con cá đẹp dưới suối
Đi đón chụ nơi giáp ranh mường
Gặp được nhau lời thương lại quyện
Gặp được nhau tình son sắt lại trao
Đến đây chàng trai và cô gái tuy vẫn đi làm những công việc của mình;
sau buổi ăn cơm chàng trai thì cầm chài đi quăng cá, cô gái thì đem binh đi xúc
cá; cả hai đều có mục đích, hướng tới mục tiêu là đi tìm nhau; gặp một nửa yêu
thương của mình để bày tỏ những lời yêu, để trao nhau tình son sắt.
Người trai nói:
Anh ước và anh mơ
Ước được chim chích về đậu ở cây sào phơi áo
Thấy chim câu về đậu nơi cây sào phơi khăn
Được út lá thiên hạ về chăm nhà cửa
Thương mình lắm em ơi
Cột nhà anh sắp đứt cả lõi
Dòng dõi anh sắp đứt sợi tơ
Mẹ anh già giã gạo không còn nhanh
Mẹ anh già nhóm bếp lửa lớn không còn cháy
Mẹ anh gọi con gà cối, con gà cối không còn lại
Mẹ anh gọi con gà mái, con gà mái không đến
Mẹ anh khóc thèm ăn gói nấm hương
Mẹ anh khóc đòi ăn cá bú
Mẹ anh khóc đòi gắp đũa sơn đỏ
Mẹ anh khóc đòi con dâu.
Chàng trai khặp những lời lẽ rất khôn khéo, ban đầu chàng trai bày tỏ niềm
mong ước của mình mong có được người mình yêu về chăm nhà, chăm cửa cho
mình. Chàng trai đã rất khéo léo đưa ra gia cảnh đáng thương của mình để tìm
sự đồng cảm với người mình yêu “thương mình lắm em ơi”, “Cây cột nhà anh
sắp đứt cả lõi, Dòng dõi anh sắp đứt cả sợi tơ”
Hai câu thơ diễn tả tình trạng khẩn cấp cần phải có vợ ngay để thay cây
cột và quan trọng hơn cả là để nối dõi dòng họ, chàng còn đưa hình ảnh mẹ già
ra để khặp, người phụ nữ trong nhà anh đã già yếu và đang cần người đảm
đương công việc trong gia đình. Hơn nữa, người mẹ già cũng cần có người con
dâu chăm sóc, muốn có con dâu đỡ đần.
Đáp lại lời của chàng trai, cô gái mới khặp tiếp:
Mắt thấy ưng cái lòng bảo được
Nhưng tay em không trắng, ngón chẳng thon
Về khua chày nhà anh cái loóng nó vỡ
Đồ cơm niếng nhà anh nó cháy
Chân nặng bước lên thang nó sập
Mặt trời thấp cành dâu
Mặt trời ngang cành sổ
Mặt trời thấp ngọn dang, sắp tắt
Mặt trời ngang cành bương, sắp lặn
Trời nóng nực cá đi xuôi dòng mương
Người phương nào đi về phương đó
Lời tình để hôm sau mới nhắc
Lời thương để hôm khác lại trao
"mắt thấy ưng cái lòng bảo được”. Đó là tình cảm của cô gái, nhưng chỉ có
điều nàng lo sợ sẽ không đảm đương được công việc nhà chồng, sẽ làm cho
chàng trai thất vọng. Giờ đây họ lại hẹn nhau để hôm khác lại bàn chuyện…
Hết ngày này ngày khác lại mở
Qua ngày này ngày mới lại kề
Trai ở nhà thấy chán
Lòng ở bản nghe buồn
Mới đi rủ bạn nhà trên được bạn cùng tuổi
Đến rủ bạn nhà dưới được bạn lứa bằng
Sắm quà được nhiều thứ
Sắm lễ có trầu cau
Chọn ngày được ngày tốt
Chọn tháng được bữa lành
Đi với chụ khác mường cho lòng khỏi chán
Đi với chụ khác bản cho lòng khỏi sầu
Vượt khúc suối đi xa
Qua khu đồng đi tới
Đến với gái út tận nhà
Chiếu đẹp gái ả đem trải
Chiếu mới út lá đem bày
Trầu vàng xếp vào cơi
Miếng bùi miếng cay mời trai nhá
Chốn móng ngoài cùng tựa
Bên cửa sổ cùng ngồi
Ánh trăng luồn vào chiếu
Nghĩa trao duyên càng nồng
Gà vỗ cách dưới sân một lần gái bảo
Gà vỗ cánh dưới sân lần 5 gái nói
Anh muốn em về chung cửa phải sắm quà
Anh muốn em về chung nhà phải lo của
Quà sắm cho đủ lễ
Của sắm cho đủ đưa
Tâm trạng của chàng trai, tình yêu của chàng cứ một ngày càng nhiều hơn,
để rồi khi không được gặp người yêu, lòng chàng trai cứ bồn chồn, buồn chán,
tâm trạng ấy đã thúc giục chàng trai sắm quà, sắm lễ đến nhà cô gái để hỏi ý
kiến cô gái. Đôi trai gái tâm sự với nhau để cuối cùng cô gái đã nói ra những
lời mách bảo với chàng trai.Muốn cô gái về chung nhà chung cửa thì phải có lễ
vật:
Bánh chưng gánh lên nhà xem quả
Bánh lá nâng lên cửa nhiều chăm
Bạc đầy nén kê chân khung cửi
Tiền bốn trăm đến đổi em về
Xanh năm lễ rữa chân ông ngoại
Xanh sáu lễ cống nộp mẹ cha
Xem ông ngoại có ưng lòng gả
Người nên vợ mới được ra đi
Của phải lo gái đã trao tiếng
Của phải sắm gái đã trao lời
Gà dưới sân vỗ cánh liên hồi
Gáy lần bảy, lần năm, gọi ông trời dậy
Sương đêm buông mái sàn
Đốn cây đỏ về núi
Khi từ nhà cô gái về chàng trai mới
“ Gói lời người thương trai mang về trình cha mẹ
Về đến nhà, trai nằm giữa quản
Trùm chăn kín buông mình giữa sàn
Mặt trời lên bằng sào
Mẹ khẽ nhấc chân đến gọi
Mặt trời lên bằng sải
Mẹ khẽ tay đánh thức
Con ốm hay lòng sầu
Con đau hay bụng đói
Cơm chưa mâm đã bầy
Cơm ngày chú bác đã ăn
Quay đầu trai mới nói
Nâng mình khỏi nhà sàn trai thưa
Con ở nhà nghe chán
Lòng ở bản thấy buồn
Con đi với chụ khác mường cho lòng khỏi chán
Đến với chụ khác cho lòng khỏi soài
Được lời thương của gái út đem về nhà
Được lời đẹp của noọng là đem về cửa
Muốn được xao noọng phải lo lễ quà
Muốn được xao lá phải lo sắm của
Chặt chuối đổ về rừng
Trong những sính lễ mà cô gái đưa cho chàng trai thì phải có cả sanh đựng
nước: Để cho ông ngoại nhà gái rửa chân khi đưa dâu đến nhà trai, bởi theo
phong tục người Thái thì ông ngoại là người quyết định gả hay không gả cô gái,
cha mẹ chỉ là thứ yếu. Đoạn khắp cũng là lời dãi bày nỗi lo lắng của chàng trai
về những lễ vật mà nhà gái đưa ra, bởi bản thân chàng trai không lo nổi.Qua đấy
cũng giúp chúng ta thấy được hôn nhân của người Thái xưa, với tục thách cưới
vô cùng nặng nề. Nhiều mối tình đẹp, yêu nhau tha thiết nhưng đành “chia lìa”
bởi người con trai không lo đủ lễ vật cho nhà gái, để làm đám cưới. Tuy nhiên
trong bài ca này chàng trai may mắn lại được sự hậu thuận của cha mẹ…
Đoạn khặp diễn tả quá trình nhà trai chuẩn bị lễ vật và nhờ bà mối lo đám
cưới:
Con chú, con bác chẳng phải lo xa
Còn mẹ có cha chẳng phải lo lóm
Đi nương mới cắt lá dong
Thả trâu lên rừng mới xen lá duốc
Gói bánh lá quả vuông
Gói bánh chưng bốn cạnh
Đến nói cùng mụ nhà dưới khéo lời
Bàn cùng mụ nhà trên khéo dạm
Chọn ngày lành và tháng tốt
Đến tận nhà xao noọng sóng căm
Về tận nhà xao noọng ngỏ ý
Xin được đội nón trắng vào rừng phát ngô
Xin được làm chồng út yêu thiên hạ
2.4.1.2. Khặp trong cưới xin
Chọn được tháng bữa lành
Chọn ngày được giờ tốt
Trùm áo lên đầu, ấn mũ đi sang
Quàng áo lên vai ấn mũ đi tới
Không có điềm hoẵng nai kêu bên đồi chắn lối
Chẳng có điềm đá lăn lên núi chắn đường
Vượt khúc suối đi xa
Qua cánh đồng đến pọong
Đến nhà xao noọng khác mường
Tới phường này khác bản
Lời chào nhau đan quấn
Chiếu đẹp từ mường Kinh đem trải
Chiếu mới mua ở chợ đem bày
Mẹ xao noọng đến dạ
Cha xao noọng đến thưa
Sao lòng dạ thấy lo
Có việc gì phường ấy đi lại
Có việc chi ấu mụ phải sang
Thấy quà mang nhiều thứ
Vật lễ sắm khác thường
Cau cả buồng và rượu chai đôi
Quà bạc qua vàng phường nào đi lại
Lời gốc ấu mụ nói
Tiếng ngon ấu mụ thưa
Thưa từ gốc cành đến ngọn
Con trai đứa nối nhà
Con cả đứa nối dòng
Con nên chú lêu lao
Con nên trai lai luống
Cơi đến chưa nơi ngoắc
Nắp dao chưa ai treo
Dưới sân chưa có người quản
Trên sân chưa có người chăm
Ruộng bừa không người cấy
Lúa chín không người gặt
Khách lại chẳng người chào
Rau xanh chưa có người đồ chín
Tôi lên núi xin ngắt ngọn vầu
Vào mường dầu xin hái hoa
Xin xao lá về bên kia làm vợ
Mong được bề trên ưng gả
Người nên vợ ưng chồng
Lời gốc ấu mụ đã nói
Tiếng ngọn ấu mụ đã thưa
Mẹ xao noọng đến dạ
Cha xao noong buông lời
Thương lắm và thương nhiều
Nhìn rừng sâu tưởng sông
Nhìn con người tưởng nên
Nhưng chân tay gái út quá vụng
Tiếng nói cũng chát chua
Khách đến không biết chào
Rau xanh không biết đồ chín
Bấc miếng cầm sứt tai
Nuôi lợn vụng cả máng
Xấu mặt họ hàng khi về làm vợ người ta
Ấu mụ vui đón lời
Xin nhà ngoài vui lòng gả
Người nên vợ ưng lòng về theo
Vịt tớ biết nuôi trứng
Gà tớ biết tập gáy
Có thể nói đây là bài khặp diễn tả quá trình đi hỏi và sắm lễ vật của nhà
trai. Nhờ bà mối chọn ngày lành tháng tốt đến nhà gái để đi dạm hỏi. Đây chính
là những lời nói giữa người lớn với nhau, giữa bà mối và bố mẹ cô gái đồng ý
cho chàng trai được cưới cô gái làm vợ, bài khặp này kết thúc bằng hình ảnh:
“Lời đẹp hai bên đã xoắn
Tiếng được hai đường đã trao
Cha mẹ vui lòng gả
Người nên vợ cha mẹ gật đầu”
Hình ảnh hai bên gia đình thống nhất chuyện cưới xin giữa chàng trai và cô
gái, cha mẹ cô gái vui lòng gả con gái cho chàng trai, họ hài lòng vì đã hỏi được
vợ cho con trai mình.
+ Khắp nạp tài:
Hết ngày này ngày khác lại mở
Qua ngày này ngày mới lại kề
Tìm ngày được ngày tốt
Chọn tháng được bữa lành
Của nả sắm đã đủ
Vật lễ sắm đã đầy
Lợn to đủ năm khiêng theo
Gạo trăm ống đi làm bữa khách
Vượt khúc suối đi xa
Qua khu đồng đến poọng
...
Ông mối đứng chắp tay
Mối hai họ tóc buông trên quản
Lạy hai lạy chào người
Lạy ngưòi lạy trình ma
Mối họ gái đứng, mối nhà trai quỳ
Mối trai đứng, mối họ gái lạy quỳ
Nườm nượp khách vào ra
Ồn ào tiếng thăm hỏi
Mối họ trai đến giao của
Mối họ gái nhận vật lễ đưa
Xanh năm lễ sửa chân ông ngoại
Xanh sáu lễ cúng nạp mẹ cha
Bạc trăng cân đủ nén
Vải đen đo đủ sải
Áo váy xếp từng chồng
Hoa rừng đã đủ hương
Của nả nộp đủ lễ.
Đoạn khặp này diễn tả cảnh nhà trai đem lễ vật đến nhà gái trong lễ nạp tài,
với đầy đủ lễ vật...Theo phong tục của người Thái Thanh Hoá, người con trai
khi đi hỏi vợ phải đến nhà gái thì ông mối, bà mối của họ nhà trai và họ nhà gái
trao nhau và họ làm những thủ tục cần thiết mà trong lễ nạp tài phải tiến hành
+Khặp diễn tả lễ cưới:
Lời đẹp hai bên đã xoắn
Tiếng thương hai họ đã trao
Lợn đủ, mâm bày cơm san sát
Rượu chỉnh to đem chốt giữa sàn
Ông mối cúng ma nhà ấu trước
Mời thần sông thần núi ăn hương
Thần linh chủ bản mường ăn cỗ
Khăn trắng con rể quấn trên đầu
Áo đen con rể mặc vào thân
Buông tóc dài lạy liên hồi trên quan
Buông tóc mượt lạy gấp gối trên sàn
Lạy ma nhà để thần nhận mặt
Lạy họ hàng để người nhận con
Cây lau thành cây má
Con của người thành rể hôm nay
Thủ tục nhà trai đến nhà gái đánh dấu kết thúc, những lời khặp đã thể hiện
đầy đủ các nghi lễ, phong tục trong hôn nhân, những bước phải thực hiện khi
nhà trai đến nhà gái đón dâu.
+ Khặp trong đám cưới
Người Thái quan niệm trong đám cưới không có hát coi như không có đám
cưới (trừ trường hợp một trong hai họ có chuyện không vui như đang có
tang).Với quan niệm đó, người Thái khi chuẩn bị tổ chức cưới xin cả hai bên,
việc đầu tiên là tìm được người đại diện cho mình để hát. Người đó phải thông
thạo phong tục tập quán dân tộc, nhất là trong cưới xin, phải biết ứng xử giao
tiếp giỏi, biết hát hay, đặc biệt là biết đối đáp ứng khẩu nhanh khi hát và đúng
trình tự hát trong đám cưới. Đến dự đám cưới có rất nhiều người biết hát và hát
rất hay. Nhưng bao giờ người Thái cũng luôn tôn trọng người được bên trai, bên
gái chọn đại diện cho mình để hát chính. Còn những người cùng dự đám cưới
chỉ làm nhiệm vụ lĩnh xướng mà thôi. Hát của người Thái bao giờ cũng phải có
số đông người lĩnh xướng nhất là trong cuộc rượu vui và cưới xin. Trong cuộc
vui và cưới xin mà hát không có người lĩnh xướng, chỉ có 2 người hát đối đáp
nhau không thôi thì cuộc vui sẽ rất đơn điệu, tẻ nhạt. Hát được mọi người lĩnh
xướng sẽ làm cho cuộc vui thêm đậm đà và mọi người thực sự được hòa nhập
trong không khí vui tươi đầm ấm và thăng hoa. Họ chú ý lắng nghe và tấm tắc
khen ngợi, thưởng thức những lời hay ý đẹp do người hát đem lại. Mặt khác có
lĩnh xướng, mọi người trong mâm rượu thêm phấn khích, người hát thêm say
sưa và sáng tác ngẫu hứng thêm nhiều lời hay ý đẹp.
Hát trong vui chơi, hát giao duyên và đặc biệt hát trong đám cưới bao giờ
họ cũng hát lời chào hỏi nhau trước. Khi trong cuộc vui hoặc cưới xin, mọi
người đều cơm rượu no say mới bắt đầu chuyển sang phần vui văn nghệ. Họ vẫn
ngồi yên vị tại mâm vừa ăn, vừa uống, vừa hát cho đến khi tan cuộc. Ban đầu
thầy mo hát chúc tụng mọi người trong mâm, nhà trai nhà gái luôn mạnh khỏe,
ấm no, hạnh phúc. Sau đó nhà trai mới bắt đầu hát và hát xin lỗi trước:
Tôi là phận vịt xin tập đẻ
Là gà trống con xin được tập gáy
Gáy không hay đừng mong cáo bắt
Gáy còn rụt rè, run rẩy xin đừng cười chê
Tôi xin được vãi bã rượu đầu nguồn gọi cua
Xin hái lá trầu tươi mời Ngoọng (một loại ve sầu)
Sau khi hát lời xin lỗi rồi mới hát những lời chào hỏi:
Đến từ sớm nhưng chưa được hỏi
Đến từ trưa nhưng chưa được chào
Giờ xin chào em như vịt chào gà
Chào em như gà đua tiếng gáy.
Tiếp đó hát chào mọi người trong mâm rồi hát rằng nhà nghèo không có gì
để làm bữa cưới cho tươm tất, không đáng để mời hai họ, bạn bè về dự vui.
Ống tay ngắn muốn dài không được
Đã không có không biết lấy gì đặt mâm
Lẽ ra phải có lợn to mổ làm bữa
Phải có trâu mổ đặt mâm
Phận nghèo anh hái rau bướm về thay đĩa cá
Hái rau rừng về để đặt mâm.