CHUYÊN ĐỀ
DÂN CA NGHI LỄ - PHONG TỤC
CỦA NGƯỜI THÁI THANH HÓA
ThS. Ngô Xuân Sao
Trường Đại học Hồng Đức - Thanh Hoá
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân ca nghi lễ - phong tục của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Thái
nói riêng chủ yếu ra đời cùng lúc với thần thoại và không phải ngẫu nhiên mà
các thiên thần thoại của các dân tộc thiểu số là nội dung của nhiều bài dân ca
nghi lễ. Chính vì vậy, chúng ta có thể nói rằng dân ca nghi lễ là bộ phận cổ xa
nhất trong kho tàng dân ca các dân tộc. Kho tàng dân ca nghi lễ - phong tục của
dân tộc rất phong phú.
Dưới sự chi phối của quan niệm vạn vật hữu linh người Thái tin rằng thần
linh có thể giúp đỡ con người vượt qua được nhiều khó khăn và đạt những ước
mơ tốt đẹp trong cuộc sống như chữa khỏi bệnh tật, kéo dài tuổi thọ, hạnh phúc
trong nhân duyên, sinh con đẻ cái… Vì vậy các ông mo, bà then ở các bản
Thái… cũng như các ông bà Ậu, máy, Then của dân tộc Mường, Tày đã đặt ra
hàng loạt các bài ca lễ để đáp ứng các yêu cầu trên. Những yêu cầu vừa thiết
thực vừa ít nhiều hư ảo của quan niệm vạn vật hữu linh chính là nguồn gốc của
các sinh hoạt dân ca nghi lễ - phong tục, một hoạt động văn hóa truyền thống
chiếm vị trí quan trọng và không thể thiếu được trong đời sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số trước đây (và phần nào trong hiện tại).
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi trình bày một số vấn đề cơ bản của
dân ca nghi lễ - phong tục của dân tộc Thái ở Thanh Hóa
1
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khái quát về nguồn gốc dân cư và những tác động của môi trường xã hội
tới văn hóa dân tộc Thái ở Thanh Hóa
1.1. Nguồn gốc dân cư
Người Thái ở Thanh Hoá tự danh là Cân Tay (người Tày) hay Phu Tay, là
một bộ phận của người Tày Thái Việt Nam và bán đảo Trung Ấn. Người Thái có
tiếng nói, chữ viết, văn học dân gian, đặc biệt là thần thoại, cổ tích gần gũi với
người Tày ở Việt Bắc. Trong quan niệm của người Mường cổ Thanh Hoá, người
ta gọi người Thái và người Lào là một. Người Thái ở Thanh Hoá thì ý thức rằng,
phía dưới có người Kinh, phía trên có người Lào, người Xá; người Lào là anh
(gọi là Ái Lào), người Kinh là em út (gọi là Lá Lúa). Ở Thanh Hoá, không còn
khái niệm về Thái đen, Thái trắng. Chỉ phân biệt hai nhóm chính là nhóm ít hơn
sinh sống dọc sông Chu gọi là Tày Dọ và nhóm lưu vực sông Mã gọi là Tày
Mươi. Thực tế tên Tày Dọ và Tày Mươi không phải tự danh mà do nhóm này đặt
(gọi) cho nhóm kia. Hai nhóm này có một vài đặc điểm khác nhau về tiếng nói, y
phục và sinh hoạt văn hoá. Nhóm Tày Dọ sông Chu gắn với bộ phận ở Trương
Dương (Nghệ An), có nhiều nét giống người Thái trắng Sơn La - Lai Châu. Còn
nhóm sông Mã, có số lượng đông, địa bàn rộng hơn, cùng chung nhóm này có cả
Mai Châu (Hoà Bình), Sầm Nưa (Lào) và Tày Thanh (Nghệ An). Người Lào gọi
nhóm này là Tày Đenh (thực tế người ta nhầm Mường Đenh thuộc Lang Chánh
với nhóm người Thái ở Thanh Hoá).
Trong tiến trình lịch sử, người Thái ở Thanh Hoá đã nhiều lần tiếp nhận các
cụm di dân từ Tây Bắc vào và cũng từ đây di chuyển đến phía Nam (vào Nghệ
An) và phía Tây (sang Lào).Gia phả và lời mo đưa hồn trở lại quê cũ của một số
dòng họ còn xác định một số cuộc thiên di của người Thái ở Thanh Hóa.
Như vậy, xét về mặt lịch sử, người Thái Thanh Hoá được hình thành và phát
triển từ một nhóm Tày; Thái cổ bản địa, trải qua nhiều biến cố lịch sử, được bổ
2
sung thêm một bộ phận từ nhiều địa phương phía Bắc vào, đồng thời tiếp cận với
người Mường, người Kinh, Người Khơ Mú xung quanh và giữ mối liên hệ
thường xuyên mật thiết với khối đồng tộc Tây Bắc, Thượng Lào, Nghệ An. Do
vậy, về huyết thống và văn hoá có sự hoà đồng của nhiều yếu tố, nó vừa phản
ánh tính chất chung của cộng đồng Thái Việt Nam và sự tiếp nhận, giao lưu với
người Mường Việt vừa tạo nên bản sắc riêng mang đặc trưng của người Thanh
Hoá,
Trước cách mạng tháng tám 1945, người Thái sinh sống trong các Châu
Quan Hoá, Tân Hoá, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân. Dưới chế độ Việt
Nam dân chủ cộng hoà, các châu này đổi thành Huyện: Quan Hoá, Bá Thước,
Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân, nay chia tách thêm huyện Quan Sơn,
Mường Lát và Như Thanh, tổng cộng là 8 huyện.Vùng giáp ranh phía đông và
các thị trấn đã hình thành các tụ điểm xen kẽ giữa người Thái, người Mường,
người Kinh và một ít dân tộc khác.Vùng núi cao phía Tây có thêm dân tộc
Mông, Dao, Khơ Mú.
Dân số người Thái trong vài thập kỷ trở lại đây dao động từ 22 đến 25 vạn
người, Hiện nay, dân số người Thái ở Thanh Hoá hơn 24 vạn.Các huyện có trên
80% dân số là người Thái gồm: Quan Sơn, Quan Hoá, Mường Lát, Thường
Xuân.
1.2. Những tác động của môi trường xã hội tới văn hóa Thái (hình thành
nên những đặc điểm địa phương của văn hoá Thái Thanh Hóa)
1.2.1. Đặc điểm chung
Trước năm 1945 xã hội người Thái tồn tại dưới hình thức mường bản. Bản
là đơn vị quần cư ổn định theo ruộng nước, có từ vài nhà đến hàng trăm nóc nhà.
Bản có tên gọi riêng, có một người đại diện là đạo bản hay quan bản quản lý.
Nhiều bản trong một khu vực địa lý, thường là trong một thung lũng có quan hệ
gắn bó về mặt huyết thống, kinh tế, văn hoá hợp thành một mường.
Lãnh địa các mường thường tương đương một nửa tổng thời nhà Nguyễn và
bốn, năm xã hiện nay.Ranh giới giữa các mường gọi là đen mường, tương đối ổn
3
định lâu dài, lấy các con suối, gốc cây, hòn đá, sông núi làm điểm mốc, hầu hết
có văn tự ghi lại. Ở Thanh Hoá, có trên 40 mường lớn, nhỏ của người
Thái.Trong đó có các mường quen thuộc như: Ca Da, Ánh, Lẹ, Khăng, Khiết,
Lý, Lát, Xia, Mìn, Mo, Chự, Hạ, Tuồng, thuộc Châu Quan Hoá; Khoòng, Lau,
ký thuộc Châu Tân Hoá; Đôn, Ngày, Đanh, Chánh, Khao, thuộc Châu Lang
Chánh; Nhân, Mọt, Hương, Dôn (còn gọi là Trịnh Vạn) Dịn thuộc Châu Thường
Xuân. Các mường rộng, đông dân thường chia ra các khu gọi là Poọng, hay chia
thành mường nhỏ nằm trong mường lớn.
Thành phần xã hội trong mường chia làm 3 tầng lớp:
Tầng lớp trên, cai quản toàn bộ lãnh thổ và dân mường là nhà Tạo. Mỗi
Mường, mỗi Poọng, mỗi bản có một gia đình, dòng họ cha truyền con nối tạo
mường, tạo poọng có ông Mụ trông coi về việc hành chính, lễ lạt và các công
việc cưới xin, tang ma, thờ cúng nhà tạo, ông Ho trông coi về việc binh lực, ông
Chá, ông Ngan trông coi về việc điều tra, xác minh, bắt bớ. Tạo bản có ông quan
giúp việc trông coi việc thu góp, hội, phe; ông chá trông coi việc tuân thủ luật lệ
bản mường.
Lệ mường do tạo mường đặt ra, được thông qua hội nghị già bản, già
mường (Tháu kẻ lẹ lang) dưới sự chủ trì của ông Mụ. Hàng năm đều có hội nghị
định kỳ để điểm lại việc thực thi và bổ sung, sửa chữa lệ mường.
Tạo mường có quyền sinh, quyền sát được luật lệ cho phép và được hưởng
nhiều quyền lợi kinh tế về sở hữu đất đai, tài nguyên, sức lao động và cống nạp,
dâng, biếu của dân. Những người giúp việc được hưởng ruộng công thay cho
bổng lộc (ví dụ trên các cánh đồng có một phần ruộng đặt tên Nà Chá, Nà Quan
giành cho người làm chá, làm quan cày cấy).
Tầng lớp đông đảo nhất là dân mường, tiếng Thái gọi là phú páy. Đó là
những gia đình nông dân có tài sản, ruộng đất riêng, có quyền khai thác các
nguồn lợi tự nhiên, chịu sự cai quản của hai hệ thống bộ máy. Một bên lệ thuộc
4
vào quyền uy nhà tạo và có nghĩa vụ đi làm phiên, lao động không công và cống
nạp, dâng biếu cho nhà tạo. Một bên phải làm nghĩa vụ đóng sưu, thuế, đi phu, đi
lính cho chính quyền nhà nước. Trong số này chủ yếu là nông dân, chỉ có một số
người làm nghề cúng bái, mo, một, mùn.
Cuối cùng là một số ít người do bị phạt tội hay sa cơ lỡ vận làm tôi đòi, đầy
tớ trong các nhà tạo, tiếng Thái gọi là Ệt khói. Những người này trở thành công
cụ lao động và chịu mọi sự sai khiến, roi vọt của nhà chủ.
Song song tồn tại với chế độ tạo quản, nhà nước đặt thêm hệ thống cai trị
các cấp từ châu, tổng đến xã, thôn, chòm bản, bổ nhiệm các chức sắc như tri
châu, chánh tổng, lý trưởng và các chức dịch như Hương Bạ, Hương Kiểm,
Hương Mục, Hương Lâm.
Hầu hết các chức sắc, chức dịch cũng được chọn từ các dòng họ tạo. Nhiều
trường hợp người đứng đầu mường, bản, poọng giữ luôn các chức tri Châu,
Chánh tổng, Lý trưởng......
Thái độ của dân mường đối với tầng lớp trên có sự đánh giá phân biệt. Hầu
hết các Tạo giữ chức sắc do chế độ thực dân, phong kiến phong cấp thực hiện
mục đích đàn áp, bóc lột thường hay tham lam, tàn ác, bị dân mường căm ghét.
Còn các nhà Tạo xuất thân từ dòng dõi tù trưởng có uy tín với cộng đồng, có ý
thức giữ gìn tư cách, gần gũi với dân, thường hay bênh vực cho dân, được dân
mường thần phục, kính trọng. Trong các mường ở Thanh Hoá, khoảng cách giữa
tầng lớp trên và tầng lớp thường dân chưa nẩy sinh mâu thuẫn sâu sắc lắm, đấu
tranh đối kháng chưa gay gắt, cuộc sống còn có màu sắc hoà đồng, tính dân chủ
cộng đồng thể hiện tương đối đậm nét, nhất là trong sinh hoạt văn hoá xã hội.
Cách mạng tháng Tám 1945, lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến,
thành lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân. Hình thức quản lý xã hội
theo mường bản được thay bằng huyện, xã, chòm.
5
Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra quyết liệt, trường kỳ gian khổ, đồng
thời tiến hành xây dựng cuộc sống mới dưới chế độ nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà do Đảng Cộng sản và Bác Hồ lãnh đạo; các hình thức hoạt động theo
xã hội mường bản dần dần được thay thế bằng hình thức mới. Vận động cải cách
dân chủ kết hợp với xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền núi (1959 - 1960)
tiếp tục hạ uy thế của địa chủ, phú nông và xoá sạch tàn tích phong kiến, cơ sở
xã hội của Mường, Poọng bị xoá bỏ tận gốc, chỉ còn giữ lại được phần lớn các
tập quán sinh hoạt ở bản. Vì bản là một đơn vị cơ së của xã hội, gần tương tự
như làng ở các dân tộc khác.
1.2.2. Quan hệ xã hội của người Thái
Nhìn hình thức bên ngoài, phong tục của người Thái Thanh Hoá có nhiều
nét tương đồng với người Mường cùng khu vực. Tuy nhiên, không phải là một
và cũng không phải hình thành do vay mượn. Thuần phong mỹ tục được đánh
giá chủ yếu thông qua việc giao tiếp xã hội. Các giá trị về đạo đức, tài năng và
phong cách thể hiện thông qua hành vi xã hội. Người Thái có bản chất thương
người, hiền lành, chất phác, khiêm tốn, nhường nhịn, thận trọng, dịu dàng đã
được bộc lộ thông qua tập quán sinh hoạt cộng đồng, quan hệ với họ hàng nội
ngoại, với khách phương xa.
Đối với bản, xóm, láng giềng, người Thái Thanh Hoá đặt mối quan hệ này
lên trên mối quan hệ với họ hàng (nội tộc) và bên ngoại. Trong sinh hoạt hàng
ngày, láng giềng có thể thay thế nhà chủ trông nhà, tiếp khách mỗi khi chủ đi
vắng. Đến bữa ăn có thức ăn ngon, vật lạ gì đều san một phần biếu nhà trên, nhà
dưới gọi là dai canh. Các nhà gần nhau thường xuyên đi lại hàng ngày cùng nhau
uống chén nước chè, bình rượu cần, hút điếu thuốc, cùng sưởi lửa; phụ nữ cùng
nhau làm bông vải, thêu, dệt. Đã là láng giềng thì phải giữ gìn cho nhau và tin
tưởng lẫn nhau. Nếu có việc xích mích giữa trẻ con với nhau, người lớn không
bao giờ được ra mặt bênh con mình, không đe nạt, chửi bới con cái nhà khác, có
6
chăng chỉ trừng phạt con mình. Trong sản xuất, người ta thường tập trung làm
xúm với nhau bằng các hình thức luôn phiên gọi là an háu, mượn người, gọi là
ban và đóng góp vật liệu gọi là phe. Những việc làm này hết sức chân thành và
tự giác.
Lệ bản ngày xưa được mọi người quan tâm, nghiêm túc thực hiện, trở thành
tập quán, coi trọng nhất là quan hệ nam nữ, giữ vệ sinh nguồn nước và chống
trộm cắp, gian dối. Có những điều hiện nay không còn nghiêm túc bằng xưa như:
Đàn ông không được lả lơi, đùa cợt với gái có chồng; con gái không được đi
rong chơi trong bản ban đêm; con gái con trai ngồi gần nhau phải có đèn đóm;
không được đi vệ sinh vào dòng suối; không chải đầu vứt tóc ở nơi lấy nước;
thấy thứ gì trong thiên nhiên có người đánh dấu trước (bằng cách bẻ cành chắp
thành hình chữ thập, gài tấm ta leo, tạc vào thân cây) đều phải coi là của có chủ,
không được xâm phạm....
Những người có chức sắc khi tham gia các hoạt động cộng đồng cũng phải
tự giác thực hiện các quy định chung, bình đẳng như nhau, nếu vi phạm phải
chịu phạt và chịu xin lỗi (phạt uống rượu cần, phạt làm vía cho người khác...).
Con cháu rất tôn trọng ông bà, cậu mợ bên ngoại: Khi có việc đại sự trong
nhà phải xin ý kiến quyết định của bên ngoại. Người bên ngoại được tôn kính,
ngồi ăn, ngồi nói trên cùng. Khi cưới vợ, gả chồng cho cháu ngoại phải có thủ
tục đưa dâu, rể, mang quà biếu đến trình nhà ngoại. Đặc biệt là cuộc làm vía,
buộc chỉ cổ tay do bên ngoại tổ chức tại nhà con cháu gọi là khoăn lung ta được
coi là một điều hạnh phúc do nhà ngoại ban cho.
Anh em trong nhà, trong họ càng thương nhau, tin nhau càng giữ kín mối
quan hệ của mình. Anh em ít khi ngồi gần nhau, ít nói chuyện với nhau và không
tỏ thái động bênh nhau, chúc mừng cho nhau. Nhưng nếu khi có sự bất thường
đáng lo ngại đối với người thân thì anh em tự giác xúm lại để cùng lo liệu.
7
Khách đến nhà, chủ nhà phải lên tiếng chào trước. Họ quan niệm người nhà
chủ là người có thể hơn, nếu không chào khách trước bị coi là khinh người. Nếu
khách từ xa đến, nhà chủ phải tuần tự tiến hành các việc: đỡ hành lý, chải chiếu
mời khách ngồi, lấy nước trà, ống điếu thuốc lào đặt trước mặt khách, đi rửa ráy,
thay quần áo sạch sẽ mới ra ngồi cùng khách, hỏi thăm sức khoẻ. Tiếp đến sai
con cháu mang rượu cần để mời.Trước khi uống, chủ nhà phải khấn ma nhà (tổ
tiên) và các thần xung quanh nhằm kính báo nhà con cháu có khách, mở rượu
cần để uống, mời ông bà tổ tiên, thần linh cùng dùng và phù hộ cho con cháu và
khách. Phía khách phải có ý thức tuân theo một số điều thông thường là: không
có chủ thì không lên nhà.Nếu đã lên nhà rồi thì không được tự ý đi, phải chờ cho
đến khi chủ về hoặc hàng xóm thay mặt nhà chủ đến chứng kiến. Nếu gặp người
già yếu, nặng tai, tối mắt, khách phải chủ động lên tiếng trước, không được ngồi
tót lên trên đầu sân và ngồi vào chiếu khi chủ nhà chưa mời. Ngồi nhà sàn sắp
xếp theo thứ tự già trên, trẻ dưới. Khách phải giữ ý, lường xem thái độ khí chất
của chủ mà lựa lời hỏi chuyện, không nên huyên thuyên, dồn dập, nhà chủ không
vừa ý.
Đến bữa ăn, có khách đến nhà, dù người lạ hay người quen, nhà chủ
không được hỏi đã ăn cơm chưa mà chủ động dọn cơm đến phần khách, mời
khách cùng ăn như người nhà. Khách quý thì dĩ nhiên là nhiều thủ tục khác hơn.
Khách ngủ lại, nhà chủ giành chăn đệm sạch đẹp nhất, ấm nhất giành riêng cho
khách.
Nếu khách là con gái từ mường xa đến, trai làng có thể đến chơi, hỏi thăm.
Nhà chủ bố trí rượu cần, trầu cau, hát giao duyên có thể thâu đêm suốt sáng. Tuy
nhiên, không được rủ nhau ra khỏi nhà sàn. Nếu hai bên trai, gái hợp tình thì khi
khách về có thể đi tiễn khách qua quãng đường vắng để tâm sự với nhau.
Sinh hoạt xã hội và sinh hoạt văn hóa của dân tộc Thái diễn ra chủ yếu
trong điều kiện của một nền kinh tế còn gắn bó chặt chẽ và có nhiều quan hệ
8
ràng buộc với tự nhiên. Đồng bào khai phá núi rừng làm nương rẫy, san bạt sườn
đồi làm ruộng bậc thang. Trong cuộc vật lộn đầy gian khổ với thiên nhiên để
giành lấy cuộc sống đó, con người cảm thấy thiếu một sức mạnh để chinh phục
thiên nhiên. Vì thế trong đầu họ mơ hồ cảm thấy một sức mạnh huyền bí nào đó
vẫn hằng chế ngự, chi phối công cuộc làm ăn, sinh sống của con người. Do vậy,
các câu chuyện về các vị thần Núi, Sông, thần Gió, thần Bão… trong kho tàng
thần thoại của dân tộc Thái đã ra đời. Tuy nhiên, những người lao động Thái
không bó tay trước lực lượng huyền bí vẫn ám ảnh họ. Trong điều kiện sản xuất
còn thô sơ, năng suất lao động còn thấp kém, bên cạnh niềm mơ ước có một lực
lượng thần kỳ, người Thái còn tìm ra những phương cách khác màu nhiệm hơn
để hỗ trợ công cuộc lao động vất vả của mình. Đó là sức mạnh của các phép lạ dĩ nhiên cũng do họ tưởng tượng ra - mà ngày nay người ta gọi chung là ma
thuật. Kèm theo những hoạt động cúng bái, lễ nghi vừa có tính chất tín ngưỡng
tôn giáo vừa có tính ma thuật, đó là những bài lễ ca hoặc nhằm cầu khẩn lực
lượng thiên nhiên phù trợ công việc làm ăn; hoặc ngợi ca lực lượng siêu nhiên đã
“ban cho” mùa màng tươi tốt, thậm chí còn ra lệnh cho các vị thần siêu nhiên.
Dưới sự chi phối của quan niệm vạn vật hữu linh, người Thái tin rằng thần
linh có thể giúp đỡ con người vượt qua được nhiều khó khăn và đạt những ước
mơ tốt đẹp trong cuộc sống như chữa khỏi bệnh tật, kéo dài tuổi thọ, hạnh phúc
trong nhân duyên, sinh con đẻ cái…
Vì vậy các ông Mo, Bà Máy ở các bản người Thái…ở Thanh Hóa đã đặt ra
hàng loạt các bài ca nghi lễ để đáp ứng các yêu cầu trên. Những yêu cầu vừa
thiết thực, vừa ít nhiều hư ảo của quan niệm vạn vật hữu linh chính là nguồn gốc
của các sinh hoạt dân ca nghi lễ - phong tục, một hoạt động văn hóa truyền thống
chiếm vị trí quan trọng và không thể thiếu được trong đời sống của đồng bào
trước đây (và phần nào trong hiện tại).
II. Các loại hình dân ca nghi lễ phong tục của người Thái Thanh Hóa
9
Dân ca nghi lễ - phong tục của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Thái
nói riêng rất phong phú, đa dạng, thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Có thể
nói rằng dân ca nghi lễ là bộ phận cổ xưa nhất trong kho tàng dân ca các dân tộc.
Dĩ nhiên trong những giai đoạn về sau, loại dân ca nghi lễ - phong tục cũng được
các nghệ sĩ dân gian tiếp tục sáng tác, bổ sung và hoàn chỉnh, như là quy luật
phát triển và vận động của bất cứ hình thức nào khác trong văn học dân gian.
Dân ca nghi lễ - phong tục của dân tộc Thái rất phong phú.Tuỳ chức năng
của chúng, có thể chia các bài dân ca này thành nhiều nhóm khác nhau:
Nhóm các bài ca nông lễ: phục vụ các lễ tiết trong chu kỳ sản xuất nông
nghiệp, từ phát nương, gieo hạt, cấy cày, đến làm cỏ, cầu mưa, mừng lúa
mới…
Nhóm các bài ca hôn lễ: phục vụ trong đám cưới của các nam nữ thanh niên
các dân tộc. Đó là hệ thống các bài khắp của người Thái
Nhóm các bài ca tang lễ: phục vụ các đám tang, nhằm đưa tiễn linh hồn người
chết về thế giới bên kia. Đó là các bài mo, các bài tiễn hồn của người Thái.
Ngoài ra còn có những bài hát trong các nghi lễ, phong tục khác như: cầu sức
khoẻ (các bài mo trong lễ kỳ yên, giải hạn, làm vía, mừng nhà mới, mừng tuổi
thọ của người Thái...)
I. Nhóm các bài ca nông lễ: phục vụ các lễ tiết trong chu kỳ sản xuất nông
nghiệp, từ phát nương, gieo hạt, cấy cày, cầu mưa, cầu mùa đến làm cỏ,
mừng lúa mới…
1.1. Khắp trong lao động sản xuất của người Thái Thanh Hoá
Khắp trong lao động sản xuất của người Thái là một mảng lớn mà trong
khuôn khổ một chuyên đề chúng tôi không thể trình bày hết được nên trong phần
này chúng tôi chỉ trình bày một số nghi lễ và lễ tục trong lao động sản xuất.
10
Do đặc điểm sống ở vùng thung lũng núi, hoạt động sản xuất của người
Thái phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên, nên việc tiến hành các nghi
thức thờ cúng đều nhằm cầu xin trời đất ban mưa thuận, gió hòa để có những
mùa màng bội thu.
Có rất nhiều lễ cúng được người Thái tiến hành trong năm: Lễ cúng mở đầu
là lễ xuống đồng (Tế tòng). Trước khi cấy làm lễ "hạch ma". Khi cây lúa bắt đầu
làm đòng họ tổ chức lễ "hau cẳm"(hay còn gọi tục ăn khem). Trước và sau khi
gặt, người Thái làm lễ cảm ơn "hồn lúa" và rước hồn lúa về nhà. Lễ vật cúng tế
bao giờ cũng có đủ nếp, cá, trứng và rượu cần...
1.1.1. Tục đón tiếng sấm đầu xuân
Một trong những lễ thức quan trọng được người Thái tiến hành hàng năm là
lễ cúng "phà ma" (trời về), hay còn gọi là tục đón tiếng sấm đầu xuân. Tiếng sấm
đầu năm, trong tiềm thức dân gian Thái là tín hiệu về một thời khắc tốt đẹp cho
sản xuất, gieo trồng. Đây cũng là thời điểm hồn lúa trở mình thức dậy bao ngày
đông giá lạnh. Khi nghe hồn lúa dậy, người Thái dựng cột treo ta leo và hoa lúa,
nhóm lửa, lấy nước suối rửa ninh đặt trên bếp. Mọi người trong gia đình, trong
bản ra suối rửa mặt mũi, chân tay rồi trở về cúng thổ thần, ma bếp và tổ tiên. Gia
đình trưởng họ (ông đẳm) phải sắm lệ lớn hơn các gia đình khác. Vì rằng, ông là
người thay mặt dòng họ cầu xin trời đất ban mưa thuận gió hòa cho mùa màng
bội thu, cuộc sống ở dương gian luôn được no đủ. Tục này, người Thái xứ Thanh
gọi là “Huối ná pi mớ”.
Từ sáng tinh mơ, già trẻ gái trai trong bản đã tự giác ra các bến suối, mó
nước, bến sông, chân thác. Trên đường đi, vai vác ống luồng, đeo ống vèo,
hoặc gánh thùng tôn, tay với ra xung quanh lối đi để bẻ một cành lá, thường là
ngọn ổi, bông hôi, hay ngọn sim, mua. Người nào người nấy khẽ khàng cúi
xuống nguồn nước, hớp một ngụm nước súc miệng, rồi hai bàn tay vốc nước
lên rửa mặt. Đoạn họ nhúng cành cây, ngọn lá xuống suối, phẩy nước loang
11
lên khắp áo, khăn, váy, quần. Miệng lầm rầm hát những câu ca, hoặc đọc làu
làu những lời thoại vần vè. Lúc rửa mặt thì đọc những câu:
Nước chảy từ đâu tới ?
- nước chảy từ khe đá kẽ cát chảy rới
Mặt ta bẩn ta đến rửa
Ta dậy sớm trước chim
Ta đến sớm trước chuột
Người trên thấy họ thương
Người khôn thấy họ mến
Ăn cơm ta được mời trước
Biết thêm được nhiều cái hay cái tốt vào lòng
Cành này là cành chi ?
Lá này là lá gì ?
Anh em bảo cành cây ổi 1
Thiên hạ bảo lá cây hôi 2
Tôi chẳng bảo cành ổi
Tôi không nói lá hôi
Tôi bảo cành cây quý cây thiêng
Cành cây của nàng hiên, nàng ủa 3
Lời đẹp nàng đến nói
Phải sạch hết xấu xa
Khi phẩy nước lên mình, họ lại đọc:
Hôm nay ngày sinh của trời
Hôm nay ngày lớn của then
Gà vịt nở thái thêm cũng ngày hôm nay
1 ,2
3
Hái được cành cây gì thì chỉ tên cây ấy, còn cành ổi hoặc bông hôi trong đoạn này là cách nói cụ thể
Nàng Hiên, nàng ủa là nhân vật trong truyện cổ tích được người Thái nhắc nhiều trong hát dân ca.
12
Hùm beo chạy về rừng cũng ngày hôm nay
Cá dưới nước thoát khỏi con rái cũng ngày hôm nay
Ta đến kéo cái xấu trong người ta ra
Ta đến đổ cái xấu trong người ta sạch
Thiên hạ làm bùa mê, ta phủi
Tạo bản bỏ thuốc độc, ta phủi
Gái tơ nói điều xấu, ta phủi
Qua suối phải luồn máng nước, ta phủi
Phải luồn qua sào phơi vải đen, ta phủi
Phải luồn qua sào phơi vải trắng, ta phủi
Phải luồn qua sàn mẹ goá, ta phủi
Phải ăn cơm thừa chó, ta phủi
Phải ăn cá thừa rái, ta phủi
Phải ăn trầu thừa người, ta phủi
Ta phủi nó trôi theo suối
Ta đuổi nó trôi theo dòng
Phủi sạch hết xấu xa
Lời ta nói rơi xuống đất
Đất chuyển nghiêng
Lời ta buông bay lên trời
Trời dậy sớm
Sau đó mọi người buông cành ổi, cành sim, mua, cành cây hôi trôi cuốn
theo dòng suối, nguồn nước Tiên.Trong khi “làm lễ” để được rửa mặt, nếu trẻ
em, người câm, điếc không nói được thì người lớn kể vè, đọc hộ.
Rửa mặt “huối ná pi mớ” xong, không ai bảo ai, mọi người cùng ra về nhà,
về bản để người nào việc nấy lại bắt tay vào những đam mê trong những ngày
tết.
13
1.1.2. Lễ Mừng kháu mớ (mừng lúa mới)
Hằng năm vào ngày 15 tháng 09 âm lịch – thời kỳ chuẩn bị cho gặt hái mùa
vụ, mỗi làng thường dành một thửa ruộng để cấy lúa nếp cái hoa vàng (là giống
lúa nếp thuần nông ngày xưa). Khi lúa thửa ruộng đó vừa gần xanh chắc hạt thì
ông chủ chòm (trưởng thôn) cắt cử các cô gái ra tỉa từng bông mang về, tối cho
thanh niên nam nữ tập trung đến nhà ông chủ chòm tuốt. Khi tuốt loại lúa đó
phải dùng bằng cạnh bát để nạo từng nắm cho ra hạt (không được tuốt bằng
chân), rồi người thì tuốt, người thì rang, số còn lại khèn bè, khặp Thái, khua
luống, trống chiêng, đánh bóng bù. Rang xong đem vào cối giã rồi dần sàng ra
hạt gạo. Loại gạo non này rất thơm, cho gạo vào đĩa đặt lên bàn thờ, nơi miếu
thờ thần làng, mời thần làng ăn trước. Ý là tạ ơn ông đã phù hộ cho dân bản
mạnh khỏe, làm ăn được mùa. Sau khi cúng thần làng, cả làng cùng được ăn để
lấy lộc cho năm sau. Thời gian lễ hội diễn ra từ 19 giờ đến 23 giờ 30, rồi tổ chức
cho thanh niên nam nữ múa hát, chơi trăng. Múa các điệu xòe, nhảy sạp, khua
luống, trống chiêng.
Bài hát Lễ mừng lúa mới như sau:
Chúm mua khau mớ lum pa mui hom hương,
Chum mua nắc ken khau thau huối sơ dân bản
Khăp hát căp căn muôn chùm
Vụ mua ni khau lương cả túng quê
Khau quê hau sôc khăp háy pa
Bản mương hau phơ có pay tân pát
Hau muôn chum mua khau bội thu
Hát dịch âm:
Mừng mùa lúa mới gió đưa hương tỏa thơm
Dân bản hát ca vui mừng mùa lúa mới
Mừng mùa chắc hạt lúa đỏ, suối trong
14
Dân bản hát ca cùng nhau vui mừng.
Vụ mùa này lúa vàng cả đồng quê
Lúa quê ta cả khắp núi nương
Bản mường ta ai nấy ai gặt hái
Ta vui mừng mùa lúa mới bội thu..1.
Ở Yên Thắng – Lang Chánh cứ đến mùa lúa mới, dân tộc Thái có tục hổm
sanh – tổ chức cho tổ tiên ăn mừng cơm mới. Tối hôm đó, ông mo phải đi rao
khắp bản về cách đối nhân xử thế, nhắc nhở mối quan hệ giữa người với người
và ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội nhằm củng cố kỉ cương, giữ
cho bản mường yên vui hạnh phúc. Lời rao của ông mo đại thể như sau:
Trời tối mừng cơm mới con cháu yên ăn
Trăng thanh đón lúa mới con cháu yên nghỉ.
Chớ qua sa – chớ cán bông - dệt vải
Mọi người phải yên lặng lắng nghe
Chớ ném đá qua vai
Tại bến suối chớ kẻ trên người dưới
Cầu thang nhà ai hỏng phải chữa
Vợ con ai hư phải dạy bảo khuyên răn
Lợn phá chuồng phải đeo gông
Chó giữ phải dắt dây thòng lọng
Treo cây xem gốc cành
Nhìn xuống dưới thấy rợn người chớ lên
Ầm ĩ chạy lại, nghe ồn ào chạy tới ngó
Thấy việc đúng phải bênh,
Không bênh việc nhỏ sẽ thành việc to.
Lệ bản đừng có quên, luật mường phải ghi nhớ
1
Ghi theo lời kể của ông Ngân Văn Hưởng xã Quang Hiến
15
Chớ khắc ở một mình, có họ hàng mới vui
Cùng đoàn tụ đông người mới tốt, phòng đột ngột khi dữ
Chớ di đi chuyển lại, dẫn thân mình mất sức hoài công
Đất người có bồ gạo trắng chớ cầm đòn gánh dòm ngang.
Bản mình rộng phải ra công khai phá
Chớ mong ăn ở trời, chớ đợi ăn ở đất
Tất bật làm ra
Thóc gạo ở dưới đất, thức ăn ở trên rừng
Bông tốt ở bãi cỏ, cá to ở vũng sâu
Ai chăm làm sẽ có, ai ngại khó sẽ nghèo đói suốt đời.
Chớ khoe thuyền, khoe bến
Chớ chê trên, trách dưới
Việc nắng mưa mặc trời
Nơi nào nguyên chỗ ấy
Làm việc hệ trọng chưa thành chớ nói
Vào bản chớ ồn mừng, vào mường chớ để tiếng xấu
Uống rượu đừng quá say
Uống say hại người, việc dồn, người chê.
Vào rừng chớ đi lẻ một mình
Lúc không may xảy ra điều gì không biết
Cỡi ngựa phải xem kỹ yên cương
Săn hươu nai chỗ đón lõng chớ chuyển
Lặn nước chớ thọc tay vào lỗ
Nơi hiểm trở đừng trèo
Không khéo sẽ xảy ra tai nạn
Chớ xiểm nịnh vu oan
Cần lo toan bữa ăn sớm chiều.
16
Người mở hòm chớ gần, người mổ lợn đến giúp.
Chớ chém quàng làm bậy,
Của ai để người ấy.
Vợ người để người hôn, con người để người nựng.
Từng khóm tre, gốc nứa quanh làng
Măng củ để chủ nấu canh gà, nhờ bà con cấy lúa
Măng mắt để chủ chặt làm thang chắt lúa.
Mùa khô hanh phải nhớ
Củi mục đừng có đun, củi cháy lan đừng lấy.
Cháy nhà sẽ bị phạt vạ
Trâu phá lúa phạt trăm đồng một con
Kiện cáo nhau phạt ngàn đồng mỗi vụ.
Bản làng phải hòa thuận yên vui
Lửa cháy cùng nhau tắt
Giặc đến cùng nhau giết
Vui mừng cùng nhau hưởng
Việc khó khăn vướng mắc cùng bàn bạc tháo gỡ
Mọi người trong bản phải nhớ kỹ làm theo.!
Bài khặp của ông mõ là lời răn dạy tới mọi người trong dân bản. Đó là cách
đối nhân xử thế, là cách cư xử đối với những chuyện xảy ra trong gia đình, trong
bản, khuyên nhủ con người sống phải có tình có nghĩa, phải biết đối xử tốt với
mọi người. Có như vậy, thì khi mình gặp khó khăn mới có người giúp đỡ. Đó
cũng là lời răn đe những ai làm việc xấu, hại người sẽ bị luật làng, lệ bản trừng
phạt…
1.1.3. Lễ cúng vía lúa
Bên cạnh Lễ mừng lúa mới, người Thái còn có lễ cúng vía lúa, cầu mong
cho lúa tốt tươi được mùa bội thu.
17
Lễ cúng vía lúa thường làm trong các gia đình. Chủ nhà mời thầy mo về
nhà, gọi thần thổ công, thổ địa, chín phương trời mười phương đất. Chủ nhà có
mấy quả đồi đã đến mùa trồng lúa nay mời một số dòng họ đến làm chứng như
họ Vi, họ Lò, họ Lương…đồng thời xông đất để cây trồng tốt tươi, mùa vụ thuận
lợi.
Lễ vật cúng gồm có: một mâm xôi gà, một chai rượu, một đĩa trầu. Lời cúng
trong lễ cúng vía lúa như sau:
Xum tú ma ni xó cháu đin quan nha pu úc kháu
Ệt na hớ đí lái
Ệt háy xớ hớ đáy lái mác mua
Chơ van cá nha hớ tộc nung hánh
Chơ kháu chúng nha hớ “manh canh” chặp
Xó hớ mị phấn mi lum láy têu
Xó mơi cháu đin quan nhá
Ma kin pan cỗ chăng vưng mơi
Ma kin pan kháu púc kháu mơ
Mi chen láu xó mơi
Cắn bau mi khoam muuốn
Khau có mơi tán kin
Mơi tán kín hớ đáy mau
Hớ ná tán may oóc
Pan khấu hơn cháng nấng
Ken kháu doon doọng bóc phái
Nhơ ắn mư cun tắm
Mơi cháu đin quan nha
Kín hớ ná may oóc
Kin doọng noộc cộc khăm kín mác mạy
18
Doọng tố pệt kín khấu
doọng tô khoai kin nhá
cháu phí mun thay cháu hươn
mi khoam mơi tán kín xía chăng vưng moi
mơi dơ ….mơi dơ…!
Dịch nghĩa:
Chúng tôi đến đây xin thần đất để trồng lúa
Trồng lúa ruộng thì lúa tốt tươi
Làm ruộng nương thì lúa nương được mùa
Khi gieo mạ đừng cho rơi xuống vực
Khi trổ bông đừng cho bọ xít vây quanh
Cầu mưa thuận gió hòa
Xin mời thần công thổ địa
Đến đây ăn mâm cỗ rồi phù hộ
Đến ăn mừng cơm mới trồng lúa
Có chén rượu xin mời
Tôi không biết mời hay
Nhưng cũng mời thần uống
Mời thần ăn thần uống no say
Cho da mặt hồng hào
Mâm cơm nhà khéo nấu
Hạt cơm trắng như bông
Nhờ bàn tay người giã
Mời thần công thổ địa
Uống cho mặt hồng hào
Ăn như phượng hoàng ăn hoa quả
Như con vịt ăn thóc
19
Như con trâu ăn cỏ
Thầy mo thay mặt gia đình có lời mời thần uống và phù hộ
Xin mời …xin mời!
Bài ca trong lễ cúng vía lúa của thầy mo được lặp đi lặp lại ba lần như trên,
nhằm nhấn mạnh lời cầu xin của gia chủ, mong thần công thổ địa phù hộ cho
mùa màng được tươi tốt và bội thu. Trồng lúa ruộng thì lúa ruộng tươi tốt, trồng
lúa nương thì lúa nương được mùa…
1.1.5. Lễ cầu mưa:
Tục "cầu mưa" là một lễ tục rất phổ biến trong cộng đồng người Thái và
diễn ra hàng năm, được tiến hành vào những đêm trăng sáng, khi thời tiết gây
hạn kéo dài. Lễ cầu mưa chủ yếu do trai gái trong bản đứng ra tổ chức. Họ tụ tập
thành từng đám đi vòng quanh bản vừa đi vừa đập mẹt, đánh trống...bắt chước
tiếng sấm hoặc tuốt lá cọ, tuốt lạt, vừa hát bài "xin nước mưa"(xo nặm phồn).
Sau đó các đám đông kéo nhau ra các mỏ nước (bó nặm) ở đầu các bản để nô
đùa và chơi trò té nước, mô phỏng theo tích "cầu xin" đó sẽ làm cho ông trời tức
mình làm ra mưa to sấm chớp.
Nhà bà già cao tuổi nhất bản là điểm đến đầu tiên của đoàn hát cầu
mưa.Dẫn đầu đoàn hát có một người lĩnh xướng, người thứ hai cầm một cái sàng
gạo. Khi tới sân nhà bà cụ, mọi người dừng lại, đội ngũ chỉnh tề.Người lĩnh
xướng gọi vọng lên trên nhà mời bà cụ ra cầu thang làm lễ cầu mưa. Dứt lời mời,
cả đoàn hưởng ứng bằng lời hát cầu mưa:
Cầu mưa
(Ủa lúm - Ủa lang)
Ủa lúm ơi! Ủa Lang!
Xin ăn thịt nai ướp của nàng
Nhà này có chủ nhà
Nhà này có con trai
20
Nhà này có trâu cái
Nhà này nhà tốt bụng
Có cái gì cũng cho
Không cho ta ngồi đó
Sáng ngày kia trở lại
Sáng ngày mai lại đến
Đến làm gì?
Đến xin cơm mớm cháu
Đến xin cơm mớm em
Gói ớt ở gác dưới cũng xin
Gói muối ở gác trên cũng xin
Xin nước mưa làm mạ
Xin nước trời làm ruộng
Làm ruộng phải làm mạ
Gieo mạ cấy Nà Hon...
Tằm trong vườn chết úa
Lúa trên nương cháy bốc
Ốc dưới ruộng chết khát
Men rượu lâu ám khói
Con ruồi chết cháy quăn
Người già khóc đòi mưa
Trẻ con khóc đòi nước
Gà trống gáy trên đồi Pù Cóc (1)
Về bảo vua trời cho cơn mưa xuống
Mưa lâm thâm Pù Muối (2) mưa đi !
Hạt mưa bằng trái gắm
1 2
Pù cóc, Pù muối: Tên thường gọi của các ngọn đồi.
21
Mọi con suối lũ to
Đỉnh gò mối đầy nước
Nước tràn miệng hố mài
Nước lai láng hố rạng (1)
Mọi suối cạn nước dâng.
Cám ơn nhé, cháu con ơn bà (2)
Cám ơn bà ơn nhiều lắm lắm
Đi bến được trứng vịt lớn không ơn bằng
Giật câu được cá to không ơn bằng
Qua poọng được vò bạc, chum vàng không ơn bằng
Đong bạc vào bao đen
Chen vàng vào túi vải, ơn bà ơn nhé !
Trời sắp đổ cơn mưa
Người người mừng được nước.
Ở vùng người Thái xã Quang Hiến, Yên Thắng huyện Lang Chánh bài hát
gọi mưa như sau:
I
Ủa lúm ơi… Ủa lang!...
Trời tức mình làm nắng không mưa
Nay xin nước xuống cày ruộng mạ,
Xin nước trời xuống cày ruộng mùa
Lúa ở nương chết héo
Ốc ở đồng chết khô
Đất nẻ, gió hun
Con ruồi chết ngạt.
1
2
Củ dạng: cùng dòng giống với củ mài, khi giáp hạt, bà con thường đi đào dạng về ăn
Khi được mưa người ta kính trọng gọi nàng Ủa bằng bà
22
Người già ra bến
Được chạy cơn mưa
Ơn được hạt mưa to bằng quả gấu
Các suối đều lũ lụt
Các hố hốc đều ngập
Các hố củ mài tràn đầy
Các gò mối trôi thành bãi bằng,
Được mùa lúa tốt nặng bông,
Được mùa lúa nếp dẻo thơm
Ra bến nhặt được trứng vịt,
Đi câu nhặt được trứng ngỗng,
Qua bản nhặt được bạc,
Qua mường nhặt được vàng.
Đầu dây buộc dây
Cuối dây buộc ngựa,
Qua đường nhặt được quả hạc
Loảng xoảng cũng của nhà này”.
II.
Lấp loáng vào,
Lấp loáng ra,
Tất tửi bà chủ nhà,
Chủ nhà này tốt bụng,
Có cái gì cũng cho.
Không cho chúng tôi chưa chạy,
Không cho chúng tôi chưa đi,
Sáng hôm sau chúng tôi lại đến,
23
Sáng sớm mai chúng tôi lại về.
Đến xin cơm của người làm ruộng,
Đến xin cá của người làm cá,
Cho canh môn mặn cũng ơn,
Cho canh môn nhạt cũng ơn
Gói cho canh, xương “mành cành” cũng ơn
Gói cho cơm thừa bữa sáng, bữa trưa cũng ơn
Gói cho ớt cay ở gác cũng ơn
Gói cho muối mặn ở gác cũng ơn
Ơn… ơn … ơn… lắm!
Hát hết bài, người lĩnh xướng nhắc mọi người hát lại từ đầu. Lúc này, ở trên
cầu thang cụ già xuất hiện. Bà dùng cả hai tay vào chậu nước đặt trước mặt do
con cháu bố trí sẵn và luôn tiếp thêm nước từ trong máng đựng nước ra chậu. Cụ
bà lần lượt té nước vào đám đông đứng theo hàng lố nhố dưới sân. Khi té đến
chậu nước thứ ba, thứ tư xem chừng ai cũng ướt hết mũ, nón, đoàn người
nhường cho người cầm sàng gạo tiến lên để hứng lấy chậu nước cuối cùng của
bà cụ dội từ cầu thang xuống, vừa dội nước cụ già vừa vui vẻ nói:
Chà... chà....hạt mưa to như quả “muội”. Mọi sông suối đều đỏ phù sa!
Chà....chà ...úi chà! Mưa to này, mưa dày hột này! Chà ...chà ...!
Mọi người lập tức hát vang bài hát cầu mưa để tỏ lòng cảm ơn bà: “ờn...ơn
...dơ”! (ơn ... ơn ...lắm)!
Hát trọn bài đoàn hát kéo nhau rồng rắn quanh sân nhà cụ bà một vòng rồi
đi hát tiếp sang các nhà khác. Những nhà tiếp theo chủ nhà không nhất thiết làm
lễ “ban nước” mà chỉ cần biếu đoàn hát gói xôi và gói muối con. Việc cảm ơn và
biếu quà cũng theo hình thức như ở nhà cụ bà.
Sau khi đi khắp lượt các nhà trong bản, đoàn trở lại nơi xuất phát để châm
đuốc. Mỗi người thắp một bó đuốc trên tay, họ đi một vòng quanh bản, sau đó
24
kéo nhau ra suối. Tất cả các bó đuốc được chụm thành hai, ba đống bên bờ suối,
lửa đuốc sáng rực cả một góc trời. Họ liền chia ra từng tốp nam, nữ đứng mặt đối
măt với nhau, để thi tát nước “vàng” nước “bạc” vào người, vào mặt nhau. Khi ai
nấy đều ướt sũng, mới chịu tan đêm hội trở về nhà mình.
Bài khặp trong lễ cầu mưa là lời của dân bản gửi tới vua nước. Đó là lời cầu
xin vua nước ban mưa, tạo mưa để dân bản cày ruộng, làm nương, làm rẫy, để
gia đình có nước để dùng, để ăn uống, sinh hoạt…
Lễ hội cầu mưa ở mường Kỷ - Kỳ Tân Bá Thước, cách tổ chức tương tự
như trên, nhưng diễn ra liên tục 3 đến 4 ngày. Ba ngày đầu làm các nghi lễ như
các vùng Thái khác, nếu sau ba ngày cầu mưa (mỗi ngày cầu một lần) mà trời
vẫn không mưa thì lập đàn cầu mưa vào ngày thứ tư. Các lễ vật xin được trong 3
ngày được đưa ra bãi đất cạnh suối Bo để làm lễ cầu mưa. Đồ lễ được bày ra cái
nong đặt ở bãi đất bằng cạnh suối nước, cùng lúc đó dân làng chuẩn bị dụng cụ
làm một số trò diễn. Bà chủ lễ hội cầu mưa làm thủ tục và khắp (khấn) bài cúng
cầu mưa
Nội dung bài văn khấn thần linh dài 178 câu gồm 3 phần:
Phần 1: mời thần linh ăn. Tiếng Thái gọi Mơi ngai
Phần 2: mời thần linh uống rượu cần. Tiếng Thái gọi là Mơi láu
Phần 3: tiễn đưa thần linh về trời. Tiếng Thái gọi là Xú mưa
Phần 1: mời thần linh ăn.
Tôi có mâm, có cỗ đến mời thần linh,
Tôi có mâm, có cỗ mời thần linh đến xơi.
Có cơm, có rượu tôi mời các ngài ăn
Ăn no rồi các ngài mới rộng lòng
Ăn no rồi các ngài mới rộng bụng
Mới cho nước trời xuống cho người làm mạ
Cho nước trời xuống cho người làm ăn
25