Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Am nhac dan gian Thái Thanh Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.04 KB, 144 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
ÂM NHẠC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI THÁI THANH HÓA
ThS. Ngô Xuân Sao
Trường Đại học Hồng Đức Thanh Hóa
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Âm nhạc là một lĩnh vực gắn bó mật thiết với con người. Dân tộc Việt
Nam nói chung, người Thái nói riêng luôn sống trong âm nhạc, gắn với âm
nhạc. Hầu hết âm nhạc đều bắt nguồn từ trong cuộc sống, trong mối quan hệ
gắn bó giữa con người với thiên nhiên, với môi trường sinh sống. Người Thái
sống trong môi trường không gian rộng lớn, gắn với thiên nhiên rừng núi,
ruộng nương, với sông suối, khe hồ. Từ xa xưa, người Thái đã lắng nghe và
bắt chước âm thanh của thiên nhiên để vận dụng vào cuộc sống, làm niềm vui
cho cuộc đời, dần dần họ đã biến nhiều vật dụng xung quanh mình, nghệ thuật
hóa thành âm nhạc. Từ những dụng cụ tre nứa, gỗ, luống giã gạo, người Thái
khai thác âm thanh để biến thành những bản nhạc hồn nhiên, rộn rã. Chỉ cần
một tấm ván đặt dưới đất (hoặc trên nhà sàn), hai nửa ống tre, ống luồng các
mế, các chị vừa ngồi xem trai gái nhảy múa quanh cây hoa vừa cầm hai ống
tre (luồng) ấy gõ xuống tấm ván theo nhịp, hòa cùng chiêng trống thành
“boóng bu” rộn ràng. Một cái luống giã gạo quen thuộc bà con cũng biến
thành nhịp điệu khua luống mà đến bất cứ bản làng nào của người Thái Thanh
Hóa trong những ngày vui, những dịp có đình đám đều vang vang quen thuộc.
Nhu cầu âm thanh trong đời sống là nhu cầu chung của con người. Con người
sống trong môi trường khác nhau sẽ lợi dụng âm thanh của thiên nhiên để tạo
dựng nên những loại hình âm nhạc mang những nét đặc sắc riêng trong nhạc
cụ, lời ca tiếng hát.
Trong phậm vi chuyên đề, chúng tôi sẽ tìm hiểu Âm nhạc dân gian dân
tộc Thái từ các loại nhạc cụ, các làn điệu dân ca và những điệu múa. Hầu hết
trong các sinh hoạt, các nghi lễ, các loại hình nghệ thuật dân gian này đều
được người Thái sử dụng.
1



II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1.
Âm nhạc dân gian của người Thái ở Thanh Hóa - nhìn từ
phương diện nhạc cụ
Theo Địa chí Thanh Hóa, “Cho đến trước 1945, các loại nhạc cụ quen
thuộc trên đất xứ Thanh cũng đủ 3 hệ: hệ gõ, hệ hơi, hệ giây, trong đó hệ gõ
(gồm hệ toàn thân vang và hệ màng rung) rồi đến hệ giây là phổ biến hơn cả.
Điều đó có lẽ là do điều kiên nguyên vật liệu và do khả năng chế tác, song
mặt khác cũng bộc lộ khả năng âm nhạc xưa ở Thanh Hóa: vận dụng đôi tay
thành thạo hơn là dùng miệng, dùng hơi để thổi” (1).
Trong các loại nhạc cụ dân gian, nhạc cụ gõ được xem là loại nhạc cụ ra
đời sớm nhất trong lịch sử văn hóa âm nhạc của dân tộc. Bởi lẽ, nó đã tạo ra
các nhịp phách bằng những âm thanh, tiết tấu, từ buổi đầu sơ khai và chuyển
hóa dần theo sự phát triển của xã hội trong thế giới âm nhạc hiện đại. Nhạc cụ
tre nứa còn là một trong 5 hệ của nhạc cụ gõ dân gian đã được đề cập đến (hệ
đá, hệ đồng sắt, hệ tre nứa, hệ gỗ và hệ màng da).Có thể nói, nhạc cụ tre nứa
chiếm vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của mỗi dân tộc, gắn bó với
cuộc sống và trong lao động sản xuất, cùng phong tục tập quán, lễ hội của mỗi
miền, mỗi địa phương góp phần làm phong phú thêm cho tâm hồn, tình cảm.
Ngay từ khi ra đời, nhạc cụ tre nứa dân gian đã là một hệ nhạc cụ hoàn chỉnh
có vai trò riêng, phong phú về số lượng, đặc sắc về âm thanh, đa dạng về cấu
trúc, tạo nên vẻ độc đáo riêng cho nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Dựa vào nguồn âm thanh của nhạc cụ mà người ta chia nhạc cụ tre nứa
thành 3 loại: nhạc cụ dây, nhạc cụ hơi và nhạc cụ tự thân vang. Nhạc cụ dây
gồm: Goong Kham (Ê Đê), Roong rơla (Mơ Nông), Poong pang (Mường)... là
những nhạc cụ mà khi được tác động, dây căng rung lên, tạo ra âm thanh.
Nhạc cụ hơi là nhạc cụ khi được tác động bằng không khí để tạo ra âm thanh.
1


Địa chí Thanh Hóa. Sđd. Tr.330.

2


Nó bao gồm các loại Pí (Pí tam lang, pí đôi, pí ló, pí thiu, pí phắp...), khèn
(dân tộc Thái, Tà ôi, Pa cộ..), Klong put (dân tộc Ba-Na, Xê-Đăng). Nhạc cụ
tự thân vang gồm mõ, t’rưng (dân tộc Ba-Na, Gia Rai, Xê-Đăng) là những
nhạc cụ khi được tác động, toàn thân nhạc khí rung lên, tạo thành âm thanh.
Nhạc cụ tre nứa mang tính phổ biến bởi nó được tạo nên từ chất liệu thô
sơ, vốn rất sẵn có ở mọi nơi, như trong vườn, làng mạc hay trong rừng. Đây
cũng chính là nét đặc thù của loại hình nhạc cụ này. Mặc dù được làm từ tre
nứa, có cấu tạo đơn giản, nhưng nó lại có khả năng gây sự chú ý cho người
nghe. Cũng chính vì thế, nhạc cụ tre nứa chiếm tỉ lệ cao trong hệ thống nhạc
cụ dân tộc Thái. Từ những ống tre, ống bương gùi nước ở suối, đồng bào Thái
đã biến nó thành loại nhạc khí có tác dụng độc đáo, hấp dẫn người nghe.
Nhạc cụ tre nứa cũng như các loại nhạc cụ dân tộc khác, do được sản
sinh từ xa xưa nên chúng không tránh khỏi những nhược điểm đặc biệt là về
mặt âm lượng. Trừ các loại nhạc khí thân vang thì hầu hết chúng đều phát ra
âm thanh nhỏ nhẹ, độ ngân có giới hạn. Khi âm nhạc cổ truyền chịu ảnh
hưởng của nền âm nhạc phương Tây và đòi hỏi của xã hội ngày càng cao thì
loại nhạc cụ tre nứa nói riêng và các loại nhạc cụ dân tộc nói chung đều được
cải tiến để đáp ứng được nhu cầu diễn tả những tâm tư, tình cảm của con
người đối với xã hội.
Qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử, nhạc cụ tre nứa vẫn ngân vang,
nói lên những vui buồn, ước mơ, khát vọng của con người. Nó là cầu nối giữa
con người với thiên nhiên, giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng
dân tộc anh em, giữa Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới. Do vậy,
ngày nay, nhạc cụ tre nứa là loại hình vô cùng độc đáo trong kho tàng nhạc cụ
dân tộc. Nó góp phần làm tăng thêm những giá trị tiềm ẩn của nền âm nhạc

nước nhà, là sản phẩm đặc thù thể hiện tính văn hóa du lịch của đất nước và
con người Việt Nam.
2.2.

Nhạc cụ của người Thái Thanh Hóa.
3


2.2.1. Các loại nhạc cụ gõ
2.2.1.1. Luống giã gạo
Luống là một cây gỗ dài từ 2m – 3m, lấy cây gỗ to, đục khoét giống hình
chữ U. Đặt nằm ngửa như một "cái máng dài” bằng gỗ có thành cao 3 bên.
Thường từ 5 – 9 người gõ vào hai bên thành luống và một người gõ thẳng
xuống đầu luống gọi là Quèn loóng (tức khua luống). Khua luống là một loại
nhạc cụ mộc mạc đơn sơ, muốn tiếng được vang xa, phải chọn một loại cây
gỗ to, chắc thớ, dai để tránh sứt vỡ khi dùng, người Thái thường chọn gỗ cây
chua khét, cây kiêng, cây mít để làm luống vì nó vừa chắc vừa bền, khoét ruột
tạo thành một lỗ hổng rộng để tạo âm thanh và những chiếc gậy bằng gỗ vừa
tay cầm, dài khoảng 1,5 – 1,7m. Luống được đặt dưới gầm nhà sàn, trên nền
đất, hướng lên nhà.
Âm thanh khua luống nghe nhộn nhịp vang xa báo hiệu trong làng bản có
việc vui, việc buồn. Nhịp điệu khua luống phù hợp với âm thanh cồng chiêng,
gõ sạp, boóng bu.
2.2.1.2. Cồng chiêng.
Một bộ cồng chiêng người Thái thường có 4 chiếc cồng bằng đồng và
một chiếc trống. Tang trống thường chọn bằng cây gỗ rừng rỗng sẵn, mặt
trống bằng da trâu phơi khô. Người Thái Thanh Hóa gọi bộ cồng chiêng là
“bộ giàm”. 4 chiếc gọi là cồng Mẹ, cồng Chị, cồng Em và cồng Út. Nhịp điệu
cồng chiêng vang lên báo hiệu trong làng có việc vui, việc buồn.
Người Thái phân biệt cồng chiêng dùng vào việc vui buồn khác nhau.

Cồng chiêng đám cưới khi đánh không gõ vào tang trống, cồng chiêng
đám tang khi đánh thường gõ vào tang trống (tùng cách, cách tùng).
Gõ chiêng theo trình tự chiếc thứ nhất, rồi đến chiếc thứ ba, rồi gõ chiếc
thứ hai rồi đến chiếc thứ 4, gõ chầm chậm cùng với tiếng trống, âm thanh
trống chiêng khi vang lên có sức cuốn hút người nghe. Mọi người đều có khả
năng tham gia đánh cồng chiêng sau khi quan sát khoảng 5 đến 10 phút.
4


2.2.1.3. Boóng bù ( gõ ống)
Tiếng Thái gọi “Tắng boóng bù”. Boóng bù được cắt bằng gốc nứa, vầu,
gốc tre, luồng, có đường kính khoảng 5 – 7cm (vừa một nắm tay), chiều dài
ống khoảng 45 – 50cm. Được gõ xuống tấm ván và hai ống gõ vào nhau hoà
nhịp với khua luống và cồng chiêng.
Ngày nay khua luống, cồng chiêng, boóng bù được sử dụng phổ biến vào
các lễ hội làng xã như: khai trương làng văn hoá, xã văn hoá, trong đám cưới,
đám tang, trong lễ hội kin chiêng booc mạy, chá một, chá mùn, cá sa, xằng
khàn. Ba loại nhạc gõ nêu trên còn được bảo tồn và phát huy giá trị của nó
trong cộng đồng các dân tộc Thái Thanh Hóa.
2.2.2. Các loại nhạc cụ hơi.
2.2.2.1. Khèn bè (Pí pe).
Khèn bè là một loại nhạc cụ độc đáo của người Thái. Khi trăng lên các cô
gái trong bản thường rủ nhau lập thành những nhóm từ năm đến sáu người kéo
sợi bật bông trên những nhà sàn to nhất. Các chàng trai kéo đến và mang khèn
thổi. Thông thường những chàng trai nào thổi khèn giỏi thì mới chiếm được
cảm tình của người con gái Thái. Xưa kia có nhiều cô gái vì mê tiếng khèn của
các chàng trai nào đó mà giấu bố mẹ theo chàng về làm vợ, dù chàng rất nghèo.
Tục ngữ Thái ở Yên Khương (Lang Chánh) có câu:
Mũi tên vênh vui lòng sóc
Trai giỏi khèn gái dễ ưng.

Truyền thuyết Thái Yên Khương – Lang Chánh – Thanh Hóa kể về nguồn
gốc xuất xứ của cây khèn bè như sau:
Ngày xưa, có một đôi vợ chồng người Thái còn trẻ và xinh đẹp vùng
Mường Vạt. Họ lấy nhau đã mười năm mà vẫn không có con, buồn lắm. Đã
thế, người chồng lại đổ bệnh. Cả bản sợ hãi, họ cho là pên hướn (bệnh hủi).
Bọn chúa đất đã bắt gia đình, họ hàng anh làm một cái lán nhỏ tận trong rừng
sâu, bắt buộc anh phải vào đó ở. Cấm mọi người giao tiếp, sợ lây bệnh. Hàng
5


tháng, một hai lần gia đình tiếp tế lương thực, muối với một số lượng ít ỏi, để
từ xa, gọi người bệnh đến lấy.
Người vợ trẻ buồn đau, bị quan bản cấm thăm chồng, với một quy ước hết
sức khắc nghiệt, nàng bỏ đi lang thang. Người chồng sống lủi thủi một mình,
làm bạn với chim rừng, muông thú. Anh đã lấy một cây nứa nhỏ, cắt lỗ hình
chữ nhật, lấy cật tre giắt vào làm hình lưỡi gà để thổi, phát ra những âm thanh
nghe vui tai. Sau đó anh làm thành đôi, ghép thành ba mà thổi lên, thì nghe rõ
một âm thanh thánh thót, gọi được chim muông về bầu bạn. Lâu dần, anh ghép
vào bảy đôi thông qua một cục gỗ, có lỗ thoát không khí làm nơi thổi và dùi lỗ.
Nếu bịt lại mới kêu, và hai đầu bằng nhau như một cái bè.
Khi anh thổi, đầu óc anh nghĩ tới cảnh đau đớn, chia ly vợ chồng, bệnh
tật. Nhưng lạ thay, những âm thanh phát ra lại như mỉa mai. Bực mình, anh lấy
dao phát một nhát đứt vát một đầu và vứt chiếc khèn vào lùm cây. Đêm về
trăng sáng, anh lại tìm nhặt lấy cái khèn bị chém vát ra thổi. Lạ lùng thay, chiếc
khèn nói lên được tâm sự của anh. Đầu anh suy nghĩ, các ngón tay bấm theo
cảm hứng. Tiếng khèn là một bản nhạc lòng da diết, làm thức tỉnh mọi lương tri
con người. Khi nghe, họ mất đi cái ác, cái xấu mà gần gũi yêu thương nảy nở,
nhất là tình người. Càng ngày anh thổi càng hay, anh say sưa sửa chữa, sắp xếp
lại khèn, từ làm lưỡi gà bằng cật tre, anh đã hy sinh cái nồi đồng duy nhất anh
có, lấy dao chặt gọt làm lưỡi gà cho chiếc khèn của mình. Chiếc khèn lưỡi gà

bằng đồng làm xong, thổi lên hay đến mức chim muông về làm tổ. Mọi người
được tin thằng pên hướn mi pe (thằng hủi có khèn). Họ nấp từ xa lắng nghe, ai
cũng thương anh. Tin đó đến tai bọn chúa đất, tạo bản; chúng lén lút nghe trộm.
Quả thật, sau khi nghe tiếng khèn của anh, bọn chúng mất đi cái gian ác, độc
địa; chúng bỏ đi cái ý định đày ải đến chết và cho người nhà đón về, làm lều ở
góc bản. Từ đó, tiếng khèn của anh lại vang xa. Cô vợ bỏ đi trở về, nghe tiếng
khèn của anh, lâu dần cũng tĩnh tâm không còn đi lang thang. Hai vợ chồng
khoẻ mạnh trở lại. Cứ tối đến, anh chồng ra đầu sàn thổi khèn, cô vợ ngồi cạnh

6


quay xa, kéo sợi, rồi họ sinh con trai, con gái. Anh dạy cho con trai thổi và làm
ra nhiều khèn. Từ ngày đó, bản anh ngày càng yên vui,
Cấu tạo của cây khèn (theo nghệ nhân Lương Đại Thêm, người ở bản
Xắng Hằng xă Yên Khương) như sau:
Khèn bè thường có cấu tạo ống theo số chẵn, có 10, 12 hoặc 14 ống nứa
tép dài khoảng 80 cm. Những ống này xếp thành 2 hàng xếp cạnh nhau. Bầu
khèn làm bằng gỗ nhẹ, dẻo, có thớ vặn nên khó nứt. Ở đầu bầu khèn có 1 lỗ gọi
là lỗ thổi. Những ống nứa xuyên qua bầu và được gắn bằng nhựa con tù mù.
Nhựa con tù mù trong rừng có màu đen dùng để dính tay cầm và các đoạn nứa
tép lại với nhau. Khi dùng nhựa này sẽ tránh lây các bệnh qua đường hô hấp vì
có thể có nhiều người thổi vào một chiếc khèn.
Khèn Bè được thổi bằng cả 2 chiều: hít vào, thở ra. Kỹ thuật diễn tấu
của Khèn Bè có các ngón vê, ngón láy rền tạo hiệu quả âm thanh giòn, rè và
mảnh, các kỹ thuật thổi chồng âm dùng âm trì tục cho nhịp điệu khèn nhịp
nhàng tươi vui, đầy đặn, có chiều dày, là nhạc cụ thuận tiện cho việc diễn tấu
những bản nhạc đa thanh.
Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng khoảng 1,5 quãng tám. Theo
truyền thống, nam giới sử dụng nhạc cụ này và thường dùng để đệm hát. Thổi

khèn có nhiều điệu, nhưng có 6 điệu cơ bản:
+ típ tỏi là điệu đầu tiên, mở màn cho tất cả các điệu hát, thử xem khèn
có tốt hay không
+ làn điệu khặp
+ làn điệu đêm trăng gọi bạn
+ làn điệu xuôi sông,
+ làn điệu cưỡi ngựa,
+ làn điệu nhảy phím chá.

7


* Khèn bè có âm sắc gọn, mảnh và rè. Mỗi ống phát ra 1 âm nhất định,
bên trong ống có lưỡi gà bằng đồng hay bạc giát mỏng. Tiếng khèn thanh hay
trầm phụ thuộc vào lá đồng. Trên mỗi ống có lỗ bấm gần lưỡi gà, nhưng nằm
phía ngoài bầu, còn lưỡi gà nằm bên trong bầu.
Khèn bè là nhạc cụ hơi đa thanh, âm vực rộng gần 2 quãng 8. Thang âm
khèn bè theo điệu thức “rê thiên nhiên” có 6 bậc âm là: Rề, Mi, Fa, Sol, La,
Đô, Rế.
Các ống dài ngắn có âm như sau:
a) Hai ống dài nhất là hai nốt Rê:

âm chủ

b) Hai ống thứ nhì (ngắn hơn) là hai nốt Mi:

cách nhau quãng 8

c) Hai ống thứ ba (ngắn hơn) là hai nốt Fa:


cách nhau quãng 8

d) Hai ống thứ tư (ngắn hơn) là hai nốt Sol:

cách nhau quãng 8

e) Hai ống thứ năm (ngắn hơn) là hai nốt La:

cách nhau quãng 8

g) Hai ống thứ sáu (ngắn hơn) là hai nốt Đô:

cách nhau quãng 8

h) Hai ống thứ bảy (ngắn hơn) là hai nốt Rề:

cách nhau quãng 8

Nốt La cao ở ống thứ 5 thường dùng làm nốt Trì tục
Cách cấu trúc thang âm các ống khèn của Thanh Hóa cũng giống khèn
Tây Bắc. Khèn bè của dân tộc Thái dọ (huyện Thường Xuân, Như Xuân...) thì
ống dài hơn cho nên âm thanh nghe trầm lắng hơn(1).
Khèn được thổi trong các đêm liên hoan văn nghệ thôn bản. Âm hưởng
khèn bè cuốn hút lòng người. Tiếng khèn giữ nguyên bản sắc của người Thái,
thiết tha, tình cảm, làm vui nhộn các cuộc vui, góp phần xây nên nếp sống văn
hoá tinh thần của con người nơi núi rừng xanh thẳm.
Ngày nay, người Thái ở Thanh Hóa còn rất ít nghệ nhân thành thạo để sản
xuất và sử dụng nó.

(1)


Địa chí Thanh Hóa. Sđd. Tr.342

8


2.2.2.2. Sáo ôi ( Tiếng Thái gọi Pí Khùi).
Sáo ôi được chế tác bằng thân nứa tép có đường kính 1cm, dài từ 0,7 –
1m. Thân nứa được chọn cây nứa tép mỏng, thẳng đem phơi khô. Sáo ôi có 4 lỗ
để tạo nốt nhạc. Đục hai lỗ nối mắt ống làm lỗ phát âm thanh. Âm thanh được
điều chỉnh bằng thanh lạt mỏng, Sáo ôi thường được sử dụng cho làn điệu khặp
Thái, thổi các bài hát phổ thông, làn điệu Xường. Vì Sáo Ôi dễ thổi nên hiện
nay trong các làng bản vẫn thường sử dụng vào dịp chơi trăng, văn nghệ, khặp
xường, khi trong gia đình có công việc vui.
2.2.2.3. Sáo đứng ( Pí một - kèn é)
Sáo đứng thường dùng vào lễ hội chá một. Sáo được chọn từ cây nứa tép
phơi khô có đường kính khoảng 1cm, chiều dài khoảng 45 – 50cm được khoét
bằng 5 lỗ và khoét lỗ khắp lưỡi sáo ở đầu ống. Lưỡi sáo làm bằng đồng mỏng,
lưỡi đồng càng mỏng càng tiết kiệm được hơi. Sáo đứng (Pì một) thổi theo âm
điệu hát và và nhịp nhảy khi lễ hội diễn ra. Loai sáo này thường được sử dụng
nhiều nhất khi các bà khi đọc lời tế vào đám tang hoặc trong lễ hội chá một.
2.2.2.4. Sáo nghiêng (Pí é).
Sáo nghiêng được chế tác từ cây nứa tép khoảng 4mm, dài 40 – 45cm.
Đục 4 lỗ tạo nốt nhạc và một lỗ lắp lưỡi bằng đồng mỏng. Nếu chơi trong thời
gian ngắn có thể gọt mỏng một miếng ngay thân cây nứa để làm lưỡi sáo phát
âm thanh. Loại sáo này thậm chí thân cây ra ngoài đồng cũng có thể tạo được
Pì é để thổi. Loại sáo này chủ yếu được dùng để thổi khi có đám tang.
2.2.2.5. Sáo ngang (Coi, gọi là Pàu coi).
Loại sáo này tạo từ cây nứa để hai mắt kín có đường kính khoảng 1cm. Sáo
được khoét bằng hai lỗ cách mắt nứa khoảng 5 – 7cm. Còi ống (coi) dành cho

người vào trong rừng gần làng thổi khêu gợi và kêu gọi bạn tình hay cũng là một
sự báo hiệu để người thân quen biết, thường thổi vào tiết trời xuân hoặc mùa hè
vào trong rừng ngồi mát rồi gọi nhau, tiếng còi ống vang rất xa.

9


Cũng tương tự âm thanh loại sáo ngang có người chỉ cần cây sáo 1 mắt kín
khoét lỗ, còn một đầu để thông khi thổi lấy bàn tay bịt lỗ để tạo làn điệu và âm
thanh khác nhau.
Loại sáo này chỉ dùng báo hiệu và trêu ghẹo khi lên nương rẫy hoặc khi
chăn trâu bò trên đồi.
2.2.2.6. Thổi ống ( Pàu cúm )
Ống thổi được làm bằng một ống nứa vầu thông nhau, có chiều dài
khoảng 50cm trở lên, đường kính ống khoảng 5 – 7cm. Loại ống này có âm
thanh như trâu bò rống, thường thổi khi vào rừng tìm trâu bò để doạ và xua
đuổi đàn trâu bò về làng.
2.2.2.7. Thổi lá ( Pàu pẹp)
Loại nhạc cụ bằng hơi này được làm bằng ống nứa vào dài khoảng 20cm
cắt thông nhau, ở giữa ống rạch một thang có khe hở vừa lọt hai lá rừng,
thường dùng bằng lá cây sa nhân vừa kêu, vừa rai khi thổi không bị rách.
Nhạc cụ này khi phát ra giống tiếng hoẵng kêu. Thường dùng loại nhạc
cụ này trong trường hợp đi săn bắn, những nghệ nhân thành thạo có thể thổi
các làn điệu khác nhau để vui văn hoá, văn nghệ dân gian.
2.2.2.8. Sáo ngắn ( Gọi Pàu coi)
Loai nhạc cụ này cắt một đoạn nứa, bịt một đầu mắt bằng nứa có đường
kính 0,5 – 1cm (Tựa nắp bút). Loai nhạc cụ này thường dùng khi đi săn, đi
vào rừng sâu phòng khi lạc lối để thổi báo hiệu người lạc nằm ở hướng nào để
người thân biết đường báo hiệu lại. Có nghệ nhân còn dùng ngay đầu chiếc
gậy leo đổi thành sáo ngắn để thổi. Loại sáo này ít dùng sinh hoạt văn nghệ,

chủ yếu dùng cho những người săn bắn trong rừng sâu.
2.3.

Cách dùng một số nhạc cụ

10


Nhạc cụ dùng cho đám cưới, đám ma cơ bản giống nhau. Có khác chăng
là khác về những quy ước trong khi sử dụng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý đến
nhạc cụ dùng trong săn bắn tập thể.
Chiêng, trống, luống giã gạo dùng chung cho cả đám cưới và đám ma.
Cồng, xập xoẻng chỉ có trong đám cưới. Khi đi săn nhạc cụ độc nhất là chiếc
cồng. Chúng tôi sẽ sơ bộ nói về từng thứ nhạc cụ, chủ yếu là cách sử dụng để
thể hiện tình cảm và ý muốn của con người.
2.3.1.Chiêng trống
Chiêng trống (coong giăm) là hai loại nhạc cụ khác nhau nhưng người ta
thường dùng cặp đôi trong đám cưới và đám ma. Dù có thể không có trống
nhưng không thể thiếu được chiêng. Bộ chiêng trống gồm một trống và bốn
chiêng. Khi đánh, trống để dưới sàn nhà, chiêng treo lên cây xà dọc của gian
khách, người ta treo bốn chiêng trong đám cưới. Trước kia, trong đám cưới
các gia đình dòng họ dân (páy) dù khấm khá cũng chỉ được treo một bộ. Dòng
họ quý tộc (tạo) treo hai, ba bộ; trong đó có một bộ treo ở cổng ra vào. Cùng bộ
chiêng ấy nhưng treo lên trong đám ma phải bỏ đi chiếc nhỏ nhất để đảm bảo
số lẻ theo quy ước của phong tục. Tắm rửa, mặc quần áo cho người chết xong,
người con trai cả một chân đặt lên mặt chiếc ghế mây (tằng vai), một chân đặt
ở sàn nhà thúc trống. Con trai thứ hai đánh chiêng. Con gái và phụ nữ trong gia
đình khua luống. Chiêng trống, luống ăn nhịp với nhau cứ ba hồi một. Nguyên
tắc của đánh chiêng là đánh chiếc nọ bỏ qua chiếc kia để đánh chiếc gần đấy,
đối với lần một thì cách đánh ngược lại đối với lần hai. Bộ chiêng trống do hai

người phụ trách ai đến mừng, đám cưới và phúng viếng, đám ma đều có thể
đánh chiêng trống được. Phần lớn chỉ có những người trẻ tuổi trông coi hai thứ
nhạc cụ này.
Có thể hình dung cách đánh chiêng qua hình vẽ dưới đây:
B
A’
B
A
Lần 1: AA’
Lần 2: BB’
11


2.3.2. Cồng
Cồng được dùng trong đám cưới và dùng để đi săn tập thể. Trong đám
cưới cồng được đưa đi đón rể và đưa dâu. Đám cưới con cái dòng họ dân chỉ
được dùng một cồng, do một người con trai chưa vợ mang đi trước đám rước.
Đám cưới con cái các tạo mường dùng hai cồng: cồng bên trai đi trước, cồng
bên gái đi sau. Dọc đường thỉnh thoảng người ta đánh ba tiếng một. Lúc cần
nghỉ thì đánh ba hồi ba tiếng. Cồng bé hơn chiêng và âm thanh cao hơn âm
thanh của chiêng.
Đối với săn bắn tập thể, cồng trở thành nhạc khí trong số những người
đuổi thú trong rừng có một người chuyên khua cồng với vài chục người hò la.
Thợ săn nghe tiếng cồng dù đi xa đoàn cũng biết tìm đường trở lại dùng cồng
để luyện chó săn như sau: cho chó ăn và đồng thời đánh cồng. Dần dà phản xạ
được người cho ăn khi có tiếng cồng hình thành trong đám chó. Cuối cùng,
khi đã thành thói quen chỉ cần một hồi cồng không thôi cũng trở thành “tín
hiệu” tập hợp đàn chó. Cồng là thứ nhạc khí rất hiệu nghiệm săn được hươu
nai, lợn rừng, dê rừng... Cồng còn được dùng trong rất nhiều việc khác nữa.
R.Robert cho biết: “Đánh cồng trong trường hợp quan trọng và cấp bách. Mõ

để mời người tới làm việc làng hay phổ biến một quyết định hành chính.
Cồng đánh phối hợp với nhiều thứ khác là báo hiệu đình đám”.
2.3.3. Khua luống
Luống là cối giã gạo. Lòng luống hình máng, đầu luống có một lỗ tròn.
Ngày thường, người ta có thể khua luống cho vui. Khua luống bắt nguồn từ
trong lao động. Giã gạo là công việc của người phụ nữ trong gia đình. Hơn 3
giờ sang, người phụ nữ Thái đã thức dậy trên ngôi nhà sàn, than đã đỏ, lửa soi
rạng mặt người. Tiếng chày giã gạo bắt đầu gõ nhịp, thưa thớt... đều đều...
dồn dập. Tiếng chày thúc giục mọi người trở dậy, bắt đầu với công việc.
Tiếng khua khi nhanh, khi chậm, lúc khoan, lúc nhặt đánh động cả những con
chim rừng còn ngái ngủ cùng hòa vào nhịp sống – lao động của một ngày mới
nơi rẻo cao...Trong quá trình làm việc, để cho công việc nhanh hơn và đỡ
12


nhàm chán, mệt nhọc, thỉnh thoảng người ta khua thêm một vài nhịp vào
thành luống (cối giã gạo) hoặc khua chày với nhau, tiếng kêu phát ra nghe vui
tai. Sau những giờ lao động mệt nhọc, tiếng khua luống lại vang lên, thành
điệu, thành bài, thành khúc ca dung dị mà thân thuộc của núi rừng... Cứ thế,
dần qua thời gian, khua luống – một loại hình văn nghệ dân gian truyền thống
của dân tộc Thái – đã ra đời từ mỗi nhịp chày ấy! Ngày tết, ngày cưới, đám
ma thì luống vừa là công cụ lại vừa là nhạc cụ thực thụ.
Khua luống là một loại nhạc cụ mộc mạc đơn sơ, muốn tiếng được vang
xa, chỉ cần một cây gỗ to và làm bằng gỗ cây chua khét nó vừa chắc vừa bền,
được khoét ruột tạo thành một lỗ hổng rộng để tạo âm thanh và những chiếc
gậy bằng gỗ vừa tay cầm, dài khoảng hơn 1m. Khua luống thường có từ 6
người – 8 người; trong đó một người làm cái, điều chỉnh nhịp (ó tại), một
người gõ nhịp và 3 cặp dùng những chiếc gậy gỗ gõ vào thành của cây gỗ
được khoét bỏ ruột, theo nhịp phách do người làm cái gõ nhịp, tạo thành một
loại âm thanh vừa rộn ràng, chắc gọn lại mộc mạc và giản dị, hòa lẫn với

tiếng cồng, tiếng chiêng tạo nên một không khí lễ hội tưng bừng, rộn rã.
Nhìn lại quá khứ, điệu khua luống của dân tộc Thái rất phong phú, góp
phần sinh hoạt văn hóa vui tươi trong làng bản và trong những ngày hội truyền
thống của dân tộc. Khua luống được chia thành nhiều điệu: điệu chào khách,
điệu mừng cưới, điệu tiễn con cháu lên đường nhập ngũ, điệu đám ma, điệu đi
thăm anh em đường xa, điệu mừng lúa mới, điệu lệ làng... Mỗi khi khách quý
đến chơi nhà, sau lời chào của “Điệu chào khách”:
“Khách đến nhà em khua tiếng loóng
Khách đến poỏng noọng khọ nhịp chày
Tiếng khua này thay lời chào khách”.
Tiếng khua luống vang lên tha thiết, đón mời như nâng bước chân người
trên mỗi bậc cầu thang.

13


Sau loong ton (luống đón khách) trang trọng, tươi vui, tới điệu loong
pạt diễn tả không khí chuẩn bị hội vui đón mừng cô dâu mới của bản làng.
Trong bản hợp âm rộn ràng, hồ hởi ấy ta vẫn nghe rành rọt từng âm sắc của
từng luống ở từng nóc nhà trong bản hợp lại, luống này giã gạo, luống này giã
giò, luống này giã cốm, luống này nện bánh dày...trầm bổng xen nhau, gợi lại
những âm thanh thực tế báo hiệu sự thịnh vượng và no ấm của bất cứ một
làng bản nào nơi núi rừng.
Tiếp đó là điệu loong tùng, diễn tả tâm trạng chờ đợi đoàn người ngựa
đón cô dâu về. Vẳng lại tiếng chiêng rền, tiếng vó ngựa, tiếng chân bước của
đoàn người. Đoàn người càng đến gần, vó ngựa, chân bước càng rộn rịch, cả
làng ào lên ra đón mừng.
Không khí tíu tít, ríu rít, tấp nập mở đầu cho điệu loong chám diễn tả
một cách sinh động không khí họp mặt của đám đông, hớn hở mừng vui. Sau
phút giây gặp gỡ, đón chào là không khí trang nghiêm, đĩnh đạc của hôn lễ

trong nhà trai. Hình tượng thực điển hình cho một đám cưới, ngắn gọn mà gây
ấn tượng sâu sắc, độc đáo.
Loong soỏng, loong sảm, loong pạc xạc dùng trong hội mừng được
mùa, như đưa bản làng, đồng ruộng trôi vào cảnh đẹp dập lúa đêm trăng. Với
tiếng đập lúa thậm thịch, tiếng rào rạt reo vui của những hạt lúa nhuộm thẫm
ánh trăng, tiếng những hạt giống bay vòng trong thinh không rồi nhẹ mình
gieo vào nương rẫy còn đẫm ánh trăng sương...
Loong xom kết, loong tùng xạc, loong căm quảng dùng trong lễ hội
mừng cơm mới, hay điệu loong tiền dùng để báo hiệu tang lễ...mỗi điệu đều
có một sắc thái, tiết tấu riêng phù hợp, phong phú và gợi cảm.
2.3.4. Khèn Bè
Khèn bè là nhạc cụ của nam giới, dùng trong sinh hoạt vui chơi giải trí,
thường để đệm cho hát, múa trong những đêm trǎng sáng. Đêm đêm các
chàng trai đến dưới nhà sàn của các cô gái thổi Khèn Bè để giãi bày tâm sự.
14


Cũng có khi Khèn Bè được sử dụng trong lao động như trên đường đi làm
nương rẫy. Người thổi khèn phải hiểu được tính năng riêng của khèn bè và
đặc biệt phải thuộc những giai điệu riêng, những bài hát để từ đó cùng với
tiếng khèn có thể chuyển tải đến người nghe cái hay, cái tinh túy của tiếng
khèn, âm thanh của khèn vừa giai điệu lại vừa có phần đệm tạo cho người
nghe cảm giác thư thái, yên bình, đó cũng chính là nét độc đáo của khèn bè.
Có thể nói Khèn Bè là nhạc cụ đa âm có tính chuyên nghiệp cao trong âm
nhạc dân tộc Thái.
Diễn tấu âm nhạc của khèn bè
*Diễn tấu khèn ở Thanh Hóa dùng để đệm cho các điệu khắp. Phổ biến
có 6 bản nhạc khèn bè sau:
- Loóng xằm (nghĩa là xuôi dòng, thuận chiều, trôi chảy...)
- Loóng tớ xăm nửa: tính chất tự sự , than thân trách phận, thở than...

- Loóng tháu: âm điệu trầm, chậm rãi, tính chất phù hợp với người già
- Loóng phá đán: tính chất náo nhiệt, ồn ào (giống nghĩa như phá đám)
- Ngàn cháu: tính chất trữ tình duyên dáng, thi ca
- Hắp lự: tính chất cuồng nhiệt, gấp gáp, say sưa, trẻ trung.
Sinh hoạt diễn tấu khèn bè có thể hình dung như sau:
Các chàng trai Thái xách khèn bè lên nương hoặc đi chơi các bản khác.
Sau buổi lao động mệt nhọc, lúc nghỉ tay họ thường đem khèn ra thổi, hoặc
khi màn đêm buông xuống, sau bữa tối, các chàng trai hay ngồi bên cửa sổ
đem khèn ra thổi dăm ba câu cũng là để giãi bày tâm sự. Vui nhất là những
đêm trăng. Bỗng có tiếng cồng chiêng, khua luống từ nhà ai vọng đến rộn rã
báo hiệu nơi ấy đang có cuộc chơi rượu cần. Đây là những dịp để các chàng
trai, cô gái tỏ tình mà chiếc khèn bè chính là chiếc cầu nối nhịp giao duyên.
Sau đây là một phần trong bài khèn Gọi nàng trăng (ới nang đứng) mở đầu
trong những đêm trăng sáng trai gái khắp giao duyên:
Gái trai :
15


Dậy, dậy đi hồn của nàng Đúng
Dậy, dậy đi bang của nàng trăng nàng sao
Nàng đi chơi hay đang ngủ ?
Đi chơi xin gọi sang
Đang ngủ xin gọi thức
Đi ruộng cũng gọi về
Đi dạo dưới bang trời xin gọi lại
Bởi nên từ gốc từ cành liền ngọn
Gái son nhớ ánh trăng
Trai làng nhớ sao sáng
Trăng đi đâu cách mặt
Sao ở đâu vía hồn cách trở

ở góc trạm trai đến gọi
nơi ngoài sân,gái đến kêu :
Buông xuống đi hồn của nàng Đúng !
Sà xuống đi vía của nàng trăng nàng sao!
Trai mường bằng muốn nhìn nàng Mọn
Chụ ngọc ngà muốn thấy nàng trăng nàng sao
Nàng đúng :
Lời gốc đã nghe trai mường bằng gọi đến
Tiếng ngọn đã nghe gái mường dưới gọi lên
Nàng muốn xuống nhưng lòng thấy sợ
Uôn muốn đưa lời mà lòng thấy lo
Xuống buổi trưa còn bận việc chấu
Đi buổi sớm còn mắc việc nhà
Còn bỏ đi vải quấn dở trong xa
Bỏ đi tơ quấn dở trong ống
Còn việc then đến gọi đầu nhà
Việc vua trời ùn đến cầu thang
Uôn không làm, vua quan trách cứ
16


Tiếng gọi trai mường bằng hãy dịch nơi khác
Lời kêu gái mường dưới hãy dịch nơi xa
Đợi tháng giêng, tháng hai chọn ngày xuống
Gái trai:
Chớ sợ, đừng lo nàng ơi
Nàng trăng đừng chê nước máng thấp mường bằng không múc
Nàng sao chớ trêu rau đắng người mường dưới không canh
Đừng chê tiếng chát chua trai gái đến gọi
Lời đẹp của gái trai đã chọn

Chẳng dám lừa nàng vào đăng đó thả trôi
Chẳng dám lừa nàng vào miệng đơm chết héo
Buông xuống đi sáng sáng nàng sao
Sà xuống đi nàng trăng then đúc
Sao cười, đất mường bằng sáng
Trăng ngó, đất mường dưới tỏ
Xuống, xuống đi trăng sao!
Tung dây hẳng xuống dạo đất mường bằng
Múa dây tơ xuống chơi đất mường dưới
Cho ánh trăng buông đến ngoài sân
Cho ánh trăng tỏ đến vườn cau
Cho ánh trăng trải khắp rừng sâu
Trai mường bằng muốn nhìn nàng Mọn
Chụ ngọc ngà muốn thấy nàng trăng nàng sao
Bíu dây trời đi xuống mường thấp, xuống đi !
Ôm dây then tụt xuống mường bằng, xuống đi !
Theo dây gió, gió uốn dẫn đường
Theo cành mây, mây nghiêng dẫn lối
Trai mường bằng vui đón nàng lại
Gái mường dưới vui đón nàng về
Nàng hãy lại theo dãy cây rừng nở lá
17


Hãy lại theo hàng cây sum, cây sa vươn cành
Cây sum mọc cạnh nà
Cây sa nở ven suối
Hãy lại theo rừng cúm đầu nương
Lại theo rừng gianh cạnh bản
Đến với rừng nánh sau nhà

Hoa mua nở đón chân nàng lại
Nàng hãy đập gót chân đi bên khóm cau
Luồn mình đi bên khóm mía
Bước chân đi dưới bóng đào
Vào cửa tái (1) đến sân dọn sạch
Sân rộng có bầy gà khoang
Sân ngang có bầy gà chọi
Nhà dưới không tiếng mời đừng lên
Nhà trên không tiếng gọi đừng hỏi
Hãy đến bên tà áo chàm gái Tay
Hãy đến bên khăn thêu gái Xá
Trai mường bằng chiếu đẹp trải đợi
Gái mường dưới chiếu mới trải chờ
Trải chiếu ở ngoài sàn nơi phơi chăn hoa
Trải phá ở ngoài hiên nơi khăn trắng
Đặt sẵn ghế mây để đợi nàng ngồi
Xuống, xuống đi !
Sáng sáng ơi trăng sao
...
Đầu hôm cho mường dưới được nghìn mặt trăng
Giữa đêm cho mường bằng xin ngắm mặt sáng
Xin nàng buông dây sáng xuống trần
Buông ánh ngọc ngà về đất
1

cửa tái : cổng vào nhà

18



Sáng sáng ơi vầng trăng !
Bấy giờ các chàng trai từng tốp, chân bước thong thả, miệng thổi khèn
như mời gọi các cô gái. Đầu tiên là điệu "Loóng xằm" có nghĩa là xuôi dòng,
thuận buồm xuôi gió, đừng ngại gì cả, chúng ta hãy vui vẻ đi chơi. Điệu
"Loóng xằm" vui tươi, lôi cuốn bước chân các cô gái còn ngập ngừng, e lệ.
Khi đi qua nhà cô gái nào đó mà muốn gắn bó khèn bè thổi sang điệu "Xăm
tớ, xăm nứa".
Khèn muốn giãi bày:
"Anh đi khắp chòm trên bản dưới mà chưa gặp người yêu.
Anh như con chim bay mãi mà chưa tìm được cành để đậu".
Nghe điệu khèn "Xăm tớ, xăm nứa", cô gái nhận ra chàng trai đang chờ
mình đến đám rượu cần nên mặc váy áo, trang điểm, bước xuống cầu thang
cùng chàng trai sánh bước. Bố mẹ mừng cho con gái đã có bạn. Điệu "Xăm
tớ, xăm nứa" như gắn bó đôi bạn với nhau. Trên đường, điệu "Loóng xằm" lại
réo rắt ngân vang, dặt dìu theo bước chân đôi bạn tình.
Đến đám rượu cần, cùng các cặp trai gái khác lần lượt bước lên cầu
thang. Dưới mái nhà sàn bên bếp lửa hồng ấm cúng các người già đông đủ,
người chám mời rượu cần cất lên tiếng khặp mời rượu, nhạc cồng chiêng,
khua luống cất lên rộn ràng giữa cảnh trời đêm tối mịt mùng của núi rừng tĩnh
mịch. Người già đã vít rượu cần, vừa uống vừa trò chuyện. Các cây khèn bè
cất lên điệu "Lào tháu", âm thanh trầm lắng, chậm rãi. Người già vừa vít rượu
cần, vừa nghe, gật gù, tâm đắc tu hết sừng trâu rượu này đến sừng trâu rượu
khác.
Trời về khuya, người già ngà ngà hơi men, nghe chừng muốn về nghỉ.
Khèn chuyển sang điệu "Phềnh phá đán". Tiết tấu điệu nhạc nhanh, giai điệu
ồn ào náo nhiệt, những chùm ngang tai như xóa đi không khí trầm trầm.
Người già hiểu đã đến lúc nên về, nhường chỗ cho cánh trẻ. Bấy giờ chỉ còn

19



lại trai gái. Từ đây, các cây khèn chuyển sang đệm nhạc cho khặp, cất lên
những khúc hát tâm tình
NAM :
Em ơi
Trăng sáng đến chân cột khung cửi
Trăng luồn vào chuồng quấn chân trâu nghé
Trăng lọt đến chiếu em nằm
Trăng đưa chân anh lại
Đừng chê nhé, rương đựng thỏi vàng
Chớ chê nhé, hòm đựng thỏi bạc
Đường anh lại, lỗi anh sang
Vì tiếng đồn lọt tới
Rằng :
Trăng sáng khắp cửa rừng
Trăng trải ánh ngà ngọc
Trăng nghiêng dòm hoa nở
Hoa nở thơm đầu núi
Hoa nở trắng đầu sông
Hoa tím vàng đầu bến
Anh nghe đồn có gái thanh xuân trắng ngần vừa lứa
Ước được xem mặt, anh bèn đến ngắm
Mong được thấy người , anh muốn đến thăm
Thăm người tóc bằng cài ngang vai
Đôi má đeo hoa cang cộp
Đôi môi nở hoa bua
Mắt ướt long lanh sao trời
Ngắm mãi, nhìn hoa lòng chẳng chán.
Nữ :
Không ngờ em chẳng dám tưởng

20


Không ngờ voi ngà ngọc ghé lều bù ruộng
Không tưởng voi ngà vàng ghé lều bù nương
Voi xuống đồng cho quạ xin ngắm
Voi xuống ruộng cho ka ính xin nhìn
Em không ngờ áo trắng phèn đến đất mường bé
Áo trắng nõn tới đất mường đen
Anh ơi, lúa tẻ nhà anh có đủ gặt ?
Lúa nước nhà anh có đủ hái ?
Em nghe đồn gần vọng đồn xa
Đồn rằng :
Con ruộng lớn nhà anh nhiều đao tranh phát
Em nghe đồn nhà anh có con gà cựa đúc
Gà đậu trên cành bương, ngọn dang
Đuôi óng ánh buông suống mượt mà
Em muốn bắt sợ gà kêu
Em muốn lôi sợ gà nản
Muốn đưa mắt sợ có người ghen
NAM :
Em ơi
Lúa tẻ nhà anh chưa đủ ngâm trong áng
Nếp cái nhà anh chưa đủ gặt
Nước mắt rớt áo gối em nằm
Nước mắt rơi tà áo anh ở
Bởi tay cầm đũa, đũa còn thiếu bạn
Hiu quạnh một mình đũa muốn có đôi
Anh muốn buông lời tới nơi bạn ở
Hoa nở có ngày nó héo

Hoa thắm có bữa nó tàn
Chuối trồng có ngày nó rũ
Số anh số thấp hèn nhờ anh nâng hộ
21


Số anh số kém cỏi, bạn tình có thương ?
Nữ:
Số em thấp có tới được chăng ?
Số em bé có bằng được chăng ?
Sợ gần bằng vườn dứa đến che
Khi gần tới vườn chàm đến lấp
Chàm đến lấp anh nhớ nhắn tin
Dứa đến che anh cho em biết
Đừng để noọng quá bước như gió qua mặt
Anh ơi, nhìn thấy nước em mong thấy cá
Nhìn thấy ruộng em ước thấy cơm
Nhìn thấy ruộng em ước lời
NAM:
Có thật chăng
Thật bằng chăng là ?
Có thật chăng
Thật nhẵn chăng là ?
Lời anh rơi xuống đuờng
Em đừng để lạc ngoài ngõ,
Lời anh bỏ vào túi
Em chớ để lạc ngoài rừng,
Lời anh đến với em chẳng được như tiếng thiên hạ
Tiếng anh đến với noọng chẳng được như tiếng quân quan
Lời chẳng nên, mong em đặt cạnh

Tiếng chẳng được mong noọng để bên
Anh ơn nhiều
Nghìn mùa sau vẫn nhớ.
Nữ:
Anh nói chi nói lời nặng,
Anh kể chi kể lời sầu
22


Nói lời năng cho thương noọng khó
Kể lời sầu cho khổ lòng em
Lời anh rơi xuống nước cá pắn gãy đuôi
Lời anh buông xuống suối, cá mương lên trứng
Lời anh vọng vào rừng, voi ngẩn ngơ quên ngà
Cá ở khoang sâu quên thở
Tằm ở nong quên lá
Bụi xịa trong vườn quên xanh
Nhím ở núi quên hang
Nai hoẵng quên đồi gianh đốt
Sóc quên quýt tháng tư
Dơi quên thăm quả bá
Gà rừng quên gáy trên nương
Trâu ăn cỏ quên chuồng
Nước trong ảng quên chao
Người trên sàn quên bước
Người ngồi bên cửa sổ quên đứng
Khoái (1) trong rừng quên tướng
Ong trong núi quên tổ
khỉ vượn quên hang
Lời anh nói cho em mang, em giữ

Em ước đắp lấy nặm Tè (2) về cày mạ
Ngăn dòng sông Mã để cày ruộng làm cơm
Mà sợ đắp nặm Tè, nặm Tè kiêng quá
Ngăn sông Mã, sông Mã kị nhiều
Cầu muốn bắc sợ đường chẳng thông
Lời ta trao dưới nước sợ cá Khoang Ly (3) đón đường
Lời ta hẹn trên không sợ quạ đen chằn lối.
1

Khoái : ong khoái

2

Sông Đà

3

một khúc sông ở mường Lị, huyện Quan Hoá

23


NAM:
Khoang Lỵ nhà anh chưa có cá
Trời mường anh chẳng có quạ
Còn em
Cây nứa tép hay cây nứa ngộ
Gái chưa chồng hay vợ người ta ?
Nữ :
Anh ơi

Cây nứa ngộ nên lòng mới dài
Gái chưa chồng em mới đến đây
Em người tộc không có họ
út người khó không có nhà
Kẻ lạc phương không có người nhận
Từ ngày nên gốc chưa ai nâng
Từ bữa nên cây chưa ai bứng
Chưa tựa cây này cành nọ so đôi
Dây chưa leo chưa quấn một lần
út người lạc phương như bè đơn trôi sông Mã
Người lạc lạ như gà lạc đàn.
NAM :
Thật vậy chăng là ?
Thật cho chăng
Đúng vậy cho chăng ?
Hoa cải nở tháng giêng vàng cực
Mầu tím đón trăng soi đầu tháng
Mầu vàng trăng vui ngắm cuối tuần
Anh ước và anh mong
Ước được ăn canh tôm vũng sâu chóp núi
Ăn canh cá đơm đó ngọn cây
Ăn trứng bổ đôi cha mẹ chia phần
24


Hồn anh quện vía em
Cơm chung ép dựng đũa hai đôi
Cơm chung mâm muối ngọt cùng chấm
Nữ :
Có dám và có mong chăng là?

Tầu dong đâu sánh bằng tầu chuối
Em không dám ba mươi giỏ rau chắng (1) trong vườn
Chẳng dám ba mươi giỏ rau nguôn (2) đầu bến
Không dám hàm răng đẹp mắt sáng long lanh
Sợ đôi mắt sắc là chồng người ta
Chỉ muốn hiểu suối sâu anh đến dò ý
Muốn hiểu suối cạn anh đến dò hang
Cát dưới sâu không mịn
Đá suối cạn chẳng bằng
Anh ghét út nhiều, đến thử lòng chăng ?
NAM:
Không dám nhưng cũng mong được em ơi
Hoa nguôn(1) lộn đầu rồng cho anh xin đám
Không nên cây lúa cũng xin nên cây vào vạo
Nên cây vào vạo sánh đôi cây lúa
Hay là chuối nhỏ sắp nở buồng
Người xinh đẹp hẹn nơi dựng cửa
Miệng nói chưa nhưng khăn chàm đã sắm
Miệng nói nóng nhưng áo mặc đôi
Bánh chưng đã lên thang sen quả
Bánh lá đã nên cửa nhiều trăm
Nhà ngoại đã ưng lòng gả
Người nên vợ ưng lòng đội nón trắng ra đi
1

rau chắng
rau nguôn : một thứ rau rừng thường được nhắc đến trong lời khặp. Trong thực tế, loại rau này
hiếm có.
2


25


×