Hình sự Buôn lậu là tội phạm rất đáng quan ngại, một hiện tượng tiêu cực của xã hội. Trong thời kỳ kinh tế đang mở cửa, buôn lậu ngày càng thể hiện sự đa dạng và phức tạp trong các thủ đoạn của tội phạm. Nó không chỉ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với đờ
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.14 KB, 13 trang )
Mục lục:
Danh mục viết tắt:
1. BLHS: Bộ luật hình sự
2. UBND: Ủy ban nhân dân
3. TNHS: Trách nhiệm hình sự
Phần mở đầu
Buôn lậu là tội phạm rất đáng quan ngại, một hiện tượng tiêu cực của xã hội.
Trong thời kỳ kinh tế đang mở cửa, buôn lậu ngày càng thể hiện sự đa dạng và
phức tạp trong các thủ đoạn của tội phạm. Nó không chỉ gây ra hậu quả nghiêm
trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng lớn đến sự quản lý kinh tế
của Nhà nước đồng thời là trở ngại lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước. Qua đó, nghiên cứu về tội buôn lậu luôn là vấn đề cấp bách trong
bất kì thời gian nào. Việc phân tích các dấu hiệu pháp lý cũng như tìm ra những dấu
hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt giữa tội buôn lậu với những tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế khác cho phép nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về các
dấu hiệu định tội của tội buôn lậu với các tội khác, đặc biệt là tội vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Qua đó, giúp cho quá trình thực thi pháp luật
được chính xác hơn, công bằng hơn cũng như đảm bảo ổn định trật tự quản lý kinh
tế. Vì vậy, “phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội buôn lậu và phân biệt tội buôn
lậu với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” là vấn đề cần
nghiên cứu và làm rõ.
A. Phần nội dung
I. Khái quát chung về tội buôn lậu:
1. Khái niệm, cơ sở pháp lý của tội buôn lậu
1.1. Khái niệm và cơ sở pháp lý
Tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017
là hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc
ngược lại trái quy định của pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng trở ên hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn lậu hoặc tại một trong các điều
189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 BLHS hoặc đã bị kết án về một trong
các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc buôn bán qua biên giới
hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của pháp luật
di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa.1. Trong đó:
Biên giới là đường phân định giới hạn lãnh thổ hay lãnh hải của một nước
với một nước tiếp giáp khác hoặc với hải phận quốc tế.
Khu phu thuế quan bao gồm các khu được quy định tại Khoản 2 Điều 1 Nghị
định số 87/2010 ngày 13/8/2010.
Buôn bán trái phép qua biên giới là hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới hoặc không vận chuyển nhưng thuê người khác vận chuyển qua biên
giới để trao đổi trái phép với các quy định của Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng
hóa qua biên giới, mua để bán lại kiếm lời. Hành vi buôn bán trong nhiều trường
hợp đồng nghĩa với hành vi mua bán, nhưng không hoàn toàn chỉ là hành vi mua
bán. Mua bán có thể mua để bán lại kiếm lời, nhưng có thể không nhằm mục đích
kiếm lời, còn buôn bán thì nhất định phải có mục đích kiếm lời.
2. Cấu thành tội phạm của tội buôn lậu:
Giống như các tội phạm khác, tội buôn lậu cũng bao gồm đầy đủ bốn yếu tố
cấu thành tội phạm là chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan.
2.1.
Chủ thể
1 Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam ( phần các tội phạm) – Đại học Kiểm sát Hà Nội, Trang 217
Chủ thể của tội buôn lậu là chủ thể thường, tức là người có năng lực trách
nhiệm hình sự ( nhận thức được hành vi buôn lậu là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp
luật cấm và hoàn toàn có khả năng điều khiển hành vi để không thực hiện hành vi
đó nhưng vẫn thực hiện) và đến độ tuổi nhất định theo quy định mà cụ thể trong tội
buôn lậu là 16 tuổi trở lên được quy định tại Điều 12 BLHS. Ngoài chủ thể là người
ra thì pháp nhân thương mại cũng có thể là chủ thể của tội này.
2.2.
Khách thể
Theo Luật hình sự Việt Nam, buôn lậu là hành vi buôn bán qua biên giới hoặc
từ khu vực phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của pháp luật…2
Từ đó có thể thấy, khách thể mà tội buôn lậu xâm hại là các quy định pháp luật của
Nhà nước về buôn bán hàng hóa qua biên giới mà cụ thể là xâm phạm trật tự quản
lý Nhà nước về ngoại thương ( xuất – nhập khẩu hàng hóa) và an ninh biên giới.
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội buôn lậu rất đa dạng. Cụ thể theo quy
định tại Khoản 1 Điều 188 BLHS bao gồm các loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại
tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật vó giá trị lịch sử, văn hóa và các loại
hàng cấm. Trong đó:
Hàng hóa: Là sản phẩn được sản xuất nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của
con người và dùng để trao đổi trên thị trường. Hiểu theo một cách thông thường
hàng hóa có thể là hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con
người như tivi, tủ lạnh, thức ăn,… hoặc những tư liệu phục vụ cho quá trình sản
xuất như các loại máy móc thiết bị. Tuy nhiên, không phải mọi hàng hóa đều là đối
tượng tác động của tội buôn lậu. Xuất phát từ tầm quan trọng, do tính chất và công
dụng đặc biệt của một số loại hàng hóa mà khi tác động đến đối tượng này, quan hệ
xã hội bị thiệt hại không phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội
thuộc mặt khách quan của tội buôn lậu mà thuộc các tội khác như các chất ma túy,
vũ khí quân và phương tiện kỹ thuật, vũ khí thô sơ và công cụ hỗ trợ, chất phóng
xạ,…
Tiền Việt Nam: Đồng tiền ở đây không thực hiện chức năng trao đổi hay thanh
toán mà là hàng hóa, là đối tượng của hành vi mua, bán. Tiền là đối tượng của “tội
buôn lậu” phải là tiền Việt Nam hiện hành (do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát
2 Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) – Đại học Kiểm sát Hà Nội, Trang 217
hành). Các đồng tiền Việt Nam đang lưu hành hiện nay là tiền giấy và tiền kim
loại.3
Ngoại tệ (foreign currency) là đồng tiền của nước này đối với nước khác,
hiểu đơn giản là tiền nước ngoài, không phải là đồng tiền do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phát hành. Ngoại tệ bao gồm tiền giấy, tiền kim loại, tiền tín dụng.
Kim khí quý: Là các loại kim khí thuộc loại quý hiếm dạng tự nhiên hoặc các
chế phẩm làm từ kim khí quý theo danh mục do Nhà nước Việt Nam ban hành như:
vàng, bạc, bạch kim… Theo quy định tại khoản b Điều 3 Điều lệ quản lý ngoại hối
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988 thì kim khí quý bao gồm:
Vàng, bạc và các kim loại thuộc nhóm bạch kim.4
Đá quý: Là các loại đá tự nhiên và các loại thành phẩm từ đá quý theo danh
mục do Nhà nước Việt Nam ban hành. Theo quy định tại Điều 1 Quy chế quản lý
các hoạt động điều tra địa chất, khai thác mỏ, chế tác và buôn bán đá quý ngày
7/10/1993 của Chính phủ thì “đá quý là các loại ngọc tự nhiên như: rubi, kim
cương, saphia, eromot và các loại đá quý tự nhiên khác có giá trị tương đương”5.
Di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa: BLHS 1999 quy định đối
tượng tác động của tội này là “vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa”. Tuy nhiên,
theo khoản 3 Điều 4 Luật di sản văn hóa thì chỉ có khái niệm về di tích lịch sử, văn
hóa mà không quy định thế nào là vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. Vì vậy,
BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đã thay đổi thành “Di vật, cổ vật hoặc vật có giá
trị lịch sử, văn hóa” là hợp lý. Theo đó: “Di vật là vật được lưu truyền lại có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu
biểu về lịch sử văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.6”. Vật có giá trị
lịch sử, văn hóa là vật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định đó là vật có
giá trị lịch sử văn hoá. Nói chung trong những trường hợp này, các cơ quan tiến
hành tố tụng cần trưng cầu giám định.
3 Ngân hàng nhà nước Việt Nam,“Các đồng tiền Việt Nam đang lưu hành”, .
4 “Điều lệ quản lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Ban hành kèm theo Nghị định số 161HĐBT ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng)
5 “Quy chế quản lý các hoạt động điều tra địa chất, khai thác mỏ, chế tác và buôn bán đá quý” (Ban hành kèm theo
Nghị định số 67-CP ngày 7-10-1993 của Chính phủ)
6 Khoản 5,6,7 Điều 4 “Luật di sản văn hóa” được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001
Hàng cấm: Là những loại hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán trên lãnh thổ
Việt Nam và cấm xuất – nhập khẩu. Các loại hàng cấm có thể có sự thay đổi ở mỗi
giai đoạn phụ thuộc vào sự phát triển, chuyển đổi của nền kinh tế. Hiện nay, danh
mục các loại hàng cấm được quy định tại Phụ lục 1 – Danh mục hàng hóa, dịch vụ
cấm kinh doanh ( Ban hành kèm theo Nghị định 59/2006 ngày 12/06/2006) bao
gồm 18 loại hàng hóa cấm kinh doanh ( Vũ khí quân dụng, trang thiết bị kỹ thuật,
khí tài...; các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới
giáo dục thẩm mỹ, nhân cách; các chất ma túy; các loại pháo;…) Tuy nhiên một số
hàng cấm đã là đối tượng của tội phạm khác thì sẽ không là đối tượng của tội buôn
lậu như ma túy.
2.3.
Mặt khách quan
Mặt khách tồn tại bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể nhận
biết được. Nhằm đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
buôn lậu quan của tội buôn lậu là tập hợp những biểu hiện, dấu hiệu diễn ra hoặc,
đồng thời cũng là căn cứ để xác định tội danh cũng như phân biệt với các tội phạm
khác. Tội buôn lậu có cấu thành vật chất vì trong mặt khách quan yêu cầu hậu quả.
Vì vậy, để phân tích đầy đủ mặt khách quan của tội phạm cần làm rõ hành vi khách
quan, hậu quả và các yếu tố khác ( Địa điểm, thời gian,…) Cụ thể:
Hành vi khách quan: Là xử sự của con người đã gây ra và đe dọa gây
ra cho xã hội, được biểu hiện qua hai hình thức là hành động và không hành động 7.
Riêng đối với tội buôn lậu, hành vi khách quan chỉ có thể biểu hiện dưới dạng hành
động mà theo quy định tại Điều 188 BLHS thì hành động đó là buôn bán trái phép
qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội đia hoặc ngược lại trái với quy
định của pháp luật. Hành vi này có thể được thực hiện bằng đường bộ, đường thủy,
đường hàng không hoặc đường bưu điện. Chỉ có một hành vi khách quan tuy nhiên
thủ đoạn của tội phạm buôn lậu rất đa dạng, phong phú. Các thủ đoạn thường được
thực hiện:
- Nếu căn cứ vào hợp đồng mua bán giữa các bên thì không có hành vi buôn
lậu, nhưng xem xét một cách khách quan toàn diện thì hành vi buôn bán đó là hành
vi buôn lậu
- Thông đồng với Hải quan cửa khẩu để nhập hàng không đúng với giấy phép
7 Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
- Lợi dụng sự quản lý yếu kém của Nhà nước và sự kém hiểu biết của cán bộ
các ngành đã móc ngoặc ngay trong việc xin cấp giấy phép nhập hàng hóa, khi Hải
quan phát hiện có hiện tượng không bình thường nhưng không có cách nào quy kết
được đó là buôn lậu hay không
- Nhập hàng hóa núp dưới hình thức tạm nhập, tái xuất. Nhưng khi hàng đã
nhập về rồi thì không xuất mà tiêu thụ ngay trong nước. Điển hình là vụ án Mai
Văn Huy ở tỉnh Đồng Tháp đã làm tờ trình với UBND tỉnh xin được tạm nhập, tái
xuất hàng trăm tấn xăng dầu để xuất sang Campuchia, nhưng sau khi đã nhập được
thì Mai Văn Huy đã tiêu thụ số xăng dầu này trong nước, gây thất thu thuế nhập
khẩu cho Nhà nước hàng tỷ đồng.
- Khi nhà nước có chủ trương không đánh thuế xuất nhập khẩu đối với một số
hàng hóa thì người phạm tội nghĩ ngay tới thủ đoạn trộn lẫn hàng hóa có thuế xuất
bằng không với hàng khác để trốn thuế xuất nhập khẩu.
- Không thực hiện nghĩa vụ khai báo với cơ quan có thẩm quyền về chủng
loại, số lượng hàng hóa, tiền tệ theo đúng quy định;
- Trốn tránh sự kiểm soát của hải quan hoặc các cơ quan quản lý cửa khẩu,
như đi qua đường tắt qua biên giới mà không qua trạm kiểm soát;
- Khai báo gian dối, không phù hợp với thực tế về số lượng, chủng loại hoàng
hóa nhằm đánh lừa các cơ quan có thẩm quyền; giả mạo giấy tờ; …
Ví dụ: Trong vụ án Nguyễn Ngọc Lâm, theo giấy phép nhập khẩu thì Lâm
được nhập xe ôtô dạng khung gầm có gắn động cơ đã qua sử dụng; hợp đồng mua
xe với Công ty nước ngoài cũng ghi bán và mua xe như trong giấy phép nhập khẩu,
nhưng thực tế Lâm mua xe nguyên chiếc, rồi tháo dời các linh kiện từ nước ngoài,
chỉ để khung gầm và động cơ rồi vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam mở tờ
khai hải quan đúng với giấy phép nhập khẩu và hợp đồng ngoại, còn các linh kiện
khác của xe, Anh Lâm nhập về bằng con đường khác. Sau khi khung xe, và các linh
kiện của xe được nhập về, Anh Lâm thuê các lắp ráp thành một chiếc xe hoàn chỉnh
đem bán cho người tiêu dùng.
Ví dụ khác về việc hối hộ và lợi dụng sự quản lý yếu kém của Nhà nước và
các cán bộ ngành: Trong vụ án Tân Trường Sanh, Trần Đàm và đồng bọn đã mua
chuộc, hối lộ cả Phòng chống buôn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh và một số
lãnh đạo Cục Hải quan các tỉnh Cần Thơ, Long An, Thừa Thiên Huế để nhập lậu
hàng trăm Công tơ nơ hàng điện tử, nhưng lại mở tờ khai hải quan là máy nông cụ.
Hậu quả của hành vi buôn lậu là những thiệt hại đến tính mạng, tài sản
và những thiệt hại khác do hành vi buôn lậu gây ra. Nếu hậu quả do hành vi buôn
lậu gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức cao hơn.
Thiệt hại trực tiếp do hành vi buôn lậu gây ra là Nhà nước không kiểm soát được
hàng hoá xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng
hoá. Những biểu hiện cụ thể hậu quả của tội phạm rất đa dạng. Nó có thể là số
lượng hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,... có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên…
Các dấu hiệu khách quan khác: Dấu hiệu khách quan khác thường chỉ
là dấu hiệu định khung trong một số tội phạm tuy nhiên đối với tội buôn lậu, một
dấu hiệu khách quan có tính chất bắt buộc dùng để định tội của cấu thành tội phạm
này là địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, nếu thiếu địa điểm trong mặt khách
quan thì dù một người có hành vi buôn bán trái phép hàng hóa, tiền Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn hóa thì
cũng không cấu thành tội buôn lậu. Vậy địa điểm thực hiện hành vi quy định trong
BLHS là biên giới và khu phi thuế quan. Theo đó:
Biên giới là đường ráp danh giữa hai quốc gia và là hàng rào biên giới thuế
quan, vùng kiểm soát của Bộ đội biên phòng, an ninh cửa khẩu, vùng kiểm tra của
Hải quan trên tất cả các tuyết đường.
Khu phi thuế quan bao gồm: “khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo
thuế, khu bảo thuế, kho ngại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương
mại – công nghiệp và các khu vực kinh tế khác được thành lập theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên
ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu”8
Ngoài dấu hiệu khách quan định tội là địa điểm thì còn có các dấu hiệu
khách quan định khung khác như thời gian, công cụ, phương tiện,…
2.4.
Mặt chủ quan
Người thực hiện hành vi buôn lậu là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là cấu trúc
tâm lý của người phạm tội cho thấy người thực hiện hành vi buôn lậu nhận thức rõ
hành vi của mình là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thấy trước được hậu
8 Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010
quả của của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới và mong muốn cho hậu quả
đó xảy ra. Không có hành vi buôn lậu nào được thực hiện do cố ý gián tiếp.
Mục đích của người phạm tội là thụ lợi. Biểu hiện của mục đích thu lợi là
người phạm tội tìm cách trốn thuế xuất nhập khẩu.
Việc nghiên cứu bốn yếu tố của cấu thành tội phạm của tội buôn lậu là cơ sở,
tiền đề để định tội chính xác cũng như phân biệt với các tội phạm cụ thể khác. Đặc
biệt là tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới vì chúng chỉ khác
nhau một số điểm nhỏ và cấu thành của hai tội này rất dễ nhầm lẫn với nhau.
II. Phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới
1. Tổng quan về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới:
Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới được quy định tại
Điều 189 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 “là hành vi vận chuyển qua biên giới
hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái với quy định của pháp
luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý …” 9 . Theo đó, tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới có cấu thành tội phạm như sau:
Khách thể: Tội phạm xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước vè ngoại
thương và an ninh biên giới
Mặt khách quan: Là hành vi vận chuyển qua biên giới hoặc từ khu phi thuế
quan vào nội địa hoặc ngược lại trái với quy định của pháp luật hàng hóa, tiền Việt
Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý…
Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý ( cố ý trực tiếp)
Chủ thể: Là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS hoặc pháp
nhân thương mại.
Từ cấu thành tội phạm trên có thể thấy, tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới có rất nhiều điểm giống với tội buôn lậu như: Chủ thể, khách
thể, mặt chủ quan. Vậy, cần làm rõ sự khác nhau giữa hai tội này để có thể định tội
phù hợp với pháp luật, công bằng, đúng người đúng tội.
9 Đại học Kiểm Sát Hà Nội – Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
2. Phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới
Về cơ sở pháp lý: Tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 BLHS 2015 sửa đổi
bổ sung 2017. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới được quy
định tại Điều 189 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Về hành vi khách quan: Tội buôn lậu theo có hành vi khách quan là buôn bán
trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái
với quy định của pháp luật. Hành vi khách quan của tội Vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới có hành vi khách quan là hành vi vận chuyển trái phép
hàng hòa, tiền tệ qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược
lại. Về mặt quy định, hành vi khách quan là khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy, hành
vi khách quan của tội buôn lậu có thể trùng với hành vi khách quan của tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Vì hành vi khách quan của tội
buôn lậu có thể bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Nếu người buôn lậu trực tiếp thực
hiện hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ,… thì về mặt khách quan không
có gì khác đối với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Tuy
nhiên, nếu người phạm tội buôn lậu sử dụng các thủ đoạn khác để phạm tội như:
Thuê người vận chuyển, nhờ người vận chuyển hộ,… thì mặt khách quan là khác
nhau. Cụ thể: Người được thuê vận chuyển sẽ là người phạm tội vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Còn người thuê sẽ là người phạm tội buôn lậu.
Tuy nhiên đối với trường hợp này cần lưu ý: Người được thuê vận chuyển hàng
hóa qua biên giới mà nhận thức rõ là được thuê vận chuyển trái phép cho người
khác buôn lậu thì không còn là phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới mà là đồng phạm của tội buôn lậu. Chính vì sự tương đối của tiêu chí này
nên cần thiết phải có thêm một tiêu chí khác đặc trưng hơn để có thể phân biệt rõ
ràng đó là mục đích.
Về mục đích trong mặt chủ quan:
Đây là tiêu chí quan trọng nhất, chủ yếu nhất để phân biệt rõ ràng tội buôn lậu
và tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Theo quy định của pháp
luật hình sự có thể thấy. Mục đích phạm tội của tội buôn lậu là sinh lợi, như khái
niệm tội buôn lậu đã nêu : Mua bán có thể mua để bán lại kiếm lời, có thể không
nhằm mục đích kiếm lời, còn buôn bán thì nhất định phải có mục đích kiếm lời.
Đối với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Người phạm tội
chỉ đơn thuần vận chuyển một cách trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới mà
không nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, nếu người phạm tội được thuê hoặc vận
chuyển một cách trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới mà biết rõ hành động vận
chuyển của mình là để giúp người khác thực hiện phạm tội buôn lậu thì người này
không còn được coi là phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới mà là tội buôn lậu với tư cách đồng phạm.
Tiêu chí khác: Ngoài các dấu hiệu trên thì có thể phân biệt hành vi vận chuyển
với hành vi buôn lậu là đối với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới hầu như người phạm tội không phải là chủ hàng, họ chỉ là người vận chuyển
cho chủ hàng, có lấy tiền công hoặc không lấy tiền công (thông thường là vận
chuyển thuê).
Tuy nhiên, trên thực tiễn, để phân biệt hai tội này chủ yếu dựa vào mục đích
thực hiện tội phạm trong mặt chủ quan nên khó có thể biết được hoặc chứng minh
được mặt chủ quan của người phạm tội có hướng đến lợi nhuận hay không. Nên
vẫn có nhiều trường hợp biết là tội phạm nào nhưng lại không đủ bằng chứng.
B.
Phần kết luận
Xác định đúng người đúng tội là một trong những nhu cầu hàng đầu của
những người áp dụng pháp luật. Là đại diện cho Nhà nước không thể dựa vào
những đặc điểm chung chung mà định tội vì có rất nhiều những tội gần giống nhau
cần phải nghiên cứu kỹ thì mới có thể định tội một cách chính xác. Việc xác định
các yếu tố cấu thành của tội buôn lậu cũng như phân biệt giữa tội buôn lậu và tội
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đã phần nào giúp trang bị
những kiến thức cốt lõi trong định tội. Góp phần hiểu và thực thi pháp luật công
bằng, văn minh hơn. Nhất là trong thời kì kinh tế mở cửa, các quan hệ xã hội về
kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp theo sự phát triển của xã hội
thì càng phải quan tâm đến những tội phạm thuộc nhóm “Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế”.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Ths Đinh Văn Quế, Tội buôn lậu - các dấu hiệu cơ bản
2.
3. Nguyễn Thị Vui - Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt Nam ( trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009 - 2013) - Luận
văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2014
4. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật hình sự phần các tội phạm
5. Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 Quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội
7. Ngân hàng nhà nước Việt Nam,“Các đồng tiền Việt Nam đang lưu hành”
8. “Điều lệ quản lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” (Ban hành kèm theo Nghị định số 161-HĐBT ngày 18/10/1988 của
Hội đồng Bộ trưởng)
9. “Quy chế quản lý các hoạt động điều tra địa chất, khai thác mỏ, chế tác và
buôn bán đá quý” (Ban hành kèm theo Nghị định số 67-CP ngày 7-10-1993
của Chính phủ),
10. Đại học Kiểm Sát Hà Nội – Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội