Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Hàm nghĩa văn hóa của chữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.42 KB, 7 trang )

Hàm nghĩa văn hóa của chữ "Quy"
Thứ năm, 03 Tháng 11 2011 08:24 Quản trị viên
GV. Huỳnh Chương Hưng

Chúng ta đều biết, rùa là con vật được người Trung Quốc thời cổ đại tôn sùng và ưa thích. Từ
thời Ân Thương đến đời Tống, rùa luôn có sắc thái tôn quý thần bí, đồng thời có mối quan hệ
mật thiết với cuộc sống của con người. Lục Du, thi nhân đời Nam Tống lúc về già đã tự đặt mình
tên hiệu là Quy Đường, ông lại còn dùng mai rùa để làm mũ đội. Nhưng đến thời Nguyên trở đi,
thân phận con rùa đã dần bị giảm giá trị trở thành con vật mà ai cũng không thích. Và chữ “Quy”
đã trở thành từ dùng để thoá mạ. Tư liệu sớm nhất mà chúng ta biết được về điều đó chính là nhờ
hai câu thơ trong bài “Phế gia tử tôn thi” trong tập “Xuyết Canh lục” quyển 28 của Đào Tông
Nghi, một học giả cuối đời Nguyên đầu đời Minh.
“Trạch quyến giai vị xanh mục thố
Xá nhân tổng tác súc đầu quy”
(Người trong nhà đều là thỏ trơ mắt
Bọn xá nhân hết thảy đều là rùa rút cổ)
Theo truyền thuyết dân gian, con thỏ nhìn mặt trăng mà có chửa, cho nên : “Xanh mục thố” dùng
để chỉ con gái không chồng mà chửa. Còn “Súc đầu quy” là để chỉ bọn đàn ông nhát gan, để vợ
mình thông dâm với kẻ khác, đồng nghĩa với từ “Vương bát” ngày nay. Vương Sĩ Chân đời
Thanh cho rằng việc kỵ huý chữ Quy là bắt đầu từ đời Minh. Cách nói này chưa chính xác.
Nguyên nhân vì sao chữ “Quy” lại trở thành từ dùng để thoá mạ? Nhìn chung có hai cách giải
thích :
Một : Theo Tạ Tại Hàng người thời Minh đã viết trong “Ngũ tạp trở” rằng : Vì rùa không có khả
năng giao phối, để mặc cho con cái giao phối cùng với rắn. Vì thế gọi chồng của người đàn bà là
Quy.
Hai : Theo “Trung Quốc dân tục đại quan” quyển hạ (NXB Quảng Đông _ Lữ Du. 1988) cho
rằng :
Đời Đường bọn đàn ông con trai ở Nhạc Hộ (loại kỹ viện của các quan) đều vấn khăn xanh trên
đầu, mà đầu rùa cũng có sắc xanh. Vì thế dùng “Quy” để chỉ bọn đàn ông ở kỹ viện và loại đàn
ông có vợ ngoài tình.
Với hai cách giải thích chúng ta thấy chưa thoả đáng. Vì rằng :


Với truyền thuyết về rùa chỉ có khả năng giao phối với rắn thì từ thời Hán đã lưu hành rộng rãi;
mà khả năng nguồn gốc của truyền thuyết đó có thể đã xuất hiện vào thời Tiên Tần.
Trong “Thuyết văn” Hứa Thận đã viết rằng :
“Thiên địa chi tính, quảng kiên vô hùng, quy miết chi loại dĩ xà vi hùng”
(Mang đặc tính của trời đất, mai rộng không có con đực. Các loài rùa, ba ba đều lấy rắn làm con
đực) cho nên thể chữ Triện của chữ “Quy” chúng ta thấy có chữ “xà” ở trong đó. Điều này đã
cho thấy từ thời Tiên Tần đã có quan niệm rùa lấy rắn làm con đực.
Với Nhị thập bát tú, bốn loài động vật được xem là đại biểu, tức tứ tượng gồm:
Đông phương là Thương Long


Nam phương là Chu Tước
Tây phương là Bạch Hổ
Bắc phương là Huyền Vũ
Huyền Vũ chính là hình tượng rắn rùa giao hợp. Ở bài “Viễn du” trong “Sở từ”, Hồng Hưng Tổ
đời Tống đã bổ chú rằng :
“Thuyết giả viết: Huyền Vũ vị quy xà. Vị tại Bắc phương; cố viết Huyền, thân hữu lân giáp, cố
viết Vũ. “Văn tuyển”chú vân : “Quy dữ xà giao viết Huyền Vũ””
(Có thuyết cho rằng : Huyền Vũ là rùa rắn. Ở tại phương Bắc, cho nên gọi là Huyền, thân có vảy
mai, cho nên gọi là Vũ. Ở sách “Văn tuyển”, chú rằng “rùa và rắn giao hợp gọi là Huyền Vũ”)
Quan niệm về Tứ tượng đã có từ giai đoạn đầu thời chiến Quốc. Điều này cũng nói lên rằng cách
nói rùa lấy rắn làm con đực đã có từ rất lâu. Thế nhưng từ thời Tiên Tần mãi cho đến đời Tống,
giá trị của con rùa vẫn cứ được xem trọng. Chỉ đến thời Nguyên, giá trị của nó mới bị giảm sút.
Còn như cho nguyên nhân là do bởi bọn đàn ông con trai ở Nhạc hộ thời Đường vấn khăn xanh
mà ra thì cũng chưa có bằng chứng xác đáng. Vả lại việc kỵ huý bắt đầu từ đời Nguyên, thế thì
trước đó, đời Đường, đời Tống tại sao lại không kỵ huý?
Giá trị về thân phận của rùa bị suy giảm và chữ “Quy” trở thành từ dùng để thoá mạ là do những
nguyên nhân sau :
Thứ nhất :
Rùa từ chỗ thần bí trở thành phàm tục, đó là kết quả của việc thần quyền và mê tín từ chỗ hưng

thịnh đi đến chỗ suy tàn. Điều này có tính tất yếu trong lịch sử .
Thời đại Ân Thương là thời đại mà quỷ thần phiếm loạn, mê tín thịnh hành. Bất kỳ sự việc lớn
nhỏ nào, người thời Ân cũng đều hỏi ý kiến các vị thần linh. Chính vì thế, rùa đã trở thànhmột
loại thần khí đắc dụng bởi vì họ đã phát hiện đặc tính sống lâu của loài rùa. Chữ “Quy” (con rùa)
và chữ “Cửu” (lâu dài) thời thượng cổ có âm đọc tương đồng và đều thuộc vận mẫu “Kiến”. Lưu
Hướng trong “Dịch _ Hệ từ nghĩa” đã viết rằng :
“Quy chi ngôn cửu. Quy thiên tuế nhi linh, dĩ kỳ trường cửu, cố năng biện cát hung dã”.
(Quy được gọi là Cửu. Quy sống ngàn năm nên linh thiêng. Vì sống trường cửu nên phân biệt
được cát hung)
Trong “Luận Hành - Bốc Phệ” cũng ghi rằng :
“Khổng Tử viết “PhùThi chi vi ngôn Kỳ dã, Quy chi vi ngôn Cựu dã” Minh cô nghi chi sự
đương vấn kỳ cựu dã”.
(Khổng Tử bảo rằng : “Bói bằng cỏ Thi gọi là Kỳ, bói bằng mai rùa gọi là Cựu”. Muốn rõ những
việc mình còn nghi ngờ nên hỏi ở Kỳ Cựu).
Vì sống được lâu nên biết nhiều hiểu rộng, có thể biết được cát hung hoạ phúc.
Ngoài ra, loài rùa còn có thể nhịn ăn trong suốt một thời gian dài, đây cũng chính là đặc điểm để
giá trị con rùa được nâng cao.
Đến thời Chu, đối với uy quyền của Thần Thánh, con người lúc bấy giờ lại sinh ra nghi ngờ và
họ đã chủ trương “Kính đức bảo dân”. Từ chỗ kính thiên đạo đi đến trọng nhân sự. Đây là một
bước tiến lớn về mặt tư tưởng tôn giáo của người thời Chu. Vào thời Chu, việc dùng cỏ Thi để
bói thay cho cách bói bằng mai rùa vì giản tiện và dễ thực hiện cũng đã phản ánh được lòng tin
đối với rùa đã có sự sút giảm.
Sau thời Xuân Thu chiến quốc, lòng tin của con người đối với năng lực của bản thân lại càng gia
tăng. Sự mê tín vào quỷ thần ngày càng sút giảm. Tư tưởng Dân là gốc ngày càng lớn mạnh.
Khổng Tử đã từng nói :
“Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỹ”
(Luận ngữ - Ung Dã)


(Cốt ở chỗ làm việc nghĩa cho dân, kính trọng quỷ thần nhưng tránh xa ra, có thể gọi là trí rồi

đó…)
Tuỳ Đại phu là Quý Lương cũng đã nói rằng :
“Phù dân, thần chi chủ dã. Thị dĩ Thánh Vương tiên thành dân nhi hậu trí lực vu thần” (Tả
Truyện - Hoàn công lục niên)
(Dân là chủ của Thần. Vì thế bậc Thánh Vương trước tiên phải làm cho dân, sau đó mới hết sức
vì thần).
Đến Tuân Tử càng chỉ rõ rằng :
“Nhật nguyệt thực nhi cứu chi, thiên hạn nhi Vu, bốc phệ nhiên hậu quyết sự. Phi dĩ vi đắc cầu
dã dĩ văn chi dã. Cố quân tử dĩ vi văn, bách tính dĩ vi thần. Dĩ vi văn tắc cát, dĩ vi thần tắc hung »
(Tuân Tử - Thiên Luận)
(Nhật thực nguyệt thực thì cầu khấn, trời hạn thì làm lễ cầu mưa, bói rồi sau đó mới quyết định
sự việc. (Những việc đó) không phải cốt để có được điều cầu mong mà là để trang sức cho lễ.
Cho nên bậc quân tử coi đó là việc trang sức cho lễ, mà bách tính coi đó là việc quỷ thần. Coi là
trang sức thì tốt, mà coi là quỷ thần thì hung).
Từ khi Tuân Tử đề xuất khẩu hiệu “Chế thiên mạng nhi dụng chi” (Thiên luận), đến Vương Sung
đời hán viết “Đính quỷ” rồi đến Phạm Chân thời Nam triều đề xuất lý luận “Thần diệt”, tư tưởng
vô thần ngày càng phát triển địa bàn và ảnh hưởng của quỷ thần dần bị thu hẹp. Trong tình hình
đó, sự linh thiêng của rùa cũng dần đi xuống.
Thứ hai :
Quan niệm về trinh tiết cũng đã trải qua một quá trình lịch sử, từ không đến có, từ phóng túng
đến nghiêm nhặt.
Trước khi chế độ một vợ một chồng được xác lập, không tồn tại quan niệm trinh tiết.Chỉ sau khi
chế độ một vợ 1 chồng được xác lập, quan niệm về trinh tiết mới được hình thành, xuất phát từ
yêu cầu kế thừa tài sản tư hữu, duy trì lợi ích của gia tộc, người nối dõi phải là huyết thống của
chính mình.
Có thể nói quan niệm trinh tiết chính là những chuẩn mực hành vi được xuất hiện nhằm bảo vệ
huyết thống thuần nhất.
Những quan niệm trinh tiết hoàn toàn không phải từ khi xuất hiện cho đến nay đều mang tính
nghiêm túc. Ở Trung Quốc từ đời Hán đến đời Đường, quan niệm về trinh tiết đối với mọi người
vẫn chưa có sự ràng buộc chặt chẽ. Trong các sử sách đều có ghi chép những việc dâm bôn của

những người xuất thân từ tầng lớp quý tộc như :
- Quán Đào công chúa
- cô của Hán Vũ Đế
- Ngạc Ap cái chủ
- chị của Hán Vũ Đế
- Sơn Âm công chúa
- chị của Tiền Phế đế thời Nam Triều.
- Vương Thái hậu
- mẹ của Úc Lâm Vương nhà Tề
- Võ Tắc Thiên
- đời Đường
Trần Đông Nguyên trong “Trung Quốc phụ nữ sinh hoạt sử” đã nhận xét rằng :
“Thực tế đích trinh tiết quan niệm, Đường thời thượng bất thậm chú trọng”
(Quan niệm trinh tiết thực tế vào thời Đường hãy còn chưa chú trọng lắm)
Nhìn chung, từ đời Đường trở về trước, về mặt lý luận, tuy quan niệm trinh tiết đã được xác lập
từ rất sớm nhưng trên thực tế cuộc sống hoàn toàn không có những quy phạm đạo đức rằng buộc,
bắt con người phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt. Phải đợi đến đời Tống, khi các nha Lý học
như Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy đề xướng : “Chết đói là việc nhỏ, thất tiết mới là
việc lớn”, quan niệm về trinh tiết mới có những chuẩn tắc ràng buộc chặt chẽ. Từ đời Tống trở về
sau, cải giá là một sự sỉ nhục, xét sâu xa hơn có liên quan đến việc dâm ô. Trong bối cảnh văn


hoá như thế, nếu người đàn bà nào tư thông với kẻ khác thì đó là sự sỉ nhục đối với người chồng.
Xã hội cần có một từ để chỉ loại đàn ông như thế và chữ “Quy” đã được chọn để đóng một vai
trò không vẻ vang gì.
Thứ ba :
Với bản thân loài rùa, sự tôn quý hoặc sút giảm về giá trị của chúng có liên quan mật thiết đến
trình độ nhận thức của con người.
Thông thường, hễ vật gì lạ thì thiêng, vật gì hiếm thì quý. Thời cổ đại dân tộc Hoa Hạ ở phía Bắc
Trung Quốc, nơi đó rất ít rùa. Những con rùa to lớn mà giai cấp thống trị có được phần lớn là do

phương Nam tiến cống. Trong các sách vở xưa đều có ghi chép về việc này, chẳng hạn như :
“Quy bất kỳ Nam để (trí)”
(Ân khư bốc từ, Tiền 4.54.4)
(Rùa không phải từ phương Nam đưa đến sao?)
“Hữu lai tự Nam để quy
(Ân khư bốc từ, At 6670)
(Có người từ phương Nam tới dâng rùa)
“Cửu giang nạp tích (hiến) đại quy”
(Thượng Thư - Vũ Cống)
(Vùng Cửu giang dâng lên rùa lớn)
“Cảnh bỉ Hoài di
Lai hiến kỳ sâm
Nguyên quy tượng xỉ
Đại lộ Nam kim”
(Thi – Lỗ tụng – Phán thuỷ)

(Rợ
Hoài
di
kia
đã
giác
ngộ
Đến
cống
hiễn
những
vật
quý
báu

Như
rùa
to

ngà
voi
Đem
vàng

phương
Nam
tặng
biếu
rộng
rãi
nữa)
(
Kinh
thi
(Tạ
Quang
Phát
dịch),
tập
3,
tr
1783)
Thời kỳ Ân Thương, đối với dân tộc Hoa Hạ, rùa là một loài động vật quý hiếm. Họ hiểu biết về
nó rất ít khi nghe được hoặc ngẫu nhiên nhìn thấy rùa rắn đấu với nhau, họ tưởng chúng đang
giao phối nên mới có hình tượng thần Huyền Vũ. Đến khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, hai

miền Nam Bắc giao tiếp với nhau ngày càng nhiều, văn hoá Nam Bắc cũng được giao lưu nhiều,
họ dần nhận thức được rùa cũng có con đực. Do bởi rùa thường chỉ giao phối vào ban đêm lúc
cuối xuân (1). Khó mà bắt gặp, cho nên mọi người vẫn cứ tin vào thuyết xưa rùa lấy rắn làm con
đực.
Mọi người quan sát thấy đầu rùa cũng có động tác co duỗi rất giống với dương vật, vì thế họ đã
liên tưởng rùa với dương vật và mối liên hệ này không thể tách rời. Người xưa còn phát hiện
trong miệng rùa không có răng, rất phù hợp để nói “Vô sỉ”. “Vô sỉ” không biết sỉ nhục, âm đọc
rất
gần
với
“Vô
xỉ”
không
răng.
Ai cũng đều biết rằng, trong việc tu thân tề gia luôn nhớ đến 8 chữ :
Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ. Vì Sỉ là chữ đứng hàng thức 8, cho nên đã có hiện
tượng mượn từ “Vong bát” (quên chữ thứ 8) để thay cho từ “Vô sỉ”. “Vong bát” chính là “Vô sỉ”
và rùa lại có thêm biệt danh là “Vong bát”. Đàn ông có vợ không trinh tiết cũng bị gọi là “Vong


bát”.
Để thấy được tác dụng thúc đẩy quá trình rùa bị giáng xuống phàm tục khi con người đã biết rõ
về tập tính của nó, chúng ta có thể so sánh giữa rùa với ba con vật còn lại trong Tứ linh.
Tứ linh tức : Lân, Phụng, Quy, Long. Bốn con vật này nguyên trước đây là những động vật có
thể
thấy
được
trong
cuộc
sống.

Với
Lân,
trong
“Thuyết
văn”
ghi
rằng
:
“Lân,
đại
mẫu
lộc
dã”
(Lân

con
nai
đực
lớn)
Trong
“Xuân
thu”
Ai
Công
năm
thứ
4
cũng
ghi
rằng

:
“Xuân,
tây
thú
hoạch
Lân”
(Mùa
Xuân,
đi
săn

hướng
Tây
được
con
Lân)
- Còn Phụng, là một loại chim lớn
Trong Bốc từ có ghi “Hoạch phụng” (Bắt được chim Phụng) (Giáp : 3112)
Trong “Trung đỉnh” thời Sơ Chu cũng có khắc bài minh “Quy sinh phụng vu vương”
- Chữ Long, trong Giáp cốt văn cũng đã xuất hiện. Từ góc độ hình dáng của chữ mà xem xét :
“Đó là một loại động vật bò sát, hình dạng giống rắn, thân tương đối dài”
(Theo
Triệu
Thành
:
“Giáp
cốt
văn
giản
minh

từ
điển”)
Trong
Bốc
từ
cũng

ghi
“Hoạch
long”
(Hậu
:
41.2)

“Tả
truyện”
chiêu
công
năm
thứ
29
ghi
rằng
:
“Thu,
Long
hiện
vu
Giáng
giao”

(Mùa
thu,
rồng
hiện
ra

đất
Giáng)
Sử
quan

Sái
Mặc
đã
giải
thích
rằng
:
“Cổ giả súc long. Cố quốc hữu Hoạn long thị, hữu Ngự long thị”
(Ngày xưa nuôi rồng. Cho nên trong nước có họ Hoạn Long, họ Ngự Long)
Về sau Lân, Phụng, Long đã dần thoát khỏi thế giới phàm tục, tiến vào thế giới thần bí, về hình
dáng cũng đã tổng hợp những đặc điểm của nhiều loài khác. Chính vì thần bí nên luôn mang màu
sắc linh thiêng, chỉ có Quy do bởi được dùng trong việc bói toán nên không thể thoát ly thế giới
phàm tục. Và sự hiểu biết của con người về rùa ngày càng tăng, cho nên tính chất linh thiêng của
rùa
đã
bị
giảm
sút.
Nhưng nguyên nhân được xem là trực tiếp về việc rùa bị kiêng kỵ đó là bởi tồn tại tập tục đội

khăn
chịu
nhục.
Ở Trung Quốc từ thời cổ đại đã có tập tục này. Ban Cố trong “Bạch Hổ thông -Ngũ hình” đã ghi
rằng vào thời thượng cổ “Phạm mặc giả mông cân” (Kẻ phạm tội Mặc phải đội khăn).
Mặc tức Mặc hình - thích dấu hiệu lên mặt - là một trong năm loại hình phạt của ngày xưa. Thời
đó những ai phạm tội Mặc sẽ đội khăn vấn đầu màu đen. Đầu có vấn khăn đen là một sự sỉ nhục.
Thời Tiên Tần đám hạ dân bị gọi là “Kiềm thủ” (Đầu đen), có liên quan đến tập tục này.
Từ đời Hán trở về sau, đầu vấn khăn xanh là biểu thị kẻ tiện nhân.
Đời Nguyên quy định rõ, bọn đàn ông con trai ở kỹ viện phải vấn khăn xanh để phân biệt. Khăn
xanh vấn đầu đó được gọi là “Thanh đầu cân” hoặc “Lục đầu cân”.
Đời Minh theo chế độ quy định của đời Nguyên, vẫn bắt bọn đàn ông con trai ở kỹ viện vấn khăn
xanh. Ngày nay gọi bọn đàn ông mà vợ không trinh tiết là “Kẻ đội mũ xanh” chính là bắt nguồn
từ
chế
độ
của
hai
triều
Nguyên
_
Minh.
Trên mai rùa rất dễ bị rêu xanh bám, loại rùa này được gọi là “lục mao quy” hoặc “Thanh mao
quy”.


Trong
“Tống
sử
Nhạc

chí
nhất”
“Hoà
Châu
tiến
lục
mao
quy”
(Vùng
Hoà
Châu
tiến
cống
lục
mao
quy)
Trong
“Nam
Tề
thư
_
Tường
thuỵ
chí”
“Vĩnh Minh ngũ niên, Võ Kỵ Thường Thị Đường Tiềm thướng Thanh mao quy nhất đầu. Thất
niên lục nguyệt, Bành Thành quận điền trung hoạch Thanh mao quy nhất đầu”
(Niêm hiệu Vĩnh Minh năm thứ 5, quan Võ Kỵ Thường Thị là Đường Tiềm dâng lên một con
Thanh mao quy. Tháng 6 năm thứ bảy, tại quận Banh Thành, bắt được một con Thanh mao quy
trong
ruộng).

Trong bài thơ thứ 8, ở tập “Đông Pha” của Tô Thức
có câu :
“Cát
mao
quy
bối
thượng

thời
đắc
thành
chiên”
(Cắt
lông
trên
mai
rùa
Đến
bao
giờ
mới
may
thành
tấm
chăn)
Thi Nguyên Chi đã chú dẫn lời của Phó Đại Sĩ trong “Kim Cang kinh tụng” :
“Như
quy
mao
bất

thực
Tự
thố
giác

hình”
(Giống
như
lông
rùa

không

thật
Như
sừng
thỏ
cũng
chỉ


hình)
Lông rùa đã đi vào ngạn ngữ được các văn nhân thường sử dụng, điều này đã nói lên được việc
rêu xanh bám trên mai rùa là hiện tượng quen thuộc. Nó giống như khăn xanh, rất dễ dàng liên
tưởng đến khăn xanh vấn đầu của bọn đàn ông con trai ở kỷ viện.
Rùa và đàn ông vốn đã có mối liên hệ gắn bó từ rất lâu, giờ lại thêm một tầng liên hệ nữa. Xem
ra dùng rùa để chỉ bọn đàn ông mà vợ mình lại thông dâm với kẻ khác là hợp tình hợp lý.
Như vậy, nguyên nhân chữ “Quy” trở thành từ dùng để thoá mạ bao gồm :
- Hoàn cảnh lớn : đó là sự suy thoái của thần quyền và mệ tín, cũng với diễn tiến của quan niệm
về

trinh
tiết

nhận
thức
của
con
người
đối
với
loài
rùa.
- Bối cảnh nhỏ : đó là đặc điểm sinh lý của loài rùa cùng những quy định về cách phục sức quan
phương.
Nếu không có hoàn cảnh lớn, sự tôn quý của loài rùa sẽ không có lý do để suy giảm. Và nếu
không có bối cảnh nhỏ thì rùa tuy tầm thường nhưng khó trở nên thấp kém. Cho nên chỉ có liên
hệ hoàn cảnh lớn và bối cảnh nhỏ lại với nhau mới có thể khiến cho chúng ta có những nhận thức
tương đối toàn diện và cách giải thích tương đối đầy đủ về hiện tượng loài rùa từ thân phận cao
quý
bị
giáng
xuống
thấp
hèn.
Riêng với hình tượng rùa đội bia trong văn hoá, kiến trúc Trung Hoa và Việt Nam, người ta đã
mượn ý nghĩa tích cực của nó. Nội dung được khắc trên bia đá đều là những việc đáng được mọi
người kính trọng và cần được lưu truyền mãi. Bia cũng cần phải đứng trên một tấm bệ vững chắc
và mang tính thẩm mỹ cao. Với tính chất linh thiêng có từ ngàn xưa, đặc điểm trường thọ và đặc
điểm về hình dáng, rùa đã đáp ứng được những yêu cầu về mặt kiến trúc và giá trị văn hoá của
một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc bia đá. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà người xưa đã chọn

rùa
làm
công
việc
này.
Tóm lại, có thể thấy rằng, chữ “Quy” và hình tượng rùa đã tồn tại song song hai ý nghĩa văn hoá
tích cực lẫn tiêu cực, trái ngược hẳn với Long, Lân hay Phụng. Do đó, đặt hình tượng rùa vào
trong hoàn cảnh nào để có thể có được một trong hai ý nghĩa đã phân tích trên hoàn toàn phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người chúng ta. Tuy vậy, cùng với những hình tượng khác,


hình tượng rùa vẫn in đậm dấu ấn khá đặc biệt trong văn hoá, văn học Việt Nam và Trung Hoa.
Quy Nhơn, tháng 12 /2006.



×