MỤC LỤC
I.
1.
2.
3.
II.
1.
2.
3.
4.
III.
1.
a)
b)
2.
a)
b)
3.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ BÀI
NỘI DUNG
Khái quát chung
Khái niệm TCTD và hoạt động huy động vốn của TCTD:
Khái niệm giấy tờ có giá:
Khái niệm phát hành giấy tờ có giá
Quy định của pháp luật về hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD
Về chủ thể quan hệ phát hành giấy tờ có giá:
Điều kiện để TCTD phát hành giấy tờ có giá:
Trình tự, thủ tục phát hành giấy tờ có giá:
Phương thức phát hành giấy tờ có giá:
Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về phát hành giấy tờ có giá của
1
2
3
4
4
4
4
6
8
8
9
9
10
TCTD hiện hành trong 9 tháng đầu năm 2013:
Thành tựu đạt được
Về các quy định của pháp luật:
Về thực tiễn áp dụng:
Hạn chế
Về các quy định của pháp luật
Về thực tiễn áp dụng:
Một số giải pháp
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11
12
12
13
15
15
16
17
19
20
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN
TCTD
TMCP
Ngân hàng nhà nước
Tổ chức tín dụng
Thương mại cổ phần
1
MỞ BÀI
Với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế đã
không còn là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam đang thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện địa hoá đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới nên nhu cầu về vốn lại càng trở nên cấp thiết. Với tư cách là các
“trung gian tài chính”, các Tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam có vai trò hết sức
quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân cư để cung ứng cho nền
kinh tế với nhứng điều kiện nhất định. Vốn để các TCTD tiến hành và phát triển các
2
hoạt động kinh doanh của mình không chỉ riêng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là
nguồn vốn huy động được. Do đó có thể nói hoạt động huy động vốn có tác động rất
lớn đến các tổ chức tín dụng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của
hoạt động huy động vốn, Nhà nước cần phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn
và thông thoáng, tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ
dàng và hiệu quả. Có rất nhiều hình thức huy động vốn khác nhau như: huy động vốn
bằng tiền gửi, huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá, huy động vốn
bằng việc vay vốn của các tổ chức tín dụng khác, huy động vốn thông qua vay vốn
ngân hang Nhà nước. Trong đó huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá
được coi là một giải pháp tối ưu. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này em quyết định
chọn đề tài : “Tìm hiểu pháp luật huy động vốn thông qua hoạt động phát hành
giấy tờ có giá của TCTD 9 tháng đầu năm 2013 và những đánh giá, nhận xét của
tác giả về vấn đề nêu trên.”
NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm TCTD và hoạt động huy động vốn của TCTD:
TCTD là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân
hàng. TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và
quỹ tín dụng nhân dân1.
Hoạt động huy động vốn của TCTD được hiểu là việc TCTD sử dụng các
nghiệp vụ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, thanh toán và các nghiệp vụ ngân
1
Khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010.
3
hàng khác của mình để huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh
tế.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, TCTD được phép huy động vốn dưới
các hình thức sau:
- Huy động vốn bằng nhận tiền gửi;
- Huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn của cá
nhân trong nước và nước ngoài khi được NHNN chấp thuận;
- Huy động vốn bằng vay vốn của TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và tổ
chức nước ngoài;
- Huy động vốn bằng vay vốn ngắn hạn của NHNN theo quy định của NHNN.
2. Khái niệm giấy tờ có giá:
-
Khái niệm: Theo khoản 1_Điều 4 quy chế phát hành giấy tờ có giá trong
nước của TCTD (quyết định số 07/2008/QĐ_NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của
Thống đốc Ngân Hàng Nhà nước) thì: “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín
dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
tổ chức tín dụng và người mua”.
- Các loại giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành:
+ Trái phiếu: giấy tờ có giá quy định nghĩa vụ của ngân hàng phải trả cho
người nắm giữ (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những
khoảng thời gian cụ thể và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi đáo hạn.
+ Tín phiếu: (Treasury bill) là giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng (ngoài ra có
Ngân hàng nhà nước, Kho bạc nhà nước, Doanh nghiệp) phát hành nhằm mục đích
huy động vốn ngắn hạn.
+ Kỳ phiếu: (promissory note) giấy tờ có giá ngắn hạn thể hiện cam kết trả tiền
vô điều kiện cho người lập phiếu phát ra trong đó xác nhận trả một số tiền nhất định
cho người thụ hưởng quy định trên kỳ phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho
người khác.
4
+ Chứng chỉ gửi tiền: (Certificate of Deposit) giấy tờ có giá do Ngân hàng phát
hành chứng nhận người sở hữu văn bản đã gửi tiền vào ngân hàng để huy động vốn từ
các tổ chức và cá nhân khác.
+ Các loại giấy tờ có giá khác –
Thuộc tính của giấy tờ có giá:
+ Tên tổ chức tín dụng phát hành
+ Tên gọi Giấy tờ có giá
+ Mệnh giá
+ Thời hạn giấy tờ có
+ Ngày phát hành
+ Ngày đến hạn thanh toán
+ Lãi suất được hưởng, phương thức trả lãi, thời điểm, địa điểm trả lãi
+ Nội dung khác
- Giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành gồm giấy tờ có giá ngắn hạn
(thời hạn dưới 12 tháng như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác) và giấy tờ có giá dài hạn (thời hạn từ 12 tháng trở lên
như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác)
. - Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành có thể thể hiện dưới hình
thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có ghi danh hoặc không ghi danh.
Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng đối với người mua là cá nhân. Hình thức
chứng chỉ vô danh áp dụng đối với người mua là cá nhân và tổ chức. Hình thức ghi sổ
áp dụng đối với người mua là tổ chức có tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng phát
hành. Trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, tổ chức tín dụng
phát hành phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy từ giá cho người mua.
Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành được chuyển nhượng quyền
sở hữu dưới các hình thức mua, bán, tặng, cho, trao đổi, thừa kế hoặc người sở hữu
giấy tờ có giá có thẻ dung làm vật cầm cố…
-
Mệnh giá của giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành được quy
định như sau:
5
Mệnh giá của giấy tờ có giá ngắn hạn được in sẵn theo thỏa thuận của TCTD
phát hành với người mua.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do tổ chức tín dụng phát hành theo hình
thức chỉ bằng đồng Việt Nam thì mệnh giá tối thiểu là một triệu đồng và tối đa là một
tỷ đồng. Nếu phát hành bằng ngoại tệ thì mệnh gái tối thiểu là 100 USD hoặc ngoại tệ
khác tương đương và tối đa là 100.000 USD hoặc ngoại tệ khác tương đương. Các
mệnh giá lớn hơn mệnh giá tối thiểu phải là bội số của mệnh giá tối thiểu. Nếu chứng
chỉ là trái phiếu thì mệnh giá được in sẵn trên từng tờ trái phiếu. Nếu chứng chỉ là
chứng chỉ tiền gửi dài hạn thì mệnh giá được in sẵn hoặc theo thỏa thuận của TCTD
phát hành với phát hành với người mua. Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do
TCTD phát hành theo hình thức ghi sổ thì do TCTD phát hành thỏa thuận với người
mua.
Tổ chức tín dụng huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải có trách
nhiệm công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh
toán tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và phải thực
hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng nhà nước theo quy định.
3. Khái niệm phát hành giấy tờ có giá
Phát hành giấy tờ có giá là việc TCTD vay vốn của tổ chức, cá nhân thông qua
việc phát hành các loại giấy tờ có giá theo quy định của pháp luật.
Về bản chất pháp lý, việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD ra công chứng
thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi “bán”
giấy tờ cho khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì trong quan hệ giao
dịch này TCTD không hề có quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá mà nó dự định
phát hành, nên không thể đóng vai trò là người bán. Mặt khác, trước khi các giấy tờ
có giá được tổ chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư
xác nhận quyền chủ nợ và TCTD cũng chưa nhận được nguồn vốn tiền lệ do khách
hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực tế, nghĩa là
không thể hoán đổi chung thành tiền hay các tài sản khác có giá trị tương đương với
số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Điều đó cho thấy, chỉ khi nào khách hàng
6
chấp nhận trao đổi chứng thư thì khi đó, chứng thư này mới thực sự là có giá trị vfa
mới phản ánh đúng tên gọi của nó là “giấy tờ có giá” hay “tư bản giá”.
Về đối tượng giao dịch, mặc dù tên gọi cảu giao dịch là “ phát hành giấy tờ có
giá’’ nhưng các đối tượng của giao dịch này không phải là giấy tờ có giá do tổ chức
tín dụng phát hành, mà chính là các khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển
quyền sở hữu cho tổ chức tín dụng với điều kiện tổ chức tín dụng phải hoàn trả cho
khách hàng sau một thời hạn nhất định, kèm theo các khoản lãi do các bê thỏa thuận.
Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của giao dịch nhưng các chứng từ này được
coi là hình thức pháp lí của giao dịch, đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và
nghĩa vụ pháp lí của các bên trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện
kinh tế, các chứng thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không
phải tienf do ngân hàng Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi TCTD.
Trên thực tế các chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành ra công chứng có
thể là chứng khoán nợ ngắn hạn_có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, ví dụ chứng chỉ
tiền gửi ngắn hạn, kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của TCTD… Sự phân biệt giữa
hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu thông
chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi TCTD (phát hành và
bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào).
Về tư cách pháp lý, khi phát hành các giấy tờ có giá để vay nợ của khách hàng,
các TCTD có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn khách hàng mua giấy tờ có
giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của TCTD. Mặc dù có tư cách là người
cho vay nhưng do giao dịch này được các TCTD và khách hàng xác lập, thực hiện
thông qua một hợp đồng cho vay có thời hạn xác định nên về nguyên tắc khách hàng
cho vay không thể rút vốn về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ
hạn tại các TCTD.
Về mục đích tham gia giao dịch, các TCTD khi phát hành giấy tờ có giá bán
cho khách hàng là được quyền sử dụng số tiền nhận được từ phát hành giấy tờ có giá,
và phải hoàn trả số tiền mà mình đã nhận của khách hàng từ việc bán giấy tờ có giá
đến hạn và trả lãi. Còn mục đích của khách hàng mua giấy tờ có giá là để kiếm lời.
7
Cũng như các tài sản khác, giấy tờ có giá được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới
các hình thức: mua, bán, tặng, cho, thừa kế, trao đổi theo quy định của pháp luật;
được đem cầm cố vay vốn tại các TCTD để đảm bảo vay tiền; chiết khấu, tái chiết
khấu theo quy định của pháp luật về chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá. Khác
với tiền gửi, việc mua giấy tờ có giá linh hoạt hơn, khách hàng có thể chuyển nó
thành tiền mặt bằng việc chuyển quyền sở hữu cho người khác, còn tiền gửi vào
TCTD đặc biệt chỉ có thể rút ra khi khách hàng giao dịch với TCTD. Tuy nhiên, giấy
tờ có giá hạn chế hơn so với tiền gửi là không thể dùng chúng để sử dụng các dịch vụ
thanh toán qua TCTD. Đối với TCTD, việc phát hành giấy tờ có giá có ưu điểm là
TCTD có thể chủ động trong việc huy động lượng vốn cần thiết.
II. Quy định của pháp luật về hoạt động phát hành giấy tờ có giá
của TCTD
1. Chủ thể quan hệ phát hành giấy tờ có giá
Một bên giao dịch là TCTD được thành lập hợp pháp tại Việt Nam đang có nhu
cầu về vốn tiền mặt để thực hiện hoạt động kinh doanh; còn một bên là tổ chức, cá
nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài sinh
sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu mua giấy tờ có giá.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể được phép phát hành giấy tờ có
giá bao gồm:
- Ngân hàng thương mại được phép phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín
phiếu, trái phiếu để huy động vốn của cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài.
- Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính được phép phát hành chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức.
2. Điều kiện để TCTD phát hành giấy tờ có giá
Không phải bất kỳ TCTD nào đều có thể huy động vốn bằng phương thức phát
hành giấy tờ có giá mà chỉ những TCTD đáp ứng được các điều kiện của pháp luật
quy định thì mới được tiến hành hoạt động này, đó là: TCTD đó được thành lập và
8
hoạt dộng hợp pháp ở Việt Nam; tuân thủ theo quy định về hạn chế để đảm bảo an
toàn hoạt động theo quy định của Luật các TCTD và hướng dẫn của NHNN; có tình
hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của Thanh tra NHNN. Cụ thể:
- Đối với giấy tờ có giá ngắn hạn:
TCTD được phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn khi tuân thủ đầy đủ các hạn chế
để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các TCTD và hướng dẫn
của NHNN.
- Đối với giấy tờ có giá dài hạn:
TCTD được phát hành giấy tờ có giá dài hạn phải tuân thủ các hạn chế để đảm
bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các TCTD và hướng dẫn của
NHNN; có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm kể từ ngày TCTD chính thức đi vào
hoạt động; tổng lợi nhuận trước thuế so vốn chủ sở hữu của năm liền kề trược năm
phát hành phải đạt từ 10% trở lên tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi; được sự
chấp thuận của Thống đốc NHNN về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm
tài chính của TCTD.
3. Trình tự, thủ tục phát hành giấy tờ có giá
- Đối với phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn:
TCTD sẽ chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong 1
năm. Trước thời điểm phát hành từng đợt, ít nhất là 3 ngày làm việc TCTD phải gửi
thông báo phát hành của từng đợt phát hành dự kiến về NHNN (Vụ Chính sách tiền
tệ). Thông báo phát hành bao gồm các nội dung sau: tên TCTD phát hành; tên gọi
giấy tờ có giá; tổng mệnh giá của đợt phát hành; phương thức phát hành; hình thức
phát hành; địa điểm phát hành; thời hạn giấy tờ có giá; thời hạn phát hành; lãi suất,
phương thức trả lãi, thời điểm, địa điểm trả lãi; địa điểm thanh thoán tiền gối giấy tờ
có giá; các nội dung thông báo cho khách hàng của TCTD phát hành.
- Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn:
TCTD chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có giá dài hạn trong phạm vi
kế hoạch phát hành của năm tài chính đã được xét duyệt. Trường hợp TCTD đã được
chấp thuận kế hoạch phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính nhưng không
9
tổ chức phát hành phải báo cáo NHNN (Vụ Chính sách tiền tệ). Trước thời điểm phát
hành ít nhất 3 ngày làm việc, TCTD phải gửi thông báo phát hành giấy tờ có giá dài
hạn với nội dung giống như nội dung giấy thông báo phát hành giấy tờ có giá ngắn
hạn. Tuy nhiên, TCTD chỉ được phát hành vượt quá kế hoạch đã được xét duyệt khi
được Thống đốc NHNN chấp thuận bằng văn bản. Hồ sơ đề nghị xem xét bổ sung kế
hoạch phát hành giấy tờ có giá dài hạn bổ sung, kế hoạch phát hành giấy tờ có giá dài
hạn điều chỉnh, kế hoach kinh doanh của năm tài chính điều chỉnh phải gửi về
NHNN. Vụ Chính sách tiền tệ NHNN tiếp nhận hồ sơ đề nghị phát hành giấy tờ có
giá dài hạn của năm tài chính trình Thống đốc NHNN xem xét chấp thuận hoặc từ
chối không chấp thuận đề nghị của TCTD. Trong thời hạn không quá 15 ngày làm
việc, Thống đốc NHNN ra quyết định về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của
năm tài chính của TCTD.
4. Phương thức phát hành giấy tờ có giá
TCTD có thể thực hiện phát hành giấy tờ có giá theo các phương thức: trực tiếp
phát hành giấy tờ có giá, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành và đấu thầu giấy tờ có
giá.
- Trực tiếp phát hành giấy tờ có giá là việc TCTD tự tổ chức thực hiện phát
hành giấy tờ có giá cho người mua giấy tờ có giá2, phù hợp với đặc điểm, điều kiện
của TCTD.
- Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với TCTD
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành giấy tờ có giá nhận mua một phần
hay toàn bộ giấy tờ có giá của TCTD để bán lại hoặc mua số giấy tờ có giá còn lại
chưa được phân phối hết của TCTD phát hành hoặc hỗ trợ TCTD phát hành trong
việc phân phối giấy tờ có giá3.
- Đại lý phát hành là việc tổ chức đại lý phát hành thực hiện việc bán giấy tờ
có giá cho người mua giấy tờ có giá theo sự ủy quyền của TCTD phát hành 4. Khác
Khoản 19 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD.
3 Khoản 21 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD.
4 Khoản 20 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD.
10
2
với bảo lãnh phát hành, tổ chức đại lý phát hành thực hiện bán giấy tờ có giá cho
người mua giấy tờ có giá theo đúng cam kết với TCTD phát hành. Trường hợp không
bán hết, tổ chức đại lý phát hành được trả lại TCTD phát hành số giấy tờ có giá còn
lại.
- Đấu thầu giấy tờ có giá là việc lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự
thầu đáp ứng đủ yêu cầu của TCTD phát hành 5. TCTD phát hành giấy tờ có giá được
lựa chọn các phương thức đấu thầu sau: đấu thầu trực tiếp tại TCTD phát hành giấy tờ
có giá; đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian; đấu thầu thông qua Trung
tâm giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán. Đồng thời, TCTD cũng tự
quyết định hình thức đấu thầu giấy tờ có giá và xây dựng quy trình đấu thầu cụ thể
cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh doanh của TCTD và các văn bản pháp luật
có liên quan.
III. Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về phát hành giấy tờ
có giá của TCTD hiện hành trong 9 tháng đầu năm 2013
1. Thành tựu đạt được.
a) Về các quy định của pháp luật:
Trong thời buổi nền kinh tế hội nhập như hiện nay, khi với nhiều quốc gia trên
thế giới, việc phát hành các loại giấy tờ có giá của các TCTD là một hoạt động khá
phổ biến, thông dụng, được quy định cụ thể trong pháp luật mỗi nước thì Việt Nam
cũng không ngoại lệ. Vào năm 1994, một loạt các quyết định đã ra đời quy định về
giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD, cho phép các ngân hàng thương mại,
ngân hàng đầu tư phát triển được phát hành trái phiếu ngân hàng cho các tổ chức, cá
nhân Việt Nam để huy động vốn trung hạn và dài hạn trên thị trường vốn.
Sau đó, giao dịch phát hành trái phiếu ngân hàng và các giấy tờ có giá khác
tiếp tục được quy định trong Luật các TCTD ban hành ngày 12/12/1997 (được sửa
đổi, bổ sung một số điều năm 2004) và được cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật
5
Khoản 22 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD.
11
như Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân
hàng thương mại; Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 về tổ chức, hoạt
động của TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt Nam;
Quyết định số 1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 về việc ban hành Quy chế
phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước. Sau đó, văn bản này
đã bị thay thế bởi Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 về việc ban
hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước. Gần
đây nhất, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày
24/3/2008 về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD
thay thế cho Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN và Thông tư của NHNN số
16/2009/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế phát hành giấy
giờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐNHNN. Năm 2010, Luật các TCTD ra đời cũng điều chỉnh hoạt động phát hành giấy
tờ có giá của TCTD nói chung.
Việc kịp thời ban hành những quy định mới điều chỉnh hoạt động phát hành
giấy tờ có giá chính là sự khẳng định những nỗ lực đáng kể của NHNN trong việc kết
nối hoạt động huy động vốn của TCTD với thị trường chứng khoán Việt Nam vốn
đang gặp nhiều khó khăn trong thời điểm hiện tại. Rõ ràng, việc ban hành Quyết định
số 07/2008/QĐ-NHNN là cần thiết và đúng hướng. Văn bản này đã từng bước thiết
lập sự đồng bộ giữa các quy định về phát hành giấy tờ có giá của TCTD với các quy
định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc
biệt, văn bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn bản bị thay thế
chưa quy định hoặc quy định chưa rõ chẳng hạn như: quyền phát hành trái phiếu
chuyển đổi và chứng quyền của TCTD cổ phần; việc áp dụng cơ chế phát hành thông
qua phương thức đầu thầu, thông qua tổ chức làm đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo
lãnh phát hành chứng khoán… Những quy định của pháp luật trong hoạt động phát
hành giấy tờ có giá của TCTD chính là cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện hoạt
động này trên thực tiễn.
b) Thực tiễn áp dụng
12
Trong những năm gần đây hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy
tờ có giá của các TCTD ngày càng phổ biến, trở thành một kênh huy động vốn tương
đối quan trọng cho các TCTD. Trong 9 tháng đầu năm 2013, để đáp ứng nhu cầu huy
động vốn ngày càng đa dạng, các tổ chức tín dụng đã phát hành nhiều loại giấy tờ có
giá trên thị trường với thời hạn, mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển nhượng khác
nhau, như:
- Cuối tháng 8/2013, Hội đồng Quản trị Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu
Việt Nam - Eximbank đã thống nhất chủ trương phát hành riêng lẻ khoảng 10.000 tỷ
đồng trái phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi dài hạn. Loại giấy tờ có giá này có các kỳ hạn
là 2 năm, 3 năm và 5 năm. Thời gian phát hành dự kiến sau khi có giấy phép của
NHNN6.
- Cũng vào cuối tháng 8/2013, NHNN đã quyết định chấp thuận cho Ngân
hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) phát hành giấy tờ có giá dài hạn bằng VNĐ
năm 2013. Theo đó, VPBank được phát hành với tổng mệnh giá là 5.000 tỷ đồng. Lãi
suất giấy tờ có giá dài hạn phù hợp với các quy định hiện hành về lãi suất của NHNN
Việt Nam. Đối tượng mua giấy tờ có giá dài hạn là các tổ chức, cá nhân Việt Nam và
tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, đối tượng mua giấy tờ có giá dài hạn do
VPBank phát hành lần đầu trên thị trường sơ cấp không bao gồm các TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty con của các TCTD7.
- Ngày 16/09/2013, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
công bố đã bán hết tổng mệnh giá 3.150 tỷ đồng trái phiếu dài hạn để cấp vốn cho các
dự án lớn, dài hạn tại Việt Nam. Trái phiếu của BIDV có kỳ hạn 10 năm 1 ngày, được
phát hành ngày 30/8/2013. Lãi suất áp dụng cho 5 năm đầu là 10,5%/năm. Lãi suất áp
dụng cho thời hạn còn lại của trái phiếu sau 5 năm kể từ ngày phát hành nếu trái
phiếu không được BIDV mua lại là 11%/năm8.
Nghị quyết 340/2013/EIB/NQ-HĐQT của Hội đồng Quản trị Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu
Việt Nam ngày 30/8/2013 về vụ việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn Eximbank năm 2013.
7 VPBank được phát hành giấy tờ có giá dài hạn, />13
6
Có thể thấy hầu hết các TCTD đã tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục phát
hành các loại giấy tờ có giá. Về mặt lý thuyết, trình tự thủ tục này đã được NHNN
quy định một cách chặt chẽ trong Quy chế phát hành giấy tờ có giá. Mục đích của
NHNN qua việc quy định trình tự, thủ tục phát hành giấy tờ có giá của các TCTD đã
đạt được. Đó là mục đích thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động này của
TCTD. Về mặt thực tế, bất kỳ TCTD nào cũng muốn phát hành các loại giấy tờ có giá
một cách êm xuôi để huy động vốn. Do vậy, việc tuân thủ nghiêm chỉnh trình tự, thủ
tục phát hành giấy tờ có giá theo Quy chế là một điều cần thiết để tránh việc phát
hành “giữa đường đứt gánh”.
Bên cạnh hoạt động của các TCTD, cũng cần phải kể tới hoạt động có hiệu quả
của Thanh tra Ngân hàng trong việc thanh tra hoạt động phát hành giấy tờ có giá của
các TCTD. Thanh tra ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực tài
chính của các TCTD trước khi ra quyết định cho phép phát hành giấy tờ có giá. Trong
giai đoạn Chính phủ chỉ đạo NHNN Việt Nam thực hiện đẩy nhanh việc tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng thì Thanh tra ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tiết
chế các hoạt động thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN. Bản báo cáo kết quả
thanh tra 2 quý đầu năm 2013 cho thấy Thanh tra ngân hàng đã thực hiện tốt chức
năng thanh tra, kiểm sát các hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy
động vốn của ngân hàng.
Như vậy, việc phát hành giấy tờ có giá của các TCTD thời gian qua nhìn chung
đều tuân thủ khá chặt chẽ các quy định của pháp luật. Với một trình tự, thủ tục chặt
chẽ kết hợp với những điều kiện bắt buộc đối với các TCTD khi tiến hành hoạt động
phát hành giấy tờ có giá, hoạt động của các tổ chức này được đặt dưới sự kiểm tra,
giám sát của những cơ quan được Nhà nước quy định thẩm quyền. Từ đó, tạo nên
một trật tự ổn định, tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của các TCTD được
thuận lợi và theo đó đúng quy định pháp luật.
2. Hạn chế
8 BIDV bán hơn 3.100 tỉ đồng trái phiếu dài hạn, />
phieu-dai-han-20130916054710273p146c156.news
14
a) Về các quy định của pháp luật:
Có thể thấy, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhìn từ góc độ lý luận hay
thực tiễn thì các quy định hiện hành về hoạt động phát hành giấy tờ có giá còn tồn tại
nhiều hạn chế và bất cập. Cụ thể là:
- Về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành giấy tờ có giá: Trên nguyên tắc,
việc phát hành các giấy tờ có giá của TCTD chính là những thoả thuận vay nợ giữa
TCTD với khách hàng. Bởi, thực chất các giấy tờ có giá được phát hành theo Quy chế
phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD đều là những phiếu nợ do các TCTD
phát hành để cam kết hoàn trả một số tiền nhất định ghi trên giấy tờ có giá đó cho
người sở hữu vào một ngày nhất định trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi
phát hành giấy tờ có giá cho người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, TCTD không phải
là “người bán” giấy tờ có giá mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư (người vay), còn
khách hàng là tổ chức, cá nhân cũng không phải là “người mua” giấy tờ có giá theo
đúng nghĩa của từ này mà chỉ là người đầu tư gián tiếp vào TCTD bằng cách cho vay
đối với chủ thể này để được nhận một khoản lãi cho vay theo thoả thuận.
Tuy nhiên, các quy định hiện hành trong Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN lại
thể hiện quan điểm coi giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD như là một giao
dịch “mua bán” giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất là giao
dịch cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của TCTD.
- Về sự phân định giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD với hoạt
động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức khác không phải là TCTD:
Mặc dù Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN đã đặt nền móng cho việc nhất thể
hoá các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của TCTD, nhưng nét nổi bật dễ
nhận thấy trong văn bản pháp quy này là nhà làm luật vẫn chủ trương tách bạch giữa
hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD với hoạt động phát hành giấy tờ có giá
của các tổ chức khác không phải là TCTD. Điều này thể hiện ở chỗ, hiện tại, việc
phát hành các giấy tờ có giá của các chủ thể không phải là TCTD đang được thực
hiện theo quy định của Luật chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có
giá trong nước của TCTD để huy động vốn (trong đó chủ yếu là các trái phiếu ngân
15
hàng) thì vẫn được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban hành kèm theo
Quyết định này. Quy định như vậy là chưa thật sự hợp lý, bởi lẽ trái phiếu ngân hàng
thực chất cũng là một loại chứng khoán dài hạn nên về nguyên tắc cần phải được phát
hành và lưu thông trên thị trường chứng khoán, giống như cổ phiếu và trái phiếu công
ty hay trái phiếu chính phủ. Đặc biệt, việc phát hành hối phiếu nhận nợ của các
TCTD cho khách hàng (người cho vay), với ý nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn
hạn để huy động vốn, đồng thời tạo thêm “hàng hoá” cho thị trường tiền tệ, cũng
chưa được đề cập đến trong Quy chế này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu
đến Luật các công cụ chuyển nhượng.
b) Về thực tiễn áp dụng:
Điều kiện để phát hành giấy tờ có giá cũng là một trong những vấn đề được các
TCTD tuân thủ. Mặc dù vậy, vẫn còn các TCTD chưa tuân thủ đầy đủ các điều kiện
quy định tại Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của các TCTD. Các ngân
hàng TMCP với số trái phiếu huy động lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng thường đưa ra
được các báo cáo về kết quả hoạt động kinh doanh của năm liền kề trước năm phát
hành; tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến
thời điểm gần nhất của các TCTD. Tuy nhiên, những con số báo cáo do các TCTD
đưa ra có thể xem như không đáng tin cậy cho lắm. Bởi lẽ, với mục đích là phát hành
được giấy tờ có giá và huy động vốn, các TCTD sẵn sàng giấu đi các con số thực để
đưa ra các con số ảo. Ví dụ, Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) sau khi sáp
nhập với Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (HabuBank), tỷ lệ nợ xấu của SHB đã nhích
lên 2 chữ số. Vậy mà SHB vẫn đương nhiên phát hành các loại giấy tờ có giá để có
thể huy động vốn. Còn các TCTD nhỏ khi phát hành giấy tờ có giá thì việc tuân thủ
những điều kiện trong Quy chế chỉ dừng lại ở mức chống đối, hời hợt. Hơn nữa, giai
đoạn này là giai đoạn phục hồi, tái cấu trúc của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các
ngân hàng nhỏ. Do vậy, việc kiểm soát hoạt động của các ngân hàng nhỏ không chặt
chẽ cho lắm.
Các TCTD, đặc biệt là các ngân hàng thương mại vẫn có tổng nợ xấu rất lớn và
tình trạng giấu nợ vẫn tồn tại. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc thanh tra, đánh
16
giá hoạt động huy động vốn của TCTD, trong đó có hoạt động phát hành giấy tờ có
giá. Thống kê số liệu nợ xấu của các NH đã niêm yết trên sàn chứng khoán bao gồm:
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam(CTG), Ngân hàng TMCP Ngoại Thương
Việt Nam (VCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB), Ngân hàng TMCP
Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam (EIB), Ngân hàng TMCP Quân
Đội (MBB) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đã hiện ra những số nợ
ngàn tỷ đáng lo. Trong đó, đến thời điểm 30/06/2013, CTG là ngân hàng có tổng nợ
xấu lớn nhất với khoảng 7.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, SHB, với 5.288 tỷ đồng nợ xấu,
lại là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất khi chiếm 9,04% tổng dư nợ của nhà băng
này. Trong số các ngân hàng đã niêm yết thì tỷ lệ nợ xấu của SHB đang dẫn đầu với
9%, tiếp đến là Navibank với 6,1%. Các ngân hàng còn lại đều có nợ xấu dưới 3%
như ACB 2,99%; Sacombank 2,55%: Vietinbank 2,1%; Vietcombank 2,81%;
Eximbank 1,49%, MB 2,44%9. Những con số nêu trên chưa phản ánh chính xác tổng
số nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của các TCTD. Nhiều TCTD vẫn cố giấu nợ xấu khiến cho
việc xử lý khó khăn.
3. Một số giải pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động phát hành giấy tờ
có giá của TCTD:
- Nên tiếp cận việc phát hành giấy giờ có giá đúng với bản chất pháp lý của nó,
đó là những thỏa thuận vay nợ của các TCTD và khách hàng trên cơ sở những quy
định phù hợp.
- Cần rút ngắn thời hạn Thống đốc NHNN xem xét và ra quyết định về phát
hành giấy tờ có giá sau khi nhận được hồ sơ đề nghị phát hành của TCTD, cũng như
cần quy định chi tiết, cụ thể hơn về các trường hợp TCTD đề nghị phát hành vượt kế
hoạch đã được xét duyệt bổ sung thêm quy định về giới hạn mệnh giá tiền giấy có giá
mà TCTD được phát hành.
- Cần thống nhất các quy chế về phát hành tiền có giá của TCTD với Luật
chứng khoán 2006, dần đưa việc phát hành giấy giờ có giá của TCTD và các tổ chức
9 Nợ xấu vẫn rất xấu và cố giấu, />
17
khác vào điều chỉnh chung bởi một hành lang pháp lý. Điều này sẽ hạn chế các bất
cập đang tồn tại của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, cần minh bạch trong việc xem xét các nợ xấu và đề ra các biện pháp
kiểm soát và xử lý nợ xấu
- Các TCTD đặc biệt là các ngân hàng thương mại cần phải nghiêm túc xem
xét lại việc cơ cấu lại nợ cho các khách hàng của mình trên cơ sở tình hình tài chính
cụ thể của họ và xác định lại khả năng trả nợ để cơ cấu lại nợ. Qua đó vừa phản ánh
đúng thực trạng nợ xấu của mình, đồng thời tạo điều kiện để những khách hàng trả
được nợ và vay vốn mới, tránh phát sinh nợ xấu. Hiện nay, rất nhiều khoản nợ xấu
được bảo đảm bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản lại đang rơi vào
trầm lắng. Hơn thế, bảo đảm nợ bằng tài sản cũng đồng nghĩa là chấp nhận sự giảm
dần giá trị theo thời gian và thị trường. Như vậy thì chính giá trị của khoản nợ xấu
cũng giảm theo, trong khi rủi ro ngày càng tăng cao, chi phí xử lý ngày càng lớn.
Chịu thiệt đầu tiên sẽ chính là ngân hàng.
- NHNN tổ chức rà soát, đánh giá, phân loại các khoản nợ xấu để có giải pháp
xử lý phù hợp; đồng thời chỉ đạo các TCTD tích cực chủ động triển khai các giải
pháp xử lý nợ xấu và hạn chế nợ xấu gia tăng của TCTD.
- Các TCTD đặc biệt là các ngân hàng thương mại chủ động tìm ra và áp dụng
các giải pháp kiểm soát và xử lý nợ xấu phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của
TCTD mình.
Thứ ba, tăng cường giám sát hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD:
- Chủ động rà soát chương trình thanh tra, giám sát để điều chỉnh, bổ sung phù
hợp với nhiệm vụ và tình hình mới, phối hợp với các đơn vị liên quan đánh giá hoạt
động của hệ thống các TCTD và của từng TCTD, phân nhóm các TCTD theo mức độ
an toàn để đưa ra các biện pháp thanh tra, giám sát phù hợp.
- Thanh tra ngân hàng cũng sẽ tiến hành thanh tra tại một số TCTD về quản trị
điều hành, chấp hành tỉ lệ an toàn, quản trị rủi ro, hoạt động kiểm toán và kiểm soát
nội bộ, việc thực hiện các khuyến nghị của kiểm toán độc lập, các nội dung kết luận
của các đoàn thanh tra, thanh tra việc mở rộng mạng lưới, tăng vốn điều lệ của các
18
TCTD, rà soát và đánh giá việc chấp hành các quy định về chế độ thông tin, báo cáo
của các TCTD.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, phát hành giấy tờ có giá là giải pháp huy động vốn khá
dễ dàng và thuận lợi của các tổ chức kinh tế nói chung và tổ chức tín dụng nói riêng
từ công chúng. Tuy nhiên, về phương diện học thuật, do việc phát hành giấy tờ có giá
là loại hình giao dịch mới xuất hiện ở nước ta trong thời gian gần đây, lên hiệu quả
hoạt động chưa thật tối ưu. Trên đây là bài làm của em mong thầy cô đọc và góp ý
kiến cho em hoàn thành tôt hơn nữa bài làm của mình. Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2012.
2. Luật các TCTD năm 2010.
3. Quyết định của Thống đốc NHNN số 07/2008/QĐ-NHNN về việc ban hành
quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD.
4. Thông tư của NHNN số 16/2009/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của quy chế phát hành giấy giờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm theo
Quyết định của Thống đốc NHNN số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008 về việc
ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD.
5. ThS. Trần Vũ Hải, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2010.
6. TS. Nguyễn Văn Tuyến, Giao dịch thương mại của Ngân hàng thương mại
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.
19
7. Một số trang web:
/>
20